Dịch giả: THẾ UYÊN
Chương 6

     hatham House
Viện Giao tế Quốc tế
Luân-Đôn
 
Nhà chuyên viên của chính phủ Đức Vua về những vấn đề Trung Đông, Cecil Bradshaw từ ba ngày nay đang cố gắng tổng kết rất nhiều bá cáo đang về tràn ngập văn phòng ông. Trong ba mươi bẩy năm phục vụ, tin tưởng chắc chắn ở sự cần thiết phải hòa hợp với người Ả-rập, ông đã gỡ rối nhiều vụ rắc rối, và kết thúc biết bao là âm mưu, bôi xóa che giấu rất nhiều vụ bội phản và xăng-ta của các bạn đồng minh yêu quí phương đông ấy của ông. Tuy vậy, lần này, các rắc rối đó đã vượt mức. Các hội nghị bàn cãi bất tận ở Luân-đôn đã chấm dứt bằng một thảm bại toàn diện. Đáp ứng với thái độ tiêu cực, điên khùng của những người Ả-rập là hành động khủng bố của các Macchabée, các tay liều mạng đáng sợ nhất mà người Anh phải chống lại từ xưa đến nay.
Mặc dù các lời yêu cầu khẩn cấp và nhắc đi nhắc lại nhiều lần, (Trung ương) Phục quốc Do-thái vẫn khước từ không chịu trợ giúp chức quyền Anh chiến đấu chống lại các phần tử sát nhân kết hợp dưới danh xưng là các Macchabée. (Trung ương) quả quyết là họ không có quyền hành gì đối với bè lũ mà họ tuyên bố kết án công khai này. Vậy mà một phần khá lớn cộng đồng Do-thái lại tán đồng bí mật đường lối khủng bố của các Macchabée mà hoạt động đã lan rộng đến tỉ lệ mà chúng tôi xin khuyến cáo tản cư tất cả những người Anh nào mà sự hiện diện không là tối cần thiết ở Palestine.
Hay đây nữa:
Cuộc đột kích vào xưởng lọc dầu ở Haïfa đã làm chúng ta thiệt hại mất hai tuần lễ sản xuất. Cuộc tấn công phi trường Lydda đã cho phép tụi khủng bố phá hủy một phi đội khu trục cơ đang đậu dưới đất. Ngoài ra chúng tôi còn ghi nhận phục kích qui mô cùng mười lăm trận đột kích quan trọng vào các cơ sở của chúng ta. Theo các tin tức đã được phối kiểm, Haganah cùng đoàn xung kích của họ là Palmach, cũng đã bắt đầu hoạt động mạnh. Có thể chính họ cũng đã tham dự vào các trận đánh đã liệt kê trên.
Ở một đoạn khác:
Mặc dù đã tăng cường cho các đơn vị hải quân tuần duyên, hoạt động của Mossad Aliya Bet đã gia tăng rất nhiều kể từ vụ Exodus. Sáu tầu đã thành công trong việc phá phong tỏa và đổ bộ chừng tám ngàn di dân nhập nội bất hợp pháp. Theo các báo cáo của các sứ quán và lãnh sự quán của chúng ta ở các quốc gia ven Địa trung hải, Mossad đang trang bị ít nhất là năm tầu nữa.
Và để bổ túc cho đủ bảng tình hình đen tối trên:
Kể từ khi chúng ta khước từ không chịu nhận các khuyến cáo của ủy ban Anh-Pháp đề nghị cho nhập nội thêm một trăm ngàn người Do-thái nữa vào Palestine, uy tín của Anh quốc đối với các bạn đồng minh đã suy giảm rất nhiều, nhất là vì các thất bại tủi nhục mà một số hành động do các Macchabée đã gây ra cho chúng ta. Cũng vì thế vụ bắt cóc mới đây là một thẩm phán Anh vừa kết án một tay khủng bố Do-thái, đã làm suy sụp thêm những gì còn lại của uy tín chúng ta.
Bradshaw đẩy hồ sơ sang một bên, tháo kính và lấy khăn lau trán. Quả là một vụ lộn xộn thảm hại! Quả thực vụ ủy trị xứ Palestine dám chấm dứt bằng một thảm họa. Dầu thế...Vị trí chiến lược của cái xứ bé nhỏ này, trên cả phương diện quân sự lẫn chính trị, có một sự quan trọng chính yếu. Với căn cứ hải quân Haïfa ở ngay kế cận kênh đào Suez, Palestine là trụ của cả Đế quốc. Do đó, cần phải giữ, cần phải bảo vệ xứ này với bất cứ giá nào.
Điện thoại nội bộ reo. Bradshaw cầm máy lên.
- Thưa Ngài, Đại tướng Tevor-Browne đã đến.
- Mời ông ấy vào.
Hai người chào nhau với vẻ lạnh lùng rõ rệt. Tevor-Browne chưa bao giờ giấu giếm cảm tình thân Do-thái của mình. Khác với Bradshaw và gần như toàn thể Thuộc địa vụ, ông cho rằng Anh quốc phải nương tựa ở Trung Đông, không phải thứ thiện chí vì tiền và hay thay đổi của người Ả-rập, mà vào một liên minh chắc chắn với những người phục quốc Do-thái, bạn trung thành và đáng kính. Ông còn đề nghị tới cả việc biến ủy trị Palestine thành một Quốc gia Do-thái nằm trong Khối Thịnh Vượng Chung.
Bradshaw nói:
- Tôi vừa đọc lại bản tóm tắt các tờ trình mới nhất.
Tevor-Browne châm một điếu xì gà, nhận xét:
- Sự đọc rất là hữu ích. Nếu những người Do-thái muốn làm chúng ta vui lòng, họ sẽ lùi thẳng xuống biển. Nhưng đáng tiếc thay là họ không hề muốn làm như thế.
Bực dọc, Bradshaw lấy tay gõ nhịp xuống bàn.
- Sir Clarence, tôi xin đại tướng miễn cho những lời ám chỉ. Tôi yêu cầu đại tướng đến đây để cùng xét xem có nên duy trì Haven-Hurst hay thay thế ông ta bằng một người khác cương quyết hơn. Theo ý tôi, đã tới lúc thay đổi thái độ của chúng ta đối với người Do-thái.
- Đối với tôi, Haven-Hurst hoàn toàn thích hợp với công cuộc ngài dự trù - ngoại trừ khi ngài thích dùng tới một vài tướng lãnh S.S. Nhưng cũng xin ngài đừng quên cho rằng chúng ta vẫn còn một chính quyền dân sự ở Palestine, dưới quyền của một cao ủy đại nhân.
Đỏ bừng mặt, Bradshaw phải hết sức cố gắng mới trấn áp được mình. Những ngày gần đây đã làm thần kinh ông phải trải qua một thử thách khó nhọc. Ông nói:
- Tôi có ý định cho tăng thêm quyền hành cho tướng Haven-Hurst. Tôi đã chuẩn bị một dự án...
Ông đưa một tờ giấy cho Tevor Browne. Đó là một bức thư gửi cho Tư lệnh các Lực lượng Anh quốc đồn trú tại Palestine, trong đó Luân-đôn trao phó cho tướng Haven-Hurst chuẩn bị toàn thể các biện pháp “có thể mang lại ngay lập tức trật tự tại Palestine”. Tevor Browne lắc đầu.
- Công thức nghe hay lắm. Tôi chắc chắn rằng ngài sẽ thấy những đề nghị của Haven-Hurst hết sức là đáng chú ý - nếu ngài là người thích đọc những truyện kinh khủng toát mồ hôi lạnh.
Safed (Palestine)
Sau khi tầu Exodus nhổ neo vài ngày, việc cho Sutherland hồi hưu được thực hiện rất là kín đáo. Sutherland lập tức đi ngay Palestine để đến ở trong một biệt thự đẹp đẽ trên sườn ngọn Canaan cách Safed năm cây số, thành phố thánh nằm ở đường vào thung lũng Houleh.
Lần đầu tiên kể từ nhiều năm nay - nói cho đúng hơn, kể từ khi bà mẹ chết - Sutherland được biết tới thứ hạnh phúc của một tâm hồn thanh thản toàn diện. Lần đầu tiên ông có thể đi ngủ mà không sợ bị giật mình thức tỉnh vì một cơn ác mộng. Biệt thự của ông quả là một tiểu thiên đường. Một cơn gió nhẹ mát thường xuyên thổi vào nhà, ngôi nhà trắng mái ngói đỏ, nền lát đá đen, và sau hàng hiên nhà, là một khoảng đất rộng bốn sào trải ra như một thềm cao. Ông định biến khu đất thành vườn cảnh, bao quanh bằng bốn trăm cây hoa hồng xứ Galilée.
