Chương 3

     akov cùng Jossi từ giáo đường Do Thái trở về. Yakov vừa đi vừa nhảy, nghịch ngợm bằng cách ném những viên sỏi lớn vào các cột đá góc đường hay cổng các nhà (bao giờ Yakov cũng trữ sẵn những viên sỏi này trong túi, phòng khi gặp những tên du đãng rình rập các người Do Thái để cướp bóc). Jossi dáng đi đứng đắn nghiêm trang, cúi đầu xuống, đang suy ngẫm về cách diễn giải tế nhị một đoạn kinh Torah. Khi hai người sắp quẹo vào ngõ dẫn về nhà, Yakoy nắm lấy cánh tay anh.
- Tối nay lại có một buổi họp ở cửa tiệm của Hacohen. Lần này anh có tới không?
- Không.
- Đáng lẽ ra anh phải tới mà: thuyết trình viên là một Bilu thứ thiệt do Palestine gửi tới.
Jossi cảm thấy tim mình đập loạn lên: một Bilu thứ thiệt, một người xứ Palestine! Chàng thích biết bao được nghe và thấy một người có thể nói tới xứ Israel bằng mắt thấy tai nghe, chứ không phải do lời đồn đại! Từ nhiều tháng nay, chàng thèm muốn được như đứa em đã có cái can đảm trốn ra khỏi nhà để tham dự các buổi họp của các Thân hữu của Sion, một tổ chức mới chủ trương võ trang phòng vệ các ghetto và trở về miền Đất Thánh. Một Bilu thực sự! Nhưng không: chàng sẽ chống lại cám dỗ tới nghe này, ít nhất là ngày nào cha chàng còn chống đối với các Thân hữu của Sion.
Phong trào Bilu phát sinh trực tiếp từ một trong những thời kỳ thê thảm nhất của kiếp khốn khổ của những người Do Thái tại Nga.
Sau khi đã ban bố vài cải cách vừa rụt rè vừa quá trễ để chống lại sự xáo trộn mỗi lúc một gia tăng đáng ngại, Nga hoàng Alexandre II đã cảm thấy một điều rất dễ hiểu là muốn làm dân thôi chú trọng vào các khía cạnh đáng chê trách của chế độ và hướng về các vấn đề khác. Các cố vấn của ngài không khó khăn gì trong việc tìm ra một con dê chịu tội lý tưởng: đó là người Do Thái. Ở Nga, tính bài Do Thái, dưới hình thái dữ dội nhất, đã phát triển trên một khoảng đất phong phú những hận thù tôn giáo, mê tín dị đoan, cùng thứ hận thù mù quáng thường có của các quốc gia nghèo khổ. Sau một chiến dịch mạ lị bôi nhọ khéo léo, chính quyền Nga đã dễ dàng xúi dục lên hàng loạt pogrom làm đẫm máu trong vùng cư trú của các người Do Thái.
Nơi đâu cũng là cướp phá nhà cửa, tàn sát dân cư không có thì giờ chạy trốn - đám dân Nga cuồng nộ này chỉ giết phụ nữ Do Thái sau khi đã cưỡng hiếp họ mà thôi - tất cả với dự thỏa thuận mặc nhiên hay hợp tác tích cực của cảnh sát.
Nếu những người Do Thái còn sống sót tưởng rằng mình đã tới tận cùng của thảm cảnh thì họ đã lầm. Ngày 13 tháng 3 1881, Alexandre II bị ám sát do một quả bom của một nhà cách mạng, trong đó có một thiếu nữ Do Thái.
Đây là khởi điểm của một thời kỳ khủng bố thứ nhì.
Tân Nga hoàng Alexandre III chỉ là một trò chơi trong tay đại thần Pobiedonostsev. Ông này, còn phản động hơn vị vua nữa, đã có một kế hoạch để giải quyết vấn đề Do Thái. Với tư cách ủy viên đại diện cho hội đồng giáo phẩm tối cao, ông tin chắc sẽ được sự tán thành của giáo hội chính thống Nga về chương trình tiêu diệt Do Thái. Chương trình này rất giản dị: một phần ba sẽ bị tiêu diệt bằng các pogrom do chính quyền đề xướng và tổ chức, một phần ba bị trục xuất, một phần ba còn lại bắt cải đạo bằng võ lực cùng đe dọa.
Tuần lễ thánh năm 1881, ngày đăng quang của Alexandre III là dấu hiệu mở đầu cho đợt khủng bố tàn sát đầu tiên, tiếp theo bằng một loạt sắc lệnh cưỡng đoạt tài sản các người sống sót cùng hủy bỏ toàn diện các quyền sơ đẳng nhất của người Do Thái.
