Chương 24

     hi đoàn tàu dài lê thê, năm mươi toa chở hàng lộ thiên ngừng lại ở Chrzanov, trạm ngừng chót trước khi tới Auschwitz, hơn một phần năm số người bị đưa đi đã chết vì lạnh. Trong những người còn sống, hàng trăm kẻ bị tuyết giá dán chặt vào các vách toa, không sao nhúc nhích mà không làm tuột da chân da tay. Nhiều người đàn bà ném con xuống, kêu gọi những kẻ tò mò chạy đến xem là hãy mang các đứa nhỏ ấy và che giấu cho chúng. Họ lấy các xác chết ra đem nhét vào sau toa phụ móc ở cuối đoàn tàu. Tất cả y phục chỉ là một chiếc sơ mi rách, Dov cũng không khá gì hơn các bạn đồng hành. Dầu vậy hắn vẫn giữ được sự nhanh nhẹn, tinh khôn, tránh khỏi chết rét. Hoàn toàn biết rõ những gì đang chờ đợi mình, hắn biết rằng chỉ có giữ được hoàn toàn khả năng, hòa hợp trí thông minh đã được thử thách với mưu kế và bình tĩnh, mới hy vọng được sống thoát mà thôi. Đoàn tàu lại chạy. Auschwitz chỉ còn cách đó một giờ xe chạy.
Đoàn tàu đi qua ga Aushwitz để dừng lại xa hơn, ngã tư Birkenau nơi đặt các phòng hơi ngạt, Dov cố gắng thở cho bình tĩnh: giờ phút sắp tới sẽ quyết định mạng sống của hắn.
Các cửa toa được mở chốt, rồi với lệnh khàn giọng: Rans! Rans. Thu thập hết tàn lực, các người Do Thái tập hợp trên ke, đối diện với hàng quân S.S. trang bị đoản côn, roi da, súng lục, kèm với các con chó vĩ đại đang chồm lên kéo căng dây xích. Chưa chi roi da và gậy đá đập lia xuống các đôi vai còng. Nhiều tiếng súng nổ bắn chết những người nào yếu quá không đi nổi.
Xếp hàng bốn, đoàn người đáng thương bắt đầu di chuyển, tiến từng bước về một căn nhà lớn ở tận đầu ke.
Dov nhìn chung quanh. Phía bên trái, bên kia các đoàn tàu, có một đoàn cam nhông đang đậu. Các xe này mui trần: vậy đó không phải là các “quan tài hơi ngạt”. Phía bên phải, đằng sau dãy lính, ta người nhận thấy giữa một bãi cỏ rộng lác đác vài cây cao, nhiều nhà cao bằng gạch. Còn những ống khói tròn cao thì khỏi cần nói, đó các phòng hơi ngạt...
Một cơn buồn nôn xuất hiện, do sợ hãi gây ra, suýt làm Dov gập đôi người lại. Trước hắn, một người vấp chân ngã gục xuống, đang cố gắng đứng dậy. Hai lính S.S. thả chó ra, các con chó nhảy xổ đến người ngã quỵ đó cắn nát người ra từng mảnh. Nghe thấy các tiếng kêu thét của kẻ bất hạnh đó, Dov bắt đầu run. Hắn phải hết sức cố gắng mới trấn tĩnh được: hắn biết rằng mọi cơn hoảng hốt lúc này đều tai hại cả.
Sau cùng toán người có Dov tiến vào tòa nhà lớn. Quân S.S. chia họ ra làm bốn hàng, tiến theo bốn hướng khác nhau về bốn cái bàn để ở cuối phòng. Sau mỗi bàn, có một y sĩ Đức ngồi, chung quanh là các phụ tá và lính gác. Dov chú mục vào cái bàn ở đầu hàng của hắn, hy vọng đoán được cái gì sẽ xảy ra.
