Chương 52

Vũng Tàu thuở ấy là nơi tập trung thương phế binh, quả phụ và cô nhi tử sĩ, có Bệnh Viện Tê Liệt, Quân Y Viện Nguyễn Văn Nhứt, An Dưỡng Đường và hai làng phế binh. Anh em phế binh ở đây đều khá giả nhờ vợ con đi làm sở Úc, sở Mỹ. Thấy tôi xuống, anh em mừng lắm, chỉ trong hai tuần là thuê được nhà. Chủ nhà cũng là phế binh nên sẵn sàng cho chúng tôi mượn bộ giường ván, bàn ghế. Anh em, bạn bè cũng tìm giùm một chỗ buôn bán ngoài chợ Bến Đình. Nhà cửa được ổn định, ngày ngày vợ tôi nấu cơm tấm mang ra chợ bán, đi từ rạng đông đến khi tan chợ, chiều về nghỉ ngơi và chuẩn bị thức ăn cho ngày hôm sau. Công việc tuy mệt nhọc nhưng có đồng ra đồng vào, đời sống không đến nỗi tệ. Thỉnh thoảng có dư chút đỉnh, chúng tôi gởi tiền và quà về Long Hải cho mẹ kế và chị Bảy vì gia đình chị rất nghèo. Mỗi tam cá nguyệt tôi lại về Sài Gòn lãnh tiền trợ cấp và cũng không quên ghé thăm và chu cấp cho cha và anh Sáu cùng cha mẹ vợ một ít tiền bạc.
Với thời gian, chúng tôi có thêm hai cháu gái, gia đình bắt đầu sống trong chật vật. Vì lòng tự trọng, tôi không muốn anh em, bạn bè nhìn thấy cảnh khó khăn của gia đình, tôi giảm giao tiếp với mọi người. Cuộc sống nơi chốn thị thành có nhiều cám dỗ, tôi thấy nhiều người đã bị sa ngã. Thêm vào đó con cái chúng tôi bắt đầu khôn lớn, không muốn chúng bị ảnh hưởng bởi môi trường sống chung quanh, nhất là khi đời sống vật chất của gia đình thua kém mọi người, và có lẽ cũng sợ một ngày nào chúng sa ngã theo, chúng tôi có ý định dọn đi nơi khác. Nhân dịp gia đình một anh phế binh thân thiết vừa tạo được một ngôi nhà và miếng vườn nhở ở cầu Nước Trong, quận Long Thành, ngỏ ý nhờ tôi lên đó ở và trông nom giùm, tôi liền bằng lòng. Thật là "buồn ngủ gặp chiếu manh".
Sau khi trả lại nhà cửa, đồ đạc cho chủ nhà, tôi từ giã bạn bè thân thiết rồi cùng vợ con dọn về Long Thành. Căn nhà thật là lý tưởng, nền lát gạch hoa, cạnh nhà có giếng nước và máy bơm tưới cây. Các nhà chung quanh cách xa nhau bởi hai mảnh vườn. Vợ tôi bắt đầu tập làm vườn, nhờ cố gắng học hỏi, cỏ rác trong vườn sạch sẽ, giữa hàng cây ăn trái còn có những liếp khoai lang sum suê, đàn gia súc chăn nuôi phát triển trông thấy, kể cả của tôi và của bạn. Vợ chồng bạn lên xem rất hài lòng, tình bạn càng thêm thấm thiết, hàng tháng hoặc hàng tuần anh ta gởi đồ ăn lên cho.
