Chương 51
Sống sao cho trọn kiếp người

Tôi sinh ra tại vùng quê đồng chua nước mặn Cần Đước, tỉnh Long An. Trong nhà có tất cả tám anh chị em. Anh Cả đi học, chị thứ ba, thứ tư mất sớm, chị Năm, anh Sáu, chị Bảy, tôi và đứa em út mới lên hai tuổi. Nhà có tám miệng ăn, cha tôi làm nghề đánh xe ngựa, mẹ tôi buôn bán tạp hóa trong nhà. Mẹ tôi là một người đàn bà đôn hậu, buôn bán thật thà, tiệm mỗi ngày một thêm đông khách hàng. Cha tôi không cờ bạc, rượu chè, chỉ lo chở khách và hàng hóa từ quê ra tỉnh. Các anh chị em tôi đều ngoan, hiền, lễ phép. Cửa hàng mẹ tôi luôn tấp nập khách, trong nhà luôn rộn tiếng cười của anh em tôi. Bà con hàng xóm ngợi khen là gia đình có phước.
Cuộc đời tưởng vậy êm xuôi, nào ngờ tai họa giáng xuống gia đình. Sau một mùa mưa, mẹ tôi mắc bệnh dịch tả, chỉ qua một đêm dằn vặt trên giường bệnh bà đã trút hơi thở cuối cùng. Tuy bà con hàng xóm có đến tận tình cứu trị nhưng bà đã không thoát khỏi lưỡi hái của tử thần. Người mẹ thân yêu như vậy đã ra đi khi tôi vừa tròn 4 tuổi. Bà con hàng xóm ai cũng thương mến, biết bao người đã nhỏ lệ khóc tiễn mẹ tôi về lòng đất lạnh.
Gia đình tôi trải qua một khúc quanh oan nghiệt. Anh em chúng tôi cũng ít cười đùa, trong nhà mất hẳn vẻ vui tươi thường nhật. Cha tôi lúc nào cũng buồn dã dượi, ít cười ít nói hơn mọi khi. Cửa hàng tạp hóa teo hẹp dần rồi đóng cửa luôn. Bà con hàng xóm đến mua hàng là muốn được đến nói chuyện với mẹ tôi, nhiều người được bà cho mua chịu mà không cần thế chấp một vật gì cả, nay bà đã mất khách cũng mất theo. Chúng tôi còn quá nhỏ và bận đi học nên cửa hàng đóng cửa, đời sống vật chất gia đình trở nên khó khăn.
Anh Cả đành phải nghỉ học đi làm thuê, bạn ghe cho mượn xuồng đi buôn, suốt ngày sống dưới kinh rạch, nhiều khi cả tháng anh mới về thăm nhà một lần, nhưng chỉ ở lại một hôm rồi lại ra đi. Chị Năm hơn tôi 10 tuổi cũng bỏ học ở nhà thay mẹ lo việc bếp núc. Gia đình ngày càng sa sút, cha tôi buồn bã, lợi tức kiếm được do đánh xe ngựa không đủ để nuôi một gia đình đông con. Anh chị em tôi thấy cha buồn phiền cũng không dám nô đùa, những ngày này thật là ảm đạm.
Vào dịp cúng tuần giáp năm cho mẹ, bà cô ruột dắt chị Bảy và đứa em út về mãi trong đồng nuôi dưỡng, căn nhà càng thêm vắng lặng. Từ ngày đó anh Cả đột nhiên biến dạng, không thấy trở về thăm nhà sau mỗi chuyến đi buôn. Bà con hàng xóm cũng xa vắng dần, thỉnh thoảng mới có một người bác họ ở xa đến nhà thăm hỏi. Mỗi lần bác đến, nét mặt cha tôi đầy lo âu. Ông tiếp chuyện với bác ở nhà sau, chị Năm lo trà nước trong bếp còn anh em tôi ngồi nhà trước canh chừng. Bác dặn hễ thấy ai tiến vào nhà thì chạy vào báo. Bí mật hoàn toàn bí mật, tuổi thơ nào biết chuyện gì. Lớn lên tôi mới biết anh Cả đã theo Việt Minh.