Viên y sĩ quan sát rất nhanh người đàn ông hay đàn bà đến trước mặt rồi bằng một giọng lạnh lùng, ra lệnh cho kẻ đó đi ra bằng một trong ba cửa ở phía cuối phòng.
Cửa thứ nhất mở ra phía bên phải. Dov nhận thấy bảy trên mười người phải đi cửa này: các ông già, trẻ con ít tuổi, những người đã yếu sức rõ ràng. Và vì những khối nhà ở bên phải nhà ga là các phòng hơi ngạt, Dov không khó gì mà không hiểu rằng những người ra cửa bên phải sẽ bị giết chết ngay.
Cửa bên trái dẫn ra con đường có đoàn cam-nhông đang đợi. Viên y sĩ chỉ cửa này cho hai người trên mười, lựa trong những người khỏe mạnh nhất. Chắc các kẻ này sẽ bị gởi tới các trại lao động cưỡng bách..
- Chú ra kia ngồi đợi.
Dov tuân lời. Một cuộc “diễn hành” thảm thương lại tiếp diễn. Cách quân S.S. và các con chó ngao đang gầm gừ hai bước, Dov ngồi nghe liên tiếp việc kết án tử hình với tốc độ một phút bốn người.
Sau cùng viên phụ tá trở lại, đi cùng với một sĩ quan ngực đầy huy chương. Viên y sĩ đưa tờ giấy có chữ ký ra, viên sĩ quan ngắm nghía hồi lâu các chữ ký, hỏi xẵng giọng:
- Mày học cái nghề này ở đâu?
- Ở ghetto Varsovie.
- Ở đó mày làm công việc gì?
- Làm giả giấy thông hành, giấy cho phép di chuyển, đủ các loại giấy tờ. Tôi có thể bắt chước bất cứ loại giấy tờ nào.
- Đi Tội. Các người của anh cũng như chính anh đều đi tới mức kiệt lực tối đa vì mệt, đói và khát. Nhiều người trong họ còn mang trên người những vết bỏng nặng. Một người lên tiếng hỏi:
- Chúng ta đã lập nổi liên lạc với kháng chiến Ba Lan chưa?
- Rồi chứ... Nhưng quý vị đó không hề có ý định đến cứu giúp chúng ta về đạn dược, vũ khí, bánh mì, nước; chúng ta chỉ còn có thể trông cậy vào những gì chúng ta hiện còn. Điều đó có nghĩa là chúng ta không còn thể chiến đấu theo một kế hoạch chung nữa. Kể từ ngày hôm nay, mỗi bunker sẽ tự mình chiến đấu đơn độc. Dĩ nhiên là chúng ta sẽ thử giữ liên lạc với bộ chỉ huy trung ương, nhưng chúng ta sẽ tự mình tổ chức và thực hiện các vụ phục kích và tấn công.
- Chúng ta còn cầm cự được bao lâu nữa, anh Mundek? Chúng ta chỉ con có ba mươi người, mười súng lục và sáu carbine.
- Ai biết được... Tất cả quân lực Ba Lan chỉ cầm cự được có hai mươi sáu ngày. Chúng ta đã làm được hơn họ rồi.
Mundek cắt lính canh, phân phối các khẩu phần ít ỏi và chỉ định những người sẽ đi tuần thám vào lúc rạng đông.
Một cô gái đã cầm lấy một chiếc phong cầm cũ kỹ, chơi một điệu nhạc chậm và buồn bã. Hết thanh niên này đến thanh niên khác, lên tiếng hát cùng thiếu nữ - một bài ca êm ái họ đã học ngày xưa trong các buổi hội của Những Người Chuộc Tội, lời ca ngợi vẻ đẹp của miền Galilée với các quả đồi tươi tốt và các cánh đồng phì nhiêu. Trong chiếc hầm ẩm ướt này, đào sâu dưới ba thước đất bị cầy nát của ghetto Varsovie, những người trẻ tuổi này ca ngợi vẻ đẹp của xứ Israel mà có lẽ chẳng bao giờ họ sẽ được nhìn thấy.