Mặc dù cụt mất hai chân, tôi vẫn thường chống nạng đi đây đi đó thăm hỏi bà con lối xóm. Tại đây tôi giao tiếp mật thiết với tất cả mọi người, đa số là thành phần dân quê mộc mạc. Gia đình tôi tuy ăn uống kham khổ nhưng không tốn kém bao nhiêu nhờ có cây nhà lá vườn, mỗi tuần chỉ đi chợ một lần. Thằng con lớn khá thông minh, tôi kèm qua quít như vậy mà mới 5 tuổi đã biết đánh vần đọc được báo trong khi con em ở đó trọng tuổi hơn, học trường công một vài năm mà vẫn chưa đánh vần đọc được chữ. Thấy vậy một vài người hàng xóm đưa con đến nhờ tôi dạy kèm. Nhà không có bàn, tôi chỉ đóng được một tấm bảng đen máng trên vách và một băng ghế dài. Các em nhỏ đến học ngồi bẹp dưới đất và tập viết trên băng ghế. Các em thưa thầy xưng con rất mực cung kính, thật là cảm động. Nơi khỉ ho cò gáy này mà các em nhỏ vẫn còn giữ lễ phép là một niềm an ủi lớn. Từ đó tình thầy trò càng thêm thắm thiết. Thầy tận tâm, trò cố gắng, trình độ học tập tiến bộ nhanh.
Tiếng tốt đồn xa, bà con trong ấp lần lượt đến gởi con nhờ tôi dạy kèm, trình độ từ lớp mẫu giáo đến các lớp Một, Hai, Ba, Bốn, Năm, kể cả các lớp luyện thi tiểu học. Tôi nhận tất cả vì nghĩ rằng nếu trình độ học sinh ở đây cao lên, đó là niềm hãnh diện chung cho cả ấp. Thì giờ có hạn, tôi chia ca ra dạy. Nhà không có lúc nào thiếu vắng học sinh đến học, thế là nghiễm nhiên tôi trở thành ông giáo làng. Vợ tôi rất lấy làm hãnh diện, tôi có cảm tưởng mình vẫn còn có ích cho đời. Nơi đây đời sống nghèo khó, những bậc phụ huynh ít khi trả học phí cho con học thêm bằng tiền bạc, họ thường mang cho những loại cây trái trong vườn như sầu riêng, chôm chôm, soài, ổi, mít tố nữ, mãng cầu gai... Tôi thực sự tìm thấy niềm vui ở nơi thôn dã này. Mỗi lần về Sài Gòn lãnh lương, tôi không quên mua sắm một ít quà cáp mang về biếu lại. "Bánh sáp có đi, bánh qui trở lại", đó là lẽ thường tình.
Từ đó chúng tôi trở thành một gia đình có uy tín ở địa phương. Không buổi tiệc cưới, tang ma, giỗ chạp nào mà tôi không được mời dự. Mỗi lần như vậy tôi không đến tay không, không mang rượu thì cũng bia hay bánh mứt. Suốt năm đều có giỗ chạp, hôm nay tiên thường, ngày mai chánh giỗ..., mỗi đám giỗ thường kéo dài tư một đến hai ngày.
Khoảng 4 giờ chiều khách khứa đến, chủ nhà cúng cơm xong mời khách chuyện trò ăn uống đến khuya. Có nhà vật heo, có nơi vật bò, lấy đồ lòng nùấu cháo đãi khách đến 5 giờ sáng. Ăn xong, ai bận công việc thì cứ ra về nhưng đến 11 giờ trưa hôm sau phải trở lại dự tiếp, nếu không sẽ bị chủ nhà phiền lòng. Riêng tôi thì chủ nhà thường giữ lại suốt đêm tiếp đãi tận tình, nhiều lúc uống nhiều quá tôi say túy lúy.
Nhiều gia đình khá giã, mỗi khi có đám giỗ thường có làng lính đến quanh co hạch sách, chủ nhà nhờ tôi ra ngồi bàn tiếp lính vì trước kia tôi cũng là lính như họ, do đó khi làng lính ăn uống no say thì ra về vui vẻ, không làm khó dễ gì. Sau này tôi mới biết được trong đám lính ấy có cán bộ cộng sản trà trộn vào, giả bộ dò hỏi xem xét gia đình tổ chức đám giỗ thuộc thành phần nào để sau đó cho cán bộ kinh tài chận đường đóng thuế. Ngoài chuyện đó ra, đời sống ở thôn quê vô cùng thoải mái, tôi không còn mặc cảm nhiều về thương tật của mình.