Từ đó cha tôi càng lầm lì, thường ngồi trầm ngâm bên bàn nước suy tư suốt ngày. Có một đêm anh Cả về thăm nhà rồi sáng ra đi biệt dạng, tôi có nhiệm vụ canh chừng nhưng tuổi nhỏ hay mệt nên ngủ hồi nào không biết. Sự mất tích của anh Cả không giấu được hiến binh, những người theo Pháp làm lính địa phương, cha tôi bị kêu lên đồn giải thích nhiều lần. Thấy sống ở địa phương không được, ông gởi tôi và anh Sáu cho người cô họ, vốn là đại điền chủ trong huyện, còn ông âm thầm dẫn chị Năm lên Sài Gòn làm thuê cho một gia đình bán vải cũng bà con. Ngôi nhà thân thương đã âm thầm bán cho người khác. Kể từ đó gia đình trải qua một bước ngoặc mới, anh em chúng tôi mỗi người một phương, mỗi người một cách sống.
Lúc đó tôi vừa được hơn 5 tuổi. Anh Sáu và tôi ở nhà người cô. Cuộc sống mới nơi nhà người cô họ hoàn toàn xa lạ. Mỗi buổi sáng hai anh em phải thức dậy sớm rửa ly tách, lau bàn ghế, tập làm các công việc vặt vảnh. Tối đến tụng kinh niệm Phật vì bà cô họ rất sùng đạo. Đến tuổi đi học, tôi được bà cho cắp sách đến trường. Nhờ cố công học tập, năm nào tôi và anh Sáu đều được phần thưởng. Thỉnh thoảng sau mùa gặt, bà cô họ dẫn anh em tôi lên Sài Gòn thăm cha. Nghe anh em tôi được cắp sách đến trường, ngoan ngoãn và học giỏi, cha tôi rất hài lòng, ông để lộ nét hân hoan ra trên mặt, cười nói huyên thuyên. Thật hiếm thấy nụ cười trên môi cha tôi. Mấy ngày ở bên cạnh cha, được ông cho ăn, tắm rửa, tôi sung sướng vô ngần vì chưa lần nào được ông chăm sóc.
Chiến tranh Pháp - Việt đến hồi kết thúc. Giữa năm 1954, cha tôi về lại vùng quê vào đồng cất nhà, làm ruộng. Chị Năm vẫn ở Sài Gòn tiếp tục làm thuê cho người bà con chủ tiệm vải. Anh Sáu đậu vào Lycée Pétrus Ký ở Sài Gòn. Tôi được về sống cạnh cha tôi tiếp tục học hết bậc tiểu học. Giờ đây công việc nhà tôi đã khá rành, có thể tự lo cơm nước, dọn dẹp nhà cửa để cha lo việc đồng áng. Đến kỳ thi tiểu học, tôi được chấm đậu và trúng tuyển vào trường Pétrus Ký. Biết cha không đủ khả năng lo cho tôi lên Sài Gòn học, cũng như anh tôi, bà cô họ giới thiệu, gởi gấm ở nhà một người quen. Tại đây tôi làm đầy tớ không công để được ăn ở và đi học.
Nhưng tôi không được may mắn như anh tôi. Ngoài công việc thường nhật như sáng dậy sớm, xếp chăn màn, quét dọn, lau nhà, giặt đồ, tôi còn phải giữ em, phụ nấu ăn, dọn cơm, rửa chén, mọi việc phải làm thật nhanh để kịp giờ đi học. Có hôm đến lớp trễ, tôi phải tránh né giám thị vì đang mang dép, ở trường này học sinh bắt buộc phải mang giày có vớ. Chiều học về, lau rửa xe đạp, dọn cơm, rửa chén, dọn quét, lau nhà, ra phông ten gánh nước, dọn chỗ ngủ cho mọi người gần 9 giờ tối mới xong, sửa soạn học bài chưa được 5-10 phút thì chủ nhà tắt đèn bảo ngủ. Thắp đèn dầu hoặc đèn cầy thì chủ nhà không cho, sợ hỏa hoạn, thế là bài vở không học được. Học hành càng ngày càng bết dần, thua sút bạn bè. Cố gắng được hai năm, tôi đành bỏ học về quê sống với cha. Tôi biết cha tôi buồn lắm, nhưng ông hiểu rõ cảnh cơ cực của tôi khi ở trong gia đình này nên không nỡ rầy trách.
