Chương 5

     gọn Tabor, không đủ cao để đáng gọi là núi, nhưng cũng lại quá cao để có thể gọi là đồi, là một khối thẳng đứng một mạch bẩy trăm thước nằm giữa một đồng bằng phẳng đều.
Sau một bữa điểm tâm đến nơi đến chốn ở kibboutz Beth Alonim dọn ra ở chân núi, Ari và Kitty lên đường trước tất cả mọi người để tận hưởng khí mát buổi sớm mai. Con đường mòn bám theo sườn núi, mỗi quãng lại cho ta nhìn thấy một thung lũng. Đột nhiên, sau chừng một giờ leo dốc, Ari đứng sững lại, lắng nghe, rồi nói nhỏ:
- Có đàn dê. Cô ngửi thấy mùi chúng không?
Kitty hít không khí một cách cẩn thận.
- Không. Tôi chẳng ngửi thấy gì hết.
- Dân Bédouin, chắc thế. Ở kibboutz hôm qua mọi người đã báo cho tôi biết là có họ. Lại đây, Kitty.
Quả đúng vậy, ở khúc quẹo sau, hai người thấy chừng mười cái lều cắm dọc theo sườn đồi và chung quanh là các con dê đang gặm cỏ. Hai người dân du mục cầm súng tiến lại. Ari nói vài câu bằng tiếng Ả-rập rồi nắm lấy cánh tay Kitty đưa nàng theo hai người kia đến chiếc lều lớn nhất, chắc hẳn là lều của cheik. Kitty muốn bịt mũi lại luôn. Nếu nàng vẫn không ngửi thấy mùi dê, nàng nhận thấy mùi đàn bà ăn mặc rách rưới, đen cáu ghét, và mùi những trẻ con cởi truồng, trông da thì đủ biết là chúng không hề biết đến nước và xà phòng là gì kể từ khi ra đời.
Một người râu tóc tiêu muối tiến ra và trao đổi với Ari những cái chào đầy nghi lễ. Sau vài phút trò chuyện náo nhiệt, Ari quay lại Kitty:
- Ngoại trừ khi muốn làm hắn cảm thấy bị xúc phạm nghiêm trọng, chúng ta phải nhận lời mời. Và cũng phải ăn luôn những cái gì hắn mời nữa. Sau đó cô vẫn có cách nôn những gì đã ăn ra.
Trong lều, mùi còn kinh khiếp hơn nữa. Họ ngồi xuống những tấm da dê và thảm len. Ari làm thông ngôn. Rất xúc động khi biết Kitty từ Mỹ châu tới, vị cheik nói một cách kiêu hãnh rằng trước kia ông đã từng có một tấm hình của phu nhân tổng thống Roosevelt.
Sau đó mọi người dọn bữa ăn. Kitty thấy mình một tay cầm một miếng đùi cừu lầy nhầy những mỡ, tay kia cầm một nắm cơm trộn tủy. Nàng đủ sức gặm gặm miếng thịt, rồi khi thấy chủ nhân quan sát, nàng cố nở một nụ cười tán thưởng miếng thịt. Tráng miệng gồm có những trái cây chưa rửa và cà-phê cho nhiều đường đến lợm giọng lên được, rót vào những chiếc ly bám đầy đất. Về khăn ăn, mọi người dùng quần để chùi tay và dùng tay áo để chùi miệng.
Một thời gian sau, vẫn trịnh trọng, Ari từ giã chủ nhân. Khi họ đã rời trại Bédouin được vài bước, Kitty dừng lại và thở hắt ra:
- Chúa ơi! Những con người đáng thương!
- Cô đừng có thương cho họ. Họ tin họ là những con người tự do nhất trên thế gian này. Cô có nhớ phim “Tiếng hát sa mạc” không, phim mà cô coi hồi còn nhỏ ấy?
- Nhớ chứ. Nhưng bây giờ thì tôi biết rằng nhà đạo diễn phim này chưa từng bao giờ trông thấy một trại của người Bédouin cả. Anh nói gì với vị cheik vậy? Hai người nói chuyện có vẻ hăng lắm.
- Tôi nói với hắn là đừng có rắc rối tối nay, và đừng có tìm cách tịch thu các nhẫn và đồng hồ của các thanh niên Palmach.
- Còn ông ta, ông ta nói những gì với anh?