Trong khi đó, tại những nơi khác chiến tranh càng ngày càng khốc liệt, tan tóc phủ trùm. Tin tức nghe được qua báo chí và đài phát thanh làm tôi lo sợ. Nhiều tỉnh thành lần lượt lọt vào tay quân cộng sản, rồi chiến tranh đột ngột kết thúc. Toàn miền Nam bị đặt dưới quyền thống trị của phe cộng sản sau ngày 30-4-1975. Theo thói thường tình sau mỗi cuộc chiến, kẻ thắng trận thì lên ngôi vua, kẻ thua trận xuống hàng chó ngựa. Tôi hiểu rõ hơn ai hết thân phận của mình, tôi đã từng cầm súng chống lại những người cộng sản trong chiến cuộc đã qua. Mặc dù chỉ là một con tốt vô danh trong cuộc chiến và nay bị tàn phế, trước sau gì tôi cũng sẽ bị trả thù, đày đọa như bao người khác.
"Củi đậu nấu đậu, đậu trong nồi khóc kêu sao không biết xót thương", đó là một câu trong bài vọng cổ mà tôi thích nhất. Tôi thích câu này không phải vì nhịp điệu lên xuống của bài ca mà ở ý nghĩa của nó. Câu này nhắc nhở mọi người Việt hãy thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Hay gì cảnh người Việt hành hạ, giết chóc người Việt. Địa phương nơi tôi ở, 90% dân chúng là thành phần "cách mạng", thấy tôi bị tàn tật họ không nói gì nhưng những gia đình khá giã có con em đi lính hay làm công chức cho chế độ cũ, nhất là những gia đình có con em là sĩ quan hay công chức cao cấp trong guồng máy cầm quyền cũ thì đời sống rất là khốn nạn. Nhà cửa bị tịch thu, vườn tược bị chiếm đoạt và cả gia đình phải rời đi nơi khác nều may mắn người chủ gia đình không bị bắt đi học tập cải tạo.
Đề tài trong lúc trà dư tửu hậu của những người này là chiến công của phe cộng sản và tội ác của bọn Mỹ Ngụy. Trước cảnh thay trắng đổi đen như vậy, với tâm trạng là phế binh ngụy thì lòng tôi càng ray rức. Tôi bàn với vợ tôi phải dọn đi nơi khác vì trước đây có nhiều lần tôi hăng máu đả kích những hành vi tàn ác của phe cộng sản trong những buổi tiệc. Hay tin này bà con cô bác thương mến gia đình chúng tôi cố đến khuyên giải không nên đi, ở đây họ sẽ hết lòng che chỡ và cò hứa hẹn chu toàn cho gia đình tôi.
Trước tấm thịnh tình này, tôi chân thành cảm tạ nhưng lòng tôi đã quyết nên vẫn chuẩn bị rời khỏi nơi đây. Hơn nữa đây cũng không phải là nhà của tôi, nhân có người về Vũng Tàu tôi nhắn bạn tôi lên nhận lại nhà. Đàn gia súc gầy dựng trong suốt thời gian qua được đem ra chợ Long Thành bán, nhờ đó cũng có chút tiền để đi nơi khác. Khi bạn tôi lên nhận nhà, cảnh chia tay thật là cảm động. Hai gia đình đều khóc tiễn nhau.
Tôi về Long Hải tá túc với gia đình chị Bảy. Gia đình chị Bảy vốn đã nghèo khó, nay có thêm gia đình tôi về đời sống càng khó hơn. Vợ tôi phải đi gánh nước thuê, tối về chăm sóc cho ba đứa trẻ. Nhìn vợ làm lụng cực khổ, chạy ăn từng bữa, tôi thấy xót xa trong dạ. Tôi đánh liều mở lớp dạy kèm cho các em nhỏ ở gần nhà. Nhà cửa chật hẹp, không có đủ chỗ ngủ lấy đâu lấy chỗ dạy kèm, tôi liền ra chợ mua cây gỗ và mấy tấm tranh về lợp mái hiên và đóng vài cái bàn nhỏ làm lớp học. Công việc không phải dễ dàng, chính quyền địa phương gọi tôi lên ủy ban nhân dân chất vấn nhiều lần, công an đến kiểm tra hộ khẩu nói tôi vi phạm luật pháp vì không có giấy phép hành nghề. Tôi nói gia đình tôi nghèo khó quá, thân tôi tật nguyền nên mở đại lớp học để dạy những em nhỏ kiếm tiền. Nghe vậy họ để tôi yên một thời gian để quan sát, thấy tôi chỉ đơn thuần dạy cho các em tập đọc, tập viết nên họ làm lơ.