Từ đó tôi bắt đầu làm quen với nếp sống ruộng đồng. Nhổ cỏ mạ, câu cua, đặt vó bắt cá kèo, lươn, ếch, chuột đồng trở thành một nghề mới. Nhờ cố tâm học hỏi, cá cua bắt được dư ăn tôi đem ra chợ bán lấy tiền mua sách vở học thêm, trau dồi kiến thức. Tối đến tôi đọc truyện Tàu cho cha cùng một vài người hàng xóm nghe, mọi người đều vui vẻ. Trong thời gian này, cha tôi cố tìm ra tung tích người anh Cả qua những người kháng chiến cũ trở về nhưng bặt tăm vô tín.
Năm 17 tuổi, tôi đi làm thuê xa ở các vùng cửa biển. Thời gian này tôi tiếp xúc, học hỏi nhiều ở những người bần hàn lao động, chứng kiến bao cảnh ức hiếp, bất công của chủ nhân và bè phái đối với những người khốn khó, tha phương cầu thực như tôi. Tôi mới biết ở đời lòng người nham hiểm không lường. Ngoài việc mua bán cá biển tôi phụ làm cơm cho các anh em, thức ăn có chủ lo. Những khi làm đêm tôi lãnh tiền phụ trội do đó có dư chút tiền. Tôi tiêu xài tằn tiện, tiền làm phụ trội để dành sắm sửa quần áo và mua quà gởi về cho cha tôi và hàng xóm. Toàn bộ lương hàng tháng tôi gởi về cho cha để cha tôi khỏi phải nhọc nhằn trong cuộc sống và cũng để chứng tỏ tôi đã khôn lớn đủ sức bước vào đời một mình. Những hành động này có lẽ đã làm cha tôi an tâm và ông đi thêm một bước nữa. Bà mẹ kế đem bà chị và đứa em út về chung sống. Anh Sáu tốt nghiệp ra trường làm giáo viên, nghe đâu được bổ nhiệm ở Sài Gòn. Gia đình, anh chị em tôi đến đây tạm ổn.
Tôi bỏ nghề làm thuê mua bán cá biển và bắt đầu lênh đênh phiêu bạt. Đi đến đâu tìm việc đến đó, ở đâu tôi cũng thấy đầy rẫy bất công. Rồi chiến tranh bộc phát, tôi cũng như mọi thanh niên khác gia nhập quân đội. Tôi đầu quân vào lực lượng địa phương quân để được ở gần nhà. Rời trường huấn luyện sau vài tháng học tập, tôi được cầm súng bảo vệ quê hương. Địa phương tôi đóng quân trở nên bất ổn, quân cộng sản xâm nhập ngày càng đông, thế là bom đạn, đại pháo nả xuống các nơi tình nghi có quân địch. Hai bên đánh phá lẫn nhau liên tục, đồng bào, ông già bà cả, trẻ thơ vô tội đều bị họa lây. Trước những thảm kịch này, tôi chỉ là một người lính quèn, bất lực nhìn cảnh máu chảy thịt rơi.
Trải qua bao đơn vị, dự bao trận đánh, những anh em, bạn bè lần lượt nằm xuống. Rồi một ngày kia lại đến lượt tôi. Ngày 12-10-1965, trong trận giao tranh tôi đạp phải mìn đành bỏ lại đôi chân tại vùng đất Đức Hòa, thuộc tỉnh Long An. Suốt mấy tháng nằm giữa bốn bức tường vôi của Tổng Y Viện Cộng Hòa, tôi buồn tủi cho thân phận. Mới 25 tuổi đầu đã mang thân tàn phế.
Chứng kiến bao cảnh đời nghiệt ngã của người lính khi mang thương tật, tôi muốn chết đi cho rảnh nợ đời. Nhưng còn cha già, hơn nữa trước sự ân cần của các bác sĩ, y tá bệnh viện, thấy sự tận tụy của những y sĩ lương tâm tôi thức tỉnh trở lại. Tôi thấy cần phải sống để làm một cái gì đó giúp ích cho người, cho đời. Từ đó tôi yