Chương 8

     ối hôm đó, Jossi có về nghiêm trọng hơn thường nhật. Ngồi cạnh Sarah trên bao lơn căn nhà ba phòng xinh xắn, chàng im lặng ngắm bờ biển Địa Trung Hải giữa Tel-Aviv dưới chân chàng và Jaffa ở phía xa. Đột nhiên chàng nói:
- Nghe này em, anh vừa có một quyết định. Vừa rồi đây, mọi người yêu cầu anh lấy một tên bằng tiếng hébreu và chỉ nói tiếng hébreu thôi.
Sazah kêu lên:
- Chuyện gì kỳ quá! Chính anh đã có lần nói rằng không bao giờ người ta có thể làm sống lại một từ ngữ.
- Quả anh có nói thế. Anh cũng còn đã từng nghĩ rằng không bao giờ một dân tộc có thể làm sống lại quốc gia đã mất của mình. Dầu vậy, đó là điều chúng ta đang làm. Khi anh nghĩ tới sự phát triển tuyệt đẹp của Shohanna và các Kibboutzim khác...
Nàng ngắt lời:
- Chính em đang muốn nói về Shoshanna... Em đánh cá là anh muốn lấy một tên hébreu chỉ vì em trai anh đã làm như vậy. Bây giờ chú ấy tên là gì?
- Akiba. Để tưởng nhớ đến thần tượng của chú ngày xưa.
- Mong rằng thần tượng hồi nhỏ của anh là Bismark. Thật thú vị khi có chồng, chồng lại mang tên Tể tướng Đức quốc.
Chàng la:
- Quả thực chịu không nổi em đó. Đôi khi tự anh hỏi không biết em về Palestine làm gì. Nếu chúng ta phải học suy tưởng như chúng ta đã có một quốc gia, chúng ta cũng phải học nói quốc ngữ của chúng ta.
- Đó là điều chúng ta đang làm. Bởi vì chúng ta nói tiếng Yiddish...
Chàng phản đối:
- À, không. Chỉ những kẻ lưu đày, những kẻ ở ghetto mới nói Yiddish. Những người Do Thái Palestine, tất cả những người Do Thái đã trở về quê hương đều nói tiếng hébreu.
Tinh nghịch, nàng chọc ngón tay trỏ vào ngực ông chồng vĩ đại:
- Thôi xin bồ đừng có kể cho tôi nghe các khẩu hiệu mới nhất của phong trào phục quốc của Do Thái nữa. Đối với tôi, bồ cũng là Jossi Rabinsky.
- Em lầm rồi, Sarah. Dầu sao thì anh cũng quyết định rồi. Tốt nhất em bắt đầu học ngay hébreu: kể từ giờ chúng ta chỉ nói chuyện với nhau bằng thứ tiếng này mà thôi.
- Quyết định của anh hoàn toàn khôi hài!
Hai người đều giữ vững lập trường, thế là chiến tranh bùng nổ. Trong ba tuần lễ liền, Sarah cấm chồng không được vào phòng ngủ. Chàng phải đối lại bằng cách chỉ nói bằng hébreu. Dĩ nhiên là không trả lời bằng Yiddish.
Dầu thế, một buổi tôi nàng mở cửa phòng gọi:
- Anh Jossi! Lại giúp em một chút...
- Xin lỗi em, ở đây không có ai tên là Jossi hết. Nếu em nói với tôi thì tên tôi là Barak Ben Canaan.
- Cái gi? Anh nói sao?
- Em thừa hiểu anh nói gì rồi. Anh đã nghĩ rất lâu để tìm một tên hợp với anh. Theo tiếng hébreu, Barak nghĩa là “chớp”, dân Ả Rập gọi roi da của anh như vậy đó. Và anh lấy họ là Canaan bởi vì anh trên núi Canaan...
Sarab đóng sập cửa trước mũi chàng. Trong suốt một tuần lễ, hai địch thủ đối đầu nhau trong im lặng.