Đột nhiên có tiếng la nhỏ của người canh:
- Báo động!
Các ánh sáng tắt phụt, một im lặng nặng nề rơi xuống căn hầm. Một bàn tay hối hả gõ vào cửa, theo mật khẩu. Cửa mở, ánh sáng trở lại.
- Dov! Chú trở về đây làm gì?
- Anh Mundek, em xin anh... Đừng bắt em đi nữa!
Hai anh em hôn nhau và Dov bắt đầu khóc. Cần phải một thời gian hắn mới trấn tĩnh lại được. Sau cùng hắn loan báo một tin ghê tởm: kháng chiến Ba Lan cương quyết và dứt khoát từ chối cứu trợ ghetto, và ngoài ra thiên hạ ít nói tới vụ nổi dậy của người Do Thái ở ngoài thành. Mọi người không muốn nhắc tới nữa. Dov nói thêm:
- Khi trở về đây, em đã trông thấy trong các ống cống rất nhiều người của chúng ta, đàn ông đàn bà nằm trong bùn, quá yếu vì đói khát. Và dẫu sao họ cũng chẳng còn biết đi đâu nữa. Ở Varsovie không ai muốn có họ hết.
Vì như thế, Dov Landau, một đứa trẻ mười ba tuổi đã trở lại với ghetto để ở lại nơi này. Và Dov không phải là kẻ duy nhất làm vậy. Trong những ngày sau đó, mọi người chứng kiến một hiện tượng kỳ lạ: từ Varsovie các làng chung quanh, hàng chục hàng trăm người Do Thái đã trốn thoát được và ngụy trang được thành người công giáo đã trở lại ghetto để tham dự vào trận đánh sau cùng. Họ cho rằng chết trong nhân phẩm vẹn toàn là một một đặc quyền đẹp đẽ.
Sau cùng, pháo kích ngưng, các đám cháy tắt. Và các S.S. lại tấn công. Lần này chúng nắm giữ tất cả mọi ưu điểm. Người Do Thái không còn các vị trí phòng ngự, không còn đường liên lạc giữa các cứ điểm, các dự trữ đạn dược, bánh và nước đã hết hoàn toàn. Quân Đức tiến có phương pháp, mỗi lần chỉ bao vây một khu thôi để thanh toán tất cả các bunker trong khu đó bằng trọng pháo và súng phóng lửa.
Chúng cố gắng hết sức bắt tù binh để tra tấn mà kiếm ra vị trí các hầm trú. Nhưng các người Do Thái thích bị thiêu sống hơn là để lọt vào tay địch hay đầu hàng.
Không dám phiêu lưu vào các ống cống, quân Đức bơm hơi ngạt xuống. Ngay lập tức, nước bùn dưới cống đã lôi theo những chùm xác người bám vào nhau. Dầu thế, kháng chiến vẫn tiếp tục đột kích chớp nhoáng các toán quân Đức tách ra khỏi chủ lực, các toán quyết tử lao vào đích tay cầm các lựu đạn mở chốt sẵn đã làm cho quân Đức thiệt hại hàng trăm người. Bấy giờ tổng số tổn thất của quân Đức đã lên tới nhiều ngàn người.
Ngay 14 tháng 5, Mendek họp tất cả mười hai người sống sót trong tổ chức của anh lại. Anh cho họ chọn một trong hai đường: hoặc ở lại với anh, chết với vũ khí trên tay, hoặc là theo Dov trốn ra ngoài ghetto bằng những ống cống mà Dov biết có thể không có hơi ngạt. Dov ra đi ngay để tìm những lộ trình còn dùng được. Hắn thò ra phía bên kia tường, vô sự, nhưng khi đến gần số 99 đường Zabrowska, linh tính báo động làm hắn chậm bước. Với dáng điệu thản nhiên, hắn đi qua nhà, không vào. Cặp mắt sắc của hắn đã ghi nhận thấy ngay khoảng một chục người rải rác trên các vỉa hè, quan sát căn nhà. Dov không biết bà Wanda đã bị bắt chưa, nhưng hắn biết chắc chắn là căn nhà này không còn là nơi ẩn trú.