Trong cơn khiếp hãi bao trùm mọi ghetto, giữa trăm ngàn dự án không tưởng như nhau, chỉ có một nhóm ít người đã đề ra được một giải pháp hợp lý, đó là nhóm Thân hữu của Sion. Chính nhờ sự mang ra ứng dụng ý tưởng của nhóm này mà vào cuối mùa thu, bốn mươi sinh viên Do Thái trốn khỏi Vùng để đi Palestine. Có tinh thần phiêu lưu và can đảm vô bờ bến, họ đã đặt công cuộc của họ dưới danh hiệu Beth Yakov Leku Venlkha: Gia tộc của Jacob, hãy đứng dậy! Những chữ viết tắt từ cái danh xưng như một lời gào thét chiến đấu ấy đã tạo thành một tên gọi mà các bậc tiền nhân cùng hậu bối đã làm cho nổi danh: BILU.
Về được tới Palestine, những Bilu đầu tiên xây dựng một trại canh nông trong thung lũng Sharon. Họ đặt tên trại là Rishon le Zion: Kẻ đầu tiên ở Sion.
Năm sau, khi một đợt pogrom thứ hai tràn vào Vùng, nhiều nhóm khác chạy khỏi quốc gia đáng nguyền rủa ấy để lên đường về Palestine, vùng Đất Hứa. Bởi thế đến năm 1884, khoảng một nửa tá trại Bilu nghèo khổ, yếu ớt, sống bằng hy vọng hơn là bằng bánh mì, đã thành lập rải rác khắp miền Palestine.
Ngày hôm sau ngày người Bilu từ Palestine nói chuyện tại khu bộ địa phương của hội thân hữu Sion, Jossi Rabinsky đưa em ra một chỗ vắng, nói:
- Kể lại đi! Người đó như thế nào... Đã nói những gì...
Yakov ra vẻ ta đây.
- Vậy đó! Anh chưa chịu tin đã đến lúc anh tới dự một trong các buổi họp của bọn tôi sao?
Tối hôm đó lấy cớ là muốn cầu nguyện cho một người bạn mới chết, hai anh em chạy lại cửa hiệu bán nến của Hacohen. Jossi hơi sửng sốt khi thấy có những người canh gác đi đi lại lại quanh căn nhà và ngạc nhiên khi gặp biết bao khuôn mặt quen thuộc trong phòng họp. Nhưng chàng sửng sốt nhất vì bề ngoài cùng thái độ của diễn giả, Vladimir, gốc Odessa.
Vladimir không hề giống những người Do Thái ở ghetto. Anh để râu chứ không để tóc quăn, mặc một chiếc áo vét bằng da đen, quần bó sát và đi ủng, nói rất bình tĩnh và cương quyết đến lạnh lùng. Sau khi gợi lại kiếp sống trầm luân bất tận của người Do Thái tại Âu châu, anh nhấn mạnh tới tình hình thê thảm của những kẻ sống trong vùng, đã vô phương chống lại các bạo hành của một quần chúng man rợ và một chính quyền bóc lột sát nhân. Anh kết luận:
- Cho tới giờ chúng ta đã là đối tượng cho sự khinh khi và chế riễu tại tất cả các quốc gia trên thế giới. Muốn thoát khỏi thân phận này, chúng ta phải tự làm cho chúng ta có một quốc gia. Ngoài giải pháp này, chúng ta không còn cứu rỗi nào khác. Chúng ta phải xây dựng lại Nhà của Jacob!
Trên đường về nhà, Yakov để lòng nhiệt thành của mình tự do bộc lộ:
- Anh đã nghe rồi đấy, anh Jossi! Và anh đã thấy biết bao người ở đó: cả rabbin [1] Liazine cũng có mặt!
Jossi trả lời lảng tránh:
- Anh cần phải suy nghĩ đã.
Nhưng vừa nói xong, chàng đã biết là Vladimir có lý: ngoài Palestine ra, không có cách cứu rỗi nào khác cho người Do Thái.
Rabinsky đang chờ hai con về. Mặc áo ngủ, đứng trước bàn làm việc, soi sáng bằng một ngọn nến, ông nói.
- À, các con đã về! Nhờ lời cầu nguyện của các con, bạn con sẽ an nghỉ an bình!
Một lần nữa Jossi lại không thể nói dối:
- Chúng con không đi cầu nguyện cho người chết...
Simon Rabinsky giả vờ ngạc nhiên:
- À! Các con bận theo đuổi người yêu...
- Thưa bố không ạ.
- Chắc các con đến nhà thờ học kinh Talmud?
Jossi nói nhỏ gần như không nghe thấy:
- Cũng không phải đâu.
Yokov không giữ được nữa, nói thật luôn:
- Chúng con đã đến dự một buổi họp của hội thân hữu Sion.
Mọi người im lặng. Simon Rabinsky nhìn các con không tin ở mắt mình nữa. Sau cùng ông nói:
- Bố rất buồn...
Jossi nói:
- Chính vì thế chúng con không nói cho bố rõ. Chúng con không muốn làm cho bố phải buồn.
- Bố không buồn vì các con đến dự buổi họp ấy, mà buồn vì các con đã coi thường, ông bố già, không tin cậy ở bố nữa.
Yakov cãi:
- Không phải thế. Tại chúng con nghĩ rằng nếu nói ra thì bố sẽ cấm chúng con đi...