Ngày ngày ông cuốc vườn, đi thăm rất nhiều thánh địa trong vùng, học tiếng Ả-rập và tiếng hébreu, hay lang thang trong muôn ngàn con đường hẻm nhỏ của thành phố Safed. Khu Do-thái, chiếm chừng một phần mười thành phố này, chứa đựng một cộng đồng toàn đàn ông rất sùng đạo và rất nghèo, sống tằn tiện qua ngày bằng các khoản tiền phước thiện do các đồng đạo giầu hơn gửi tặng. Trong trung tâm của Kabbalah này, một giáo phái thần bí của Do-thái giáo, mọi người chỉ sống để cầu nguyện và nghiên cứu kinh thánh. Trong một xứ mà nội chiến đang bùng nổ dữ dội từ bắc chí nam, các tín đồ của Kabbalah ở Safed vẫn cương quyết sống một cuộc đời bình an, như ở ngoài thế gian, dù rằng lối sống này đặc biệt làm họ dễ hứng chịu những cơn cuồng nộ sát nhân của đám quần chúng do mufti xúi giục.
Thành phố Ả-rập thì bao gồm những nhà lụp xụp thường thấy trong bất cứ nơi thị tứ nào của thế giới Hồi giáo Trung Đông. Tuy vậy, khí hậu đặc biệt và cảnh đẹp đã làm cho nhiều effendi xây cất ở đây nhiều nhà ở rộng rãi và sang trọng. Sutherland biết cách kết bạn với cả người Ả-rập lẫn Do-thái.
Ngoài các cổ tích, như giáo đường các Nữ tử của Jacob xây cất trên di tích hoang tàn của một tu viện của các Thập tự quân Hung-gia-lợi, Safed còn có cả một bảo ngọc nữa: đó là acropole. Các con đường nhỏ leo lên đồi chạy qua một Kraal của các hiệp sĩ giáo phái Temple và các di tích của một chiến lũy của người Hébreu. Đỉnh cao nhất nhô lên khỏi một rừng tùng, từ đó cho ta một quang cảnh duy nhất, đi từ hồ Tibériade phía nam đến tận giòng Jourdain. Rất xa ở chân trời là hình dáng cô đơn của ngọn Hebron. Trong khung cảnh của một vẻ đẹp toàn thiện này, chỉ có một đồn Taggart nằm trên đường dẫn lên đỉnh Canaan.
Một buổi chiều, sau khi đi dạo thăm Gan Dafna về, Sutherland ngạc nhiên khi nhận thấy viên sĩ quan tùy viên cũ của mình, thiếu tá Caldwell, đang ngồi đợi ở thềm hiên.
- A, anh Fred! Anh sang Palestine từ bao giờ vậy?
- Dạ, các vài hôm rồi. Thượng cấp đã bổ nhiệm tôi vào ngành phản tình báo thuộc bộ Tư lệnh. Tôi được trao phó nhiệm vụ liên lạc với An ninh. Họ vừa bị một vụ nặng: hình như một số sĩ quan đã mật báo các tin tức cho Haganah, và cho cả Macchabée nữa. Ngài có thể tưởng tượng nổi một điều như vậy không?
Sutherland tưởng tượng nổi điều đó dễ dàng lắm, nhưng ông thích giữ im lặng hơn là nói ra. Caldwell nói tiếp:
- Chiều nay, việc tôi đến thăm viếng ngài có một tính cách hơi chính thức một chút. Nhưng cũng xin ngài ghi nhận cho là dù không có là thế, tôi cũng vẫn cứ tới đây để vấn an ngài. Nhưng vì trước đây tôi đã có vinh dự được phục vụ dưới quyền ngài... Nói tóm tắt, đại tướng Haven-Hurst đã trao phó cho tôi nhiệm vụ tới đây. Chắc ngài cũng đã được biết chúng tôi đang chuẩn bị chiến dịch Polly: di tản tất cả những người Anh không là tối cần thiết cho Palestine...
Sutherland ngắt lời:
- Tôi đã nghe thấy mọi người gọi cuộc hành quân này là “Điên đi”.
Caldwell nở một nụ cười lễ độ trước khi nói tiếp:
- Đại tướng Haven-Hurst mong được biết dự tính của ngài.
- Tôi chẳng có dự tính nào cả. Tôi đang ở nơi đây, nhà tôi, và tôi dự tính tiếp tục ở nhà của tôi.
Caldwell nằn nì:
- Đại tướng Haven-Hurst muốn nhấn mạnh với ngài là một khi cuộc di tản đã hoàn tất, đại tướng sẽ không còn đủ sức bảo vệ an ninh cho ngài nữa. Việc ngài cư ngụ tại Safed đã tạo rất một vấn đề... một vấn đề tế nhị...
Sutherland gật đầu: hiển nhiên là Haven-Hurst đã hay biết các cảm tình của ông đối với phục quốc Do-thái và sợ ông sẽ mang kinh nghiệm quân sự ra giúp cho Haganah.
- Thiếu tá nói hộ với đại tướng là tôi xin cám ơn lòng ân cần của đại tướng đối với tôi, và tôi rất thông cảm với địa vị của đại tướng.
Caldwell bĩu môi và định thử nhắc lại vấn đề. Nhưng chàng không có thì giờ để khai triển các luận cứ của mình. Sutherland đã đứng dậy, nhờ chàng chuyển lời hỏi thăm đại tướng và tiễn chàng đến tận đường, nơi một chiếc xe tham mưu đang đợi dưới sự canh gác của một trung sĩ. Dựa vào cột ngoài cổng, Sutherland nhìn chiếc xe đi xa dần về phía đồn Taggart. Một lần nữa anh chàng Fred đáng thương này lại “hư sự” nhiệm vụ mình.
Đi từng bước nhỏ chậm rãi trở về biệt thự, Sutherland suy nghĩ. Về một điểm nào đó, Haven-Hurst chắc chắn là có lý: mạng sống của ông đang lâm nguy. Nếu Haganah hoàn toàn thích thú trong việc giao thiệp với ông, thì các Macchabée lại rất dễ nghĩ đến việc thanh toán một tướng lãnh Anh hồi hưu thường hay giao thiệp với Ả-rập. Cũng như bất cứ một tay giết người nào của mufti cũng có thể bực tức khi thấy ông giao thiệp với người Do-thái. Chưa kể đến chuyện có thể rằng trong những người Do-thái ông giao thiệp, có trà trộn vài đoàn viên của Macchabée, và như vậy sẽ là cả một hoàn cảnh hết sức rắc rối...
Ông xuống vườn. Những bông hồng đầu tiên đã nở, đêm vừa xuống bao phủ thung lũng. Sutherland cảm thấy những lo ngại của ông tiêu tan trước bao vẻ đẹp và an bình. Không, ông sẽ không ra đi, dầu là ngày mai hay một ngày xa hơn.
Vừa tới đồn, Caldwell đã được mời lên phòng An ninh Quân đội.
- Thiếu tá có về ngay Jérusalem bây giờ không?
Caldwell coi đồng hồ.
- Có. Khởi hành ngay bây giờ, tôi có thể về kịp đó trước khi trời tối hẳn.
- Tốt lắm. Ở đây chúng tôi có một tên Do-thái cần phải đưa về trụ sở An ninh. Một Macchabée - một tên rất nguy hiểm. Thế mà các bạn của hắn biết chúng tôi đang giữ hắn và trong trường hợp đúng như vậy, bọn chúng có thể tổ chức một cuộc phục kích đoàn xe chở tên này về. Chính vì thế áp tải hắn về trụ sở bằng một xe thường có lẽ tốt hơn.
- Rất vui lòng được giúp các ông ở đây.
Viên thanh tra mở cửa và ra lệnh. Hai binh sĩ tiến vào, lôi theo một anh chàng bé con chừng mười bốn mười lăm tuổi. Tay chân đều bị xiềng xích, mặt đầy vết đấm đá thâm tím, một băng keo dán kín miệng, rõ ràng là hắn đã bị thẩm vấn đúng mức. Viên thanh tra tiến đến trước mặt kẻ bị trói, nói:
- Thiếu tá đừng để hắn đánh lừa bởi cái vẻ thiên thần tuẫn nạn. Chúng tôi bắt được hắn đêm hôm qua. Tên nhóc khốn kiếp này đã tham dự vào toán tấn công đồn cảnh sát Safed. Chính hắn đã giết chết hai cảnh binh bằng lựu đạn. Mi đúng là một tên Do-thái dơ dáy khốn kiếp, Ben Salomon.
Im lặng, kẻ bị bắt nhìn viên thanh tra bằng một con mắt khinh bỉ.
- Thiếu tá đừng có tháo băng dính ra nghe, hắn sẽ lợi dụng ngay để ca kinh thánh cho thiếu tá nghe ngay. Tụi nhóc này cuồng tín lắm! Bao giờ mày mới thôi nhìn tao cái kiểu này hả thằng khốn!
Viên thanh tra vả cho cậu bé một cái vào miệng thật mạnh trước khi đương sự ngã lăn ra đất.
- Tống cái tên khốn này ra cho khuất mắt tôi!
Mọi người ném Ben Salomon vào xe, cho nằm trên sàn giữa hai hàng ghế. Caldwell lên ngồi cạnh tài xế, để một binh sĩ võ trang canh người tù. Cửa đồn mở ra, chiếc xe vọt nhanh.
Khi họ tới gần thị trấn hoàn toàn Ả-rập Naplus, Caldwell tự dưng một có ý kiến. Chàng quay lại người lính đang chặn một chân lên đầu tù nhân cười khẩy.
- Đây, chúng ta sẽ làm như sau. Chừng một hai cây số nữa, chúng ta sẽ đến một làng Ả-rập căn cứ của mufti. Khi đi qua, chúng ta sẽ chạy chậm lại và ném tên nhóc này ra khỏi xe.
- Nhưng thưa thiếu tá, tụi Ả-rập sẽ giết chết hắn mất!
Người lính cũng tiếp lời người tài xế:
- Tôi, tôi thú thật là cũng ghét tụi Do-thái lắm. Nhưng khi người ta trao phó cho mình một tù nhân, chúng ta bắt buộc phải áp tải tới nơi...
Caldwell hét lên:
- Các anh im cái mồm! Tôi đã nói là ném thằng khốn này ra khỏi xe. Các anh chỉ việc thề là chúng ta bị tụi Macchabée chặn lại và cứu thoát hắn là xong. Nếu anh nào sau này phản tôi, anh đó sẽ chấm dứt cuộc đời trong một cái hố với một viên đạn trong đầu. Hiểu rõ rồi chứ?
Hai người lính sợ hãi, ưng thuận
Khi qua làng, ngang qua quán cà-phê xe chạy chậm lại một khoảng thời gian đủ để mở cửa xe và ném tù nhân xuống. Rồi xe lại rồ ga chạy về hướng Jérusalem.
Mọi sự đã xẩy ra đúng như Caldwell đã dự đoán. Trong khoảng thời gian một giờ, Ben Salomon đã bị tra tấn, xẻo tai mũi rồi chặt đầu. Chừng hai mươi tên Ả-rập tươi cười hí hởn đứng quanh tên chỉ huy để chụp hình, đầu nạn nhân giơ cao. Sau đó, hình này được phổ biến thành hàng trăm bản để cảnh cáo cho dân Do-thái biết số phận sẽ được dành cho họ.
Tuy thế, thiếu tá Caldwell đã phạm một lỗi lầm tai hại. Trong những người Ả-rập đứng ở cửa quán cà-phê nhìn thấy tù nhân bị ném ra khỏi xe, có một đoàn viên của Macchabée.
Đại tướng Haven-Hurst giựt mình vừa đi đi lại lại trong văn phòng, ông vừa đọc đi đọc lại bức thư của Cecil Bradshaw.
“... các biện pháp có thể mang lại ngay trật tự...”
Nếu các quí ông ở Luân-đôn cứ để mặc cho ông làm, thì tình hình hẳn không đến nỗi như thế này. Ông đã chẳng báo trước cho họ cả mười, cả trăm lần rằng cho các tên Do-thái khốn kiếp ấy gia nhập quân lực Anh là nhầm sao? Nhưng Bộ Quốc Phòng không thèm biết tới ý kiến ông. Thế mà bây giờ ở Luân-đôn mọi người còn bàn tới bàn lui! Quả là một sự điếm nhục, ô nhục thực sự!
Mỗi lúc thêm tức giận, đại tướng ngồi vào bàn, viết văn thư phúc đáp.
“Tôi kính đề nghị chấp thuận cho thi hành các điểm sau, những điều mà tôi tin chắc khi đưa ra áp dụng sẽ mang lại an ninh trật tự trong xứ:
1. Hủy bỏ tạm thời các tòa án dân sự. Kể từ giờ, tất cả các vụ xử án đều do vị tư lệnh quân sự quyết định.
2. Giải tán “Trung ương” Do-thái, Quỹ Lập Nghiệp, cùng tất cả các cơ cấu tổ chức Do-thái khác.
3. Thủ tiêu nhanh chóng và bí mật từ năm mươi tới sáu mươi nhân vật quan trọng của phục quốc Do-thái, phương pháp mà hiệu lực đã được chứng tỏ qua vụ mufti tiêu diệt phe đối lập trong Hồi giáo. Việc thi hành biện pháp này có thể giao phó cho một nhóm Ả-rập.
4. Cấm chỉ hoàn toàn báo chí Do-thái.
5. Xử dụng ào ạt Lữ đoàn Ả-rập võ trang của Transjordanie.
6. Bắt giữ chừng vài trăm cấp chỉ huy địa phương của tổ chức Do-thái, cùng đầy họ sang một thuộc địa cô lập bên Phi châu.
7. Chấp nhận trao quyền cho cấp chỉ huy quân sự được tiêu hủy tất cả các kibboutz, moshav, làng hay khu trong thành phố nào mà ta khám phá ra vũ khí. Bố ráp đại qui mô để khám phá ra những di dân nhập nội bất hợp pháp, kế đó cho họ đi đầy.
8. Để trả thù tất cả các hành động khủng bố, phạt toàn thể cộng đồng Do-thái ở Palestine một số tiền lớn đến nỗi họ phải thôi hợp tác với Macchabée.
9. Xử tử ngay (nên xử giảo) tất cả các Macchabée nào bị bắt quả tang khủng bố.
10. Tổ chức những ngày tẩy chay thương mại và nông phẩm Do-thái. Tổ chức kiểm soát gắt gao sự di chuyển của tất cả các xe cộ nào thuộc người Do-thái.
11. Tiêu diệt Palmach bằng cách cho quân đội tấn công các kibboutz mà ai cũng biết là nơi trú ngụ của các đơn vị Palmach này.”
Chathom House
Viện Giao tế Quốc tế
Luân-đôn
Mặt của Cecil Bradshaw đã xám lại. Tướng Tevor-Browne nhận thấy ngay điều đó và đoán được lý do.
- Ngài Bradshaw, ngài đã yêu cầu Haven-Hurst đưa ra các đề nghị. Chắc hẳn là các điều trong thư trả lời của đương sự đã làm ngài khó chịu chăng?
Bradshaw không còn đủ sức để trả đũa giọng mỉa mai của viên tướng nữa. Ông nói bằng một giọng khổ sở.
- Tôi tự hỏi không biết Haven-Hurst có mất trí không. Trời, đọc thư của hắn, tưởng như hắn đã sao chép nguyên văn lại “giải pháp sau cùng” của Hitler. Dĩ nhiên là chúng ta muốn giữ Palestine rồi, nhưng không phải với giá như thế: ám sát, đốt phá làng mạc, xử giảo... toàn những điều kinh tởm. Sir Clarence, Trời làm chứng cho tôi, cả đời tôi đã chiến đấu để cứu vãn Đế Quốc, và đã hơn một lần tôi đã phải dùng tới những biện pháp bất công và hà khắc. Nhưng tôi thành thực tin ở Chúa và luật của Ngài. Nếu chúng ta phải trả giá như thế để giữ được Palestine, thì này, tôi thích chúng ta mất xứ đó còn hơn. Ngoại trừ khi có một kẻ nào khác có cái can đảm thê thảm nhận lãnh trách nhiệm về những cơn khát máu của Haven-Hurst... Còn tôi, tôi xin khước từ.
Ông vò nát bức thư của Haven-Hurst, bỏ vào gạt tàn thuốc rồi châm lửa đốt. Ông nói nhỏ:
- May mắn là chúng ta còn đủ can đảm trả lời cho những tội lỗi của chúng ta.
Vấn đề ủy trị xứ Palestine được mang ra trước Liên Hiệp Quốc.