Hắn chỉ trở lại ghetto vào rất khuya trong đêm. Lạc lõng giữa các hoang tàn đổ nát bôi xóa cả đến các đường phố, hắn vất vã mới tìm ra lối vào bunker. Khi bước xuống các bậc thang đào trong đất, hắn đã ngửi thấy mùi thịt cháy khét quen thuộc. Hắn châm ngọn nến bao giờ cũng mang theo trên người mỗi khi xuống đường cống, và chậm chạp đi quanh hầm, quỳ gối trước từng xác người. Các tia lửa của súng phóng lửa đã lọt thẳng vào hầm trú, thiêu cháy các xác đến độ không sao nhận diện được nữa. Dov không sao biết được đâu là xác của anh mình nữa.
Ngay 15 tháng 5 đài phát thanh Do Thái phóng đi lời kêu gọi sau cùng:
“Đây là tiếng nói của Ghetto Varsovie! Nhân danh tình thương của Chúa, hãy cứu giúp chúng tôi!”
Ngay 16 tháng 5 năm 1943, bốn mươi hai ngày sau khi khởi nghĩa, quân S.S. đặt mìn cho nổ tung đại giáo đường Do Thái, tòa nhà trong bao nhiêu năm đã là biểu tượng cho Do Thái giáo ở Ba Lan. Cũng như đền thờ của Salomon đã bị quân La Mã hủy diệt, đền thờ của Do Thái giáo ở đường Tlamatzka bị phá tan bởi tay quân Đức. Và toàn quyền Frank đã có thể loan báo rằng vấn đề ghetto Varsovie đã tìm thấy được “giải pháp sau cùng”.
Bản thông cáo quân sự cho biết rằng trong vòng thành của ghetto, chỉ còn những mẩu tường không cao quá tầm người, quân chiến thắng đã thu hồi được mười sáu súng lục và bốn súng trường, những nhà cửa đổ nát trong khu sẽ cung cấp được nhiều vật liệu xây cất, không có bắt được tù binh nào.
Thoát chết một cách nhiệm mầu, Dov tụ hội cùng sáu người sống sót khác. Họ bắt đầu lục lọi các bunker cho tới khi kiếm được vũ khí đủ dùng. Sau đó, họ tổ chức cuộc sống. Ban đêm, Dov hướng dẫn họ “xuyên dưới tường” ra Varsovie để đánh cướp các kho lương thực. Ban ngày, họ chui xuống cố thủ dưới đất, trong một bunker được đào sau khi trận đánh đã kết liễu. Trong năm tháng liền, một trăm năm chục ngày liền mà mỗi ngày là một thiên thu, họ không một lần trông thấy ánh sáng mặt trời. Rồi người này đến người kia kế tiếp nhau chết: ba người bị bắn hạ trong một cuộc đột kích ở Varsovie, hai người khác tự tử, người thứ sáu chết vì đối.
Sau cùng, Dov bị một toán tuần tiểu Đức khám phá ra. Hắn đang dở sống dở chết, gầy như bộ xương, không còn hình dạng con người nữa. Toán quân chỉ làm hắn đủ tỉnh trở lại để kéo đến tổng hành dinh của Gestapo. Bị thẩm vấn, tra tấn tàn nhẫn, Dov không hé răng. Dầu thế nào, số phận của hắn cũng được định đoạt rồi: Dov Landau, mười ba tuổi, con chuột của ghetto và ống cống, tay làm giả mạo đầy kinh nghiệm, sẽ được biết niềm vui của sự tái định cư. Nơi được gởi đến: Aushwitz!