Ông hàng xóm tốt bụng thấy tôi chịu khó, cho tôi một vuông đất nhỏ sát hàng rào nhà ông để dựng một túp lều tranh, vừa làm chỗ ở vừa làm chỗ đạy học. Từ đó gia đình tôi được cấp hộ khẩu và định cư luôn tại vùng này. Tuy nghề dạy học thu nhập chẳng là bao nhiêu nhưng có được miếng ăn qua ngày, vợ tôi cũng kiếm được một chỗ ngồi mua bán ngoài chợ Long Hải nên có thể phụ giúp gia đình chị Bảy. Mẹ kế, cha ruột và cha mẹ vợ lần lượt qua đời vì tuổi già sức yếu. Điều mà tôi mãn nguyện là các đấng sinh thành về cõi vĩnh hằng có đầy đủ mặt con cháu và được đưa về quê cha, đất tổ, yên mồ, yên mả. Những lúc được nghỉ ngơi, tôi xót thương cho những anh em phế binh không được may mắn như tôi. Đời sống của tôi tuy có khó khăn nhưng cũng chưa đến nỗi bị chà đạp nhân phẩm. Tôi biết có nhiều trường hợp anh em bị vợ con khinh rẻ, phải lang thang cầu thực nơi đầu đường, xó chợ. Nào đã được yên, chính quyền còn lùng bắt họ đưa đi các trại tập trung lao động vì bị xếp vào thành phần tệ đoan xã hội. Bị tật nguyền và không có người giúp đỡ trong chế độ này là một tội lỗi phải bị trừng phạt.
Vợ tôi cho ra đời thêm một đứa nữa, cuộc sống ngày thêm khó khăn. Gia đình đông con trong thời buổi này là một bất hạnh. Trước kia người ta thường chúc nhau con cháu đầy đàng, ngày nay không còn hợp thời nữa. Con cái tôi được cấp sách đến trường một vài năm rồi phải nghỉ học ở nhà làm mướn. Tôi cũng già theo tuổi thời gian, các lớp học tư ngày càng vắng vẻ vì cha mẹ các em cũng không có tiền cho con học tư, phần lớn đã bỏ như các con tôi đi tìm việc làm ở các nơi khác. Dòng đời lặng lẽ trôi đi, quanh tôi chỉ toàn màu đen ảm đạm, con cái tôi lớn lên trong khó khăn, tiếng cười đùa cũng thưa thớt dần. R)ồi có đứa tới tuổi trưởng thành, lập gia đình sinh con đẻ cái như mọi người khác.
Có lẽ sống mãi trong kiếp bần hàn, may mắn cũng chán nản đội nón ra đi. Con cái chúng tôi không khá gì hơn cha mẹ chúng mặc dù đang là tuổi trẻ, nghĩa là bồng bềnh, bấp bênh. Chồng của đứa con gái thứ ba chết trong một tai nạn ở rừng. Đứa con rễ theo đoàn xe be vào rừng đốn cây, trong một ngày mưa gió đường sá trơn trợt, nó đang lúi húi dưới gầm xe chêm bánh xe cho khỏi bị trượt lùi chẳng may những sợi dây cật các thân trên xe bị đứt, nó bị hai thân cây lăn xuống đè bẹp nát đầu và nát chân. Nó chết đi để lại đứa con thơ mới lên 5 tuổi, vợ chồng tôi đành phải mang con và cháu về nhà nuôi dưỡng. Có sống trong cảnh này mới biết thế nào là đau thương, đen tối.
Đối với con cái, cha mẹ nào cũng vậy chỉ mong cho chúng trở thành những người hữu ích cho xã hội. Tâm nguyện của tôi là hy vọng trong cuộc sống các con tôi có những đức tính tốt của loài người là lòng vị tha thương, bao dung và độ lượng. Chúng tôi thường dạy các con thương người như thể thương thân, sẵn sàng cứu giúp khi ai xảy bước chân và độ lượng tha thứ những kẻ đã hãm hại mình. Dù nghèo hay giàu phải luôn luôn tự vấn lương tâm mình, trong đời có thể làm bất cứ điều gì miễn sao không ngượng với chính lương tâm của mình là được, mặc cho tiếng đời khen chê. Giữ được như thế thì lương tâm sẽ luôn thanh thản.