- Yakov, hãy nói cho bố nghe... có bao giờ bố đã cấm con học hỏi chưa? Ngay cả hôm con bộc lộ cái ý dị kỳ là muốn đọc Tân Ước Kinh... bố có cấm con không?
Jossi đã bình tĩnh lại. Tính tình chàng như vậy: quyết định thì chậm nhưng sau đó can đảm để bảo vệ quyết định đã có. Chàng lên tiếng:
- Chúng con sợ làm bố buồn vì chúng con biết lập trường của bố đối với hội thân hữu của Sion, đối với các tư tưởng mới nói chung. Mặc dù biết vậy, con cũng xin thưa là con hài lòng được dự buổi hội ấy. Rabbin Lipzine đã yêu cầu con gia nhập đoàn dân vệ ghetto.
Simon là:
- Rabbin Lipzine đã chối bỏ quá nhiều tập tục của chúng ta đến nỗi đôi khi bố tự hỏi không biết ông ta có còn là người Do Thái nữa không. Còn những tư tưởng mới của ông ấy à. Con tưởng bố không biết con và thằng Yakov nghĩ gì trong đầu hay sao? Đã có thời bố cũng là thanh niên, và ngay từ thời đó thiên hạ đã lải nhải những giải phóng, những bảo vệ ghetto và những gì nữa chẳng biết. Chẳng qua là hai đứa đang đến tuổi khủng hoảng mà ai trong chúng ta cũng đều phải trải qua... lúc mà con người biết địa vị mình phải giữ và cuộc đời ra sao chấp nhận như thế. Khi bố còn ít tuổi, đã còn có lần bố nghĩ tới chuyện cải đạo nữa kia! Hai con vẫn còn chưa chịu tin là bố hiểu được các tình cảm của các con sao?
Jossi sửng sốt. Bố chàng đã từng nghĩ tới chuyện cải đạo! Yakov vội vã trở lại vấn đề trước mắt:
- Tại sao chúng ta lại không có quyền tự bảo vệ chúng ta? Tại sao chính dân tộc ta lại trách chúng ta là tìm cách cải thiện thân phận của chúng ta?
Người bố nói:
- Tại vì con là Do Thái, và đã làm người Do Thái bắt con phải chấp nhận những sự áp chế.
- Chẳng hạn như là con phải chui xuống gầm giường nấp để trốn tránh bọn sát nhân phải không?
- Chưa ai dám cho rằng dễ làm người Do Thái cả. Chúng ta có mặt trên trái đất này không phải để hưởng đời sống. Thượng đế đã đặt để chúng ta ở đây để duy trì Luật của Ngài. Đó là nhiệm vụ, đó là mục đích của chúng ta.
Yakov tức giận đáp lại:
- Thế còn phần thưởng cho chúng ta!
Simon tiếp tục nói, không hề xúc động:
- Một ngày kia đấng cứu thế sẽ hiện đến để đưa chúng ta về xứ Israel. Bố nghĩ rằng Yakov Rabinsky không có quyền nghi ngờ sự khôn ngoan của Thượng đế. Ngược lại là khác, bố nghĩ rằng Yakov Rabinsky phải sống theo các luật tắc đã có ghi trong Thánh kinh.
Yakov kêu lên:
- Con không chối bỏ những luật thánh. Nhưng con chối bỏ không nhận sự khôn ngoan của những người diễn giải các luật thánh ấy. Nếu quả thực Thượng đế đã tạo chúng ta ra theo hình ảnh của Người, thì đấng cứu thế ở trong chúng ta, ở mỗi người trong chúng ta, và đấng cứu thế của con ra lệnh cho con, nhắc con hoài là con phải vươn mình dậy mà chiến đấu, hòn đá ném đi hòn chì ném lại. Đấng cứu thế của con cũng còn ra lệnh cho con phải trở về quê hương của tổ tiên chúng ta, gia nhập hội Thân hữu của Sion.
Trước các luận cứ ào ào như vậy, Simon Rabin không hề nao núng.
- Trong lịch sử của chúng ta, chúng ta đã thấy xuất hiện một số đấng cứu thế giả rồi. Và ngay lúc này đây con đang nghe theo những lời khuyến cáo của một trong những cứu thế giả ấy.
- Nhưng làm thế nào để con biết được đấng cứu thế thật?
- Vấn đề không phải là làm thế nào để Yakov Rabinsky nhận ra được đấng cứu thế, vấn đề là xét xem liệu đấng cứu thế có nhận Yakov Rabinsky hay không. Nếu kẻ mang tên Yakov bắt đầu xa dần luật thánh, nếu hắn lắng nghe những lời ẩn dụ của những kẻ tiên tri giả mạo, thì đấng cứu thế sẽ hiểu rằng Yakov thôi không còn là Do Thái nữa. Cha đề nghị với Yakov là hãy tiếp tục sống như bố nó, và như dân tộc nó.
-
Chú thích:
[1] Rabbin: giáo sĩ của Do Thái giáo, tương đương đại khái với cha xứ của Kitô giáo.