- Hắn đề nghị mua cô. Hắn trả giá cho tôi là sáu con lạc đà.
- A, tên cướp! Thế anh trả lời hắn ra sao?
- Tôi trả lời là hắn nhìn cô không kỹ đấy, cô đáng giá ít nhất là mười con lạc đà, ai cũng biết là thế...
Ari đưa mắt nhìn trời quan sát: mặt trời đã lên tới đỉnh.
- Trời sắp nóng bỏng đến nơi rồi. Tốt nhất chúng ta nên cởi bỏ quần áo ngoài đi.
Khi thấy Kitty mặc chiếc quần sọc xanh cổ điển do ban tiếp liệu của Gan Dafna cấp phát, chàng nở một nụ cười tán thưởng.
- Có lời khen cô! Bây giờ cô hoàn toàn có vẻ là một sabra.
Con đường mòn leo lên sườn phía nam ngọn Tabor. Mới sáng trời đã nóng bức. Và hơn nữa, con đường thỉnh thoảng lại biến đâu mất, và lúc đó hai người bắt buộc phải trèo bằng tay và đầu gối. Gần xế chiều hai người mới lên tới khoảng phẳng trên đỉnh núi.
Họ chậm chạp đi vòng quanh, khám phá ra cả một khung cảnh bao la kỳ diệu. Về phía nam, thung lũng Jazreel với ô vuông của các cánh đồng chung quanh kibboutz và những chấm trắng của các làng Ả-rập xa dần đến tận ngọn Carmel và Địa trung hải. Phía bắc hồ Tiberiade. Theo lời chỉ dẫn của Ari, Kitty có thể nhìn thấy bằng ống dòm địa điểm Ein Or, nơi Saül đã gặp nhà nữ phù thủy, cùng đỉnh trơ trọi của núi Gilboa, nơi mà Saül và Jonathan đã chết khi chiến đấu chống lại quân Philistins.
Ari cất tiếng đọc:
- Ôi các ngọn Gilboa, các cánh đồng của mi sẽ không được mưa, không được sương thấm xuống nữa. Vì chính trên sườn của mi tấm mộc của Saül đã vỡ...
Kitty ngạc nhiên nói:
- Tôi không ngờ là anh lại có thể thi sĩ như vậy.
- Chắc tại hậu quả của cao độ và cảm tưởng mình đang ở xa, rất xa các làng xóm thị thành. Và cũng vì tôi đang ở trên ngọn Tabor, chiến trường thường xuyên kể từ khi con người phát minh ra chiếc rìu đá, vị trí đã nhìn thấy trận đánh sau cùng của người Do-thái chống lại các binh đoàn La-mã, vị trí mà các Thập tự quân và quân Ả-rập đã chiếm được và để mất cả năm chục lần. Mỗi một phân vuông của núi này đều đẫm máu - cũng như nhiều địa điểm khác ở xứ này. Chắc cô chưa biết câu nói đùa cợt này: “Giá Moïse đưa các bộ tộc của Israël lang thang thêm bốn mươi năm nữa và kiếm cho họ một xứ ít xáo trộn thì có lẽ tốt hơn!”
Ở giữa vùng đất phẳng trên đỉnh núi, họ đi qua một rừng tùng mà người La-mã, Byzance, Thập tự quân và Ả-rập đều để lại các di tích: những mảnh chén lọ vỡ, các mảng tường, cột đá sụp đổ. Xa hơn một chút là hai tu viện, một của Chính thống giáo, một của Ki-tô giáo, bao quanh lấy nơi mà đấng Ki-tô đã biến hình để nói với Moïse và Elie.
Bên kia rừng là một gò cao tạo thành điểm cao nhất của ngọn Tabor, một pháo đài của Thập tự quân mà di tích lẫn lộn với di tích của một lâu đài của dân Sarrasin. Phía đông là một bức tường xây thẳng đứng sát bờ vực dốc thẳng, từ đó có thể nhìn thấy toàn thể hồ Tibériade, đến tận Cornes Hattin, nơi Saladin đã đánh tan lực lượng của Thập tự quân.
Sau khi đã ngắm cảnh, hai người trở lại lâu đài Sarrasin và mặc lại quần áo ngoài. Ari trải tấm chăn ra và Kitty nằm dài lên trên khoan khoái.