Mặc dù có những lúc bi quan, tôi vẫn tin tưởng vì sao chiếu mạng. Ông Trời luôn luôn có mắt, những gian truân mà tôi đã trải qua chỉ là những thử thách của cuộc đời. Trồng cây nào ăn trái đó, quả đúng như vậy. Cuối năm Giáp Tuất 1994, tôi được một vị đại ân nhân ở Pháp tặng cho tôi một chiếc xe lắc tay, người đó là bác sĩ Phan Minh Hiển. Với chiếc xe này, nhân phẩm tôi đã được tìm lại, tôi dùng phương tiện thân thương này với những hàng chữ: Hội Médecins du Vietnam (Pháp) bảo trợ, đi khắp nơi để nói với mọi người rằng những người khốn khổ ở Việt Nam không bị bỏ quên. Hai mươi năm trời xa cách không làm cộng đồng người Việt hải ngoại dứt tình với quê hương. Mà quê hương dân tộc là gì nếu không phải những người nghèo khó, bị thua thiệt như chúng tôi. Tập thể anh em thương phế binh chúng tôi đã được hồi sinh.
Tiếp theo là các ông Nguyễn Trần Vũ và John gởi quà tặng thêm quà tiền cho gia đình chúng tôi. Từ đó tôi có phương tiện đi lại và tiền bạc để thăm viếng các anh em cùng cảnh ngộ trong vùng và hướng dẫn giúp đỡ. Nghe tôi ca ngợi công đức của ông bác sĩ cùng các ân nhân độ lượng Việt kiều ở hải ngoại, nhiều anh em phế binh viết thư xin giúp đỡ. Lời thỉnh cầu của tập thể anh em phế binh đã được nghe, mọi người trong vùng lần lượt nhận được quà tặng như xe lắc tay, xe lăn, nạng chống, tiền bạc, thuốc men do Hội Médecins du Vietnam, các hội đoàn thiện nguyện khác và các ân nhân hảo tâm Việt kiều từ khắp nơi gởi tặng.
Những món quà thân thương đầy tình nghĩa của các ân nhân không những có giá trị cao về vật chất mà còn thể hiện tinh thần đùm bọc cao quí. Tập thể anh em phế binh chúng tôi có được niềm tin trong cuộc sống, thấy lại những nụ cười từ lâu héo hắt trên môi trẻ thơ và nhất là tìm lại một phần nhân phẩm từ lâu bị chà đạp của những người cùng khổ. Lòng tôi dâng lên niềm xúc cảm sung sướng vô ngần, mặc dù quanh tôi luôn đầy rẫy những khó khăn. Chúng tôi sẵn sàng chịu đựng những phong ba, bão táp và nanh vuốt của bất cứ ai không muốn chúng tôi có cuộc sống khá hơn. Chúng tôi bất chấp tất cả, hơn hai mươi năm rồi, sức chịu đựng đã tới mức giới hạn, ép quá sẽ bùng lên thôi, chúng tôi không còn gì để mất nữa. Chúng tôi chỉ muốn được mọi người nhìn nhận nhân phẩm mà thôi.
Chúng tôi cầu mong, với những điều kiện sẵn có, quí vị ân nhân trong giới văn nghệ sĩ, quí vị lãnh đạo tôn giáo trong cộng đồng người Việt ở khắp nơi trên thế giới, hãy gióng lên những hồi chuông đánh thức lương tâm nhân loại, kêu gọi những người có trách nhiệm nơi đây trả lại chúng tôi cuộc sống bình thường. Công đức cao đẹp này sẽ muôn đời bất diệt.
Viết lại theo lời thuật của Võ Ngọc Chính,
phế binh địa phương quân, cụt hai chân,
hiện cư ngụ tại Long Hải, Vũng Tàu.