Một đêm, khi cuộc tiểu chiến đã kéo dài cả tháng rồi, Barak trở về nhà sau một buổi họp hết sức mệt nhọc. Đại hội đồng phục quốc nhóm họp ở Jérusalem. Đại hội đã kéo dài ba ngày - ba ngày bàn cãi ác liệt và thảo luận say mê. Mệt nhoài, Barak đã hy vọng Sarah sẽ chờ chàng về, pha cho một ly trà và nói chuyện cùng chàng. Nhưng Sarah đã vào phòng ngủ nằm, cửa phòng đóng kin. Chàng thở dài, tháo giày, nằm co quắp trên chiếc divan ở phong khách quá ngắn cho một người cao lớn như chàng. Chàng bắt đầu thiếp đi khi một làn sáng lọt qua kẽ mi. Đi rón rén trên đầu ngón chân, Sarah lướt nhẹ đến divan, quỳ xuống đặt đầu lên ngực chàng và thì thào bằng hébreu:
- Em yêu anh, Barak Ben Canaan. Em yêu anh biết bao.
Trở thành một trong những lãnh tụ được mọi người nghe theo nhất của phong trao phục quốc, Barak Ben Canaan phục vụ không tiếc công sức, đảm nhiệm song phương các công tác tổ chức và điều đình bao giờ cũng tế nhị với các nhà cầm quyền Thổ và các cheik [1] Ả Rập. Rất nhiều lần, có Sarah đi cùng, chàng sang Luân Đôn, nơi đặt cơ quan đầu não của phong trào phục quốc, hay sang Thụy Sĩ dự các buổi hội họp quốc tế. Tuy thế, chàng không tìm được niệm hạnh phúc mà em chàng, Akiba, đã tìm thấy ở Shoshanna. Ước vọng lớn của chàng - lập nghiệp ở phía bắc ngọn Canaan, trong thung lũng Houleh - vẫn chưa được thỏa mãn. Rất buồn vì thấy chồng tiếc nuối như thế, Sarah hết sức muốn mang lại cho chàng một bù trừ sinh con. Nhưng tạo hóa đã khước từ không cho nàng hưởng niềm vui này: trong năm năm liền, nàng sẩy thai liên tiếp.
Thất vọng này lại càng cay đắng hơn nữa vì Bark đã tới tuổi bốn mươi lăm...
Trong thời gian đó, các biến cố chính trị xảy ra dồn dập. Năm 1908, cuộc nổi dậy của Giới Trẻ Thổ đã truất phế Abd Ul Hamid II, một ông vua già thối nát, để thay thế bằng Mohammed V. Vụ thay bậc đổi ngôi này đã làm cho sự hy vọng của người Do Thái Palestine sớm bị tiêu tan: Thừa hưởng một đế quốc lung lay, Mohammed không hề muốn ban cho xứ Palestine một qui chế tự trị, bảo đảm cho sự hiện hữu hợp pháp và một đường lối chính trị của một quốc gia Do Thái. Ngược lại, Anh quốc tiếp tục biểu lộ một cảm tình sâu đậm với chính nghĩa Do Thái. Đến nỗi, đối với các người trong phong trào phục quốc cùng phát ngôn viên của họ là bác sĩ Chaim Weizmann, con đường phải theo coi như đã được vạch rõ: giữa Thổ Nhĩ Kỳ, “con bệnh của Âu châu”, khước từ tất cả mọi trợ giúp, còn Anh quốc, địa vị tại Trung Đông mỗi ngày một thêm vững chắc, nên họ chọn lựa Anh quốc.
Dầu thế nào đi nữa, sự sụp đổ toàn diện của Đế quốc Thổ chỉ còn là vấn đề thời gian.
Lúc đó, đệ nhất thế chiến xảy ra.