- Nhờ anh mà tôi có được một ngày tuyệt vời, anh Ari. Nhưng rồi tôi sẽ đau mỏi cả tuần cho mà xem.
Tì cằm lên khuỷu tay, Ari nhìn nàng chăm chú trong im lặng. Nàng liệu có biết rằng chàng phải kiềm chế hết sức mới khỏi đưa tay ôm nàng không?
Đến khi chiều xuống, nhóm người leo núi đầu tiên mới lên tới đỉnh: Do-thái Đông phương da rám nắng, Do-thái Phi châu da đen như gỗ mun, Do-thái Bắc Âu cao lớn tóc vàng mắt xanh. Và dĩ nhiên đó là các sabra, con gái khỏe mạnh vú cao thẳng, con trai lực sĩ để ria lớn, dáng điệu kiêu hãnh. Kitty thích thú được gặp lại cả Joab Yarconi lẫn Zev Zilboa. Trong một nhóm khác, nàng nhận ra hình dáng cao và mái tóc hung đỏ của Jordana đứng cạnh David Ben Ami.
Lúc đêm xuống, chừng hai trăm thanh niên nam nữ của Palmach đã tập hợp đủ trên đỉnh. Người ta đào một cái hố để quay ba con cừu. Rồi mọi người ngồi vòng tròn quanh một đống lửa trại lớn. Chưa chi những tiếng hát đầu tiên đã cất lên ca tụng mầu nhiệm của nước đã làm phục sinh những đất đai khô cằn, ca tụng vẻ đẹp của miền Galilée và Judée, sự quyến rũ huyền bí của sa mạc Négev.
Rồi Joab, ngồi theo kiểu Thổ-nhĩ-kỳ, bắt đầu đập trống cầm nhịp cho một bài ca cổ Do-thái. Một tiếng tiêu cất lên theo điệu đó và một vài thiếu nữ gốc Đông phương bắt đầu khiêu vũ cùng với những cử động chậm, lắc lư, dâm tình mà các vũ nữ thời xưa đã trình diễn cho vua Salomon. Dần dần, các ngón tay và mu bàn tay được Joab đánh nhanh hơn, các thiếu nữ nhảy nhịp nhanh theo để rồi sau cùng gục xuống với một điệu quay tròn. Một nhóm chừng mười trai và gái khác ra thay thế, nhẩy hora, điệu vũ của các nông dân Do-thái. Một tay Ari nắm, một tay Joab cầm, Kitty cũng nhẩy vòng tròn theo một chiều này, rồi đột ngột đổi sang chiều kia.
Không ai để ý là David và Jordana đã biến đâu mất. Tay nắm tay, họ chạy băng qua lâu đài đổ nát để dừng lại trong một chỗ giống như một căn phòng nhỏ đào sâu vào trong tường. David trải chiếc chăn ra và hai người nằm xuống hôn nhau và xiết chặt lấy nhau. Các ngón tay David hối hả trên một nút khuy áo, một núm kéo phéc-mơ-tuya mà thiếu nữ giúp chàng cởi hộ, và sau cùng, khi cả hai đã trần truồng, các thân thể của họ hòa lẫn vào nhau. Và khi đã thỏa mãn, họ chìm đắm vào trong giấc ngủ, tiếng trống đã im để cho tiếng gió từ thung lũng lên như để ru họ.
Vào lúc bốn giờ sáng, mọi người dọn ra món cừu quay vừa chín tới và cà-phê nóng bỏng. Vì là khách danh dự, Kitty phải nhận miếng thịt đầu tiên. Khi cắn miếng thịt ngon lành, với hàm răng đẹp nàng nhìn dò xét những khuôn mặt chung quanh. Phải chăng đúng đây là đạo quân mà thành phần chiến đấu ưu tú là lớp người trẻ này? Một đạo quân không quân phục, không phân biệt cấp bực, trong đó đàn bà chiến đấu bên cạnh đàn ông, cùng trải qua những thử thách, xử dụng cùng thứ vũ khí.
Một đạo quân tân tiến? Chắc chắn là không rồi. Nói cho đúng, đây chỉ là sự tái hiện của những người hébreu ngày xưa, một đạo quân đầy rẫy những Samson, những Deborah, Saül, một lực lượng vô địch vì sức mạnh của Chúa ở trong họ!