Các quốc gia đồng minh Âu châu, sốt ruột muốn chia xẻ các mảnh đất của Thổ ở Âu châu, đã bực tức và ngạc nhiên khi nhận ra Đế quốc Thổ chẳng những không sụp đổ, mà còn tỏ ra là một địch thủ đáng kể nữa. Quân Nga bị chặn đứng ở biên thùy Caucase. Tại Trung Đông, quân Thổ khởi hành từ các vị trí của mình tại Palestine, đã vượt sa mạc Sinai để tiến đến kênh Suez, mạch máu chính của Đế quốc Anh.
Cuống lên, người Anh xúi dục dân Ả Rập nổi loạn hứa sẽ cho họ độc lập để đổi lại sự ủng hộ chống lại Thổ. Nhưng dân Ả Rập lại muốn chờ xem gió quay chiều nào đã. Và dân Ả Rập cũng không thèm nghe những lời kêu gọi điên cuồng của Mohammed V, lãnh tụ tinh thần thế giới Hồi giáo, đã tuyên bố thánh chiến chống lại Anh quốc. Luân Đôn đành bỏ tiền ra tìm cách mua chuộc kẻ địch vậy. Và Anh lại đóng vai trò truyền thống là làm mồi. Con cá cắn lưỡi câu lần này rất to: émir [2] của La Mecque, “kẻ coi giữ các Thánh địa của Hồi giáo”, con người nhiều tham vọng đã thấy mở ra trước mặt mình những viễn ảnh huy hoàng. Sự chấm dứt triều đại Mohammed V cùng dân Thổ phải chăng sẽ cho phép ông mở rộng quyền bính ra toàn thế giới Ả Rập chăng? Chưa kể một nửa triệu đồng livre bỏ túi đã...
Vậy là vị émir bước sang hàng ngũ Anh, hứa sẽ xúi dục các bộ lạc trong sa mạc nổi dậy chống lại Thổ. Trong nhiệm vụ này, ông được người con phụ tá, đó là Faycal, một trong những lãnh tụ Ả Rập hiếm có, Faycal có ý thức về xã hội và trí xét đoán của một chính khách.
Còn về những dân Do Thái ở Palestine, Anh quốc khỏi cần phải mua chuộc. Sự ủng hộ của họ coi như là có rồi. Và họ ủng hộ mạnh đến nỗi ngay lúc chiến tranh mới bùng nổ, họ đã công khai đứng về phía Anh quốc, kẻ thù của Thổ.
Sự trả đũa của Thổ xảy ra ngay lập tức: Kemal Pacha, được bổ nhiệm làm Thống đốc tỉnh Palestine, quyết định khủng bố toàn diện cộng đồng Do Thái.
Barak Ben Canaan được báo tin vào giờ chót là chàng và Akiba nằm trong sổ đen của Mật vụ Thổ: điều đó có nghĩa là sẽ bị giết. Chàng chỉ còn tối đa sáu giờ đồng hồ để chạy trốn. Chưa chi tổ chức địa phương của phong trào phục quốc đã bị dẹp bỏ. Sarah hỏi:
- Chúng ta còn bao nhiều lâu?
- Chúng ta phải ra đi trước khi trời sáng. Em thu xếp ngay một va-li thôi, đừng lớn quá. Chúng ta phải bỏ lại tất cả.
Dựa lưng vào tường, nàng máy móc đưa tay xoa bụng. Có mang sáu tháng rồi, nàng cảm thấy cai thái cựa quậy rõ rệt hơn các lần mang thai trước. Nàng nghĩ: “Năm lần sẩy rồi, và bây giờ...”
- Em không muốn đi. Không thể được... Em không thể...
- Sarah! Không phải lúc.
Nàng rời tường để lao vào vòng tay chàng.
- Anh Barak, hiểu cho em.... em không muốn mất đứa con này... em không thế nào chịu nổi...
Chàng thở dài.
- Em không thể nào ở lại đây được đâu, Sarah. Nếu tụi Thổ đến bắt em... anh không muốn tưởng tượng đến những gì xảy đến cho em.
- Nếu em chạy theo anh, em không thế nào giữ cái thai này được. Con của chúng ta, anh!
Chàng gỡ tay nàng ra, rồi chậm chạp cột lại cai túi đi đường.
- Hứa với anh là em lập tức lên đường đi Shoshanna. Ở đó, thím Ruth sẽ chăm sóc em. Nhớ đừng có lại quá gần những con bò cái yêu quý của thím ấy!
Chàng hôn nàng và Sarah nhót gót lên để bám được vào vai chồng.
- Shalom, Sarah. Anh yêu em.
Chàng quay nhanh người lại, và từ giã.
Akiba và Bark chạy trốn sang Le Caire, nơi ông bạn Trumpeldor, người chiến binh cụt tay, đang thành lập một đơn vị Do Thái gốc Palestine. Sau này, tiểu đoàn này đã tham dự vào cuộc đổ bộ của Đồng Minh vào Gallipoli cùng cuộc mở đường thất bại qua eo biển Dardanelle. Trong khi rút lui, Akiba bị một viên đạn vào ngực. Được đưa trở về Ai Cập và tiểu đoàn sau đó bị giải tán. Akiba và Barak lên đường đi Luân Đôn, nơi một đoàn viên phục quốc khác tên là Jobotinsky đang mộ người Do Thái tình nguyện để lập một đạo quân quan trọng hơn. Nhưng cả hai anh em đều không được tham dự vào đơn vị mới này: Akiba, vết thương lâu lành lại được gửi sang Hoa Kỳ đi thuyết trình. Còn Barak, hữu ích gì để làm người bộ binh tầm thường, nên tiến sĩ Weizmann đưa chàng vào trong ê-kíp lo các vụ thương thuyết về chính trị.
Quân Anh lúc đó vừa bị một loạt thất trận nghiêm trọng tại Trung Đông. Tướng Maud, sau khi đã chiến thắng “oai hùng” vài đơn vị Thổ gồm toàn dân Ả Rập, đã chạm phải cả một sư đoàn Thổ và đơn vị này đã đánh đơn vị ông tan tành. Lúc bây giờ, tại phía Nam quân Thổ đe dọa trực tiếp kênh Suez; và ở Âu châu, quân Đức đã đánh tan đạo quân Nga ở tuyến đầu!
Còn về giấc mơ của Anh là có một cuộc nổi dậy của Ả Rập chống lại Đế quốc Thổ, chưa bao giờ lại có thể khó như lúc này. Quả thực vậy, người Ả Rập nghi ngờ Luân Đôn và Ba Lê đang bí mật chuẩn bị một thỏa ước chia đôi thế giới Hồi giáo giữa hai cường quốc đó!
Chaim Weizmain ý thức rằng phong trào phục quốc Do Thái phải khai thác tình hình trên để tiến một bước quyết định. Chưa bao giờ Anh quốc lại cần trợ giúp và ủng hộ đến như vậy. Một mặt khác, chính phong trào phục quốc cũng tìm một phương cách để lôi cuốn những người Do Thái cư ngụ tại các nước khác, nhất là Hoa Kỳ; vào phong trào chung.
Bởi thế, sau một thời kỳ thương thuyết gay go, Lord Balfour, Tổng trưởng Ngoại giao Anh quốc, gửi cho Lord Rothschild một bưu điệp trong đó ông nói ;
Chính phủ của Đức Vua đang cứu xét một cách thuận lợi việc thành lập ở Palestine, một quốc gia cho dân tộc Do Thái, và sẽ cố gắng dành mọi sự dễ dàng cho việc thực hiện dự án này.
Phong trào phục quốc Do Thái sau cùng, có được Đại Hiến Chương của mình!
Chú thích:
[1] Cheik: tù trưởng Ả Rập
[2] Émir: tiểu vương Ả Rập (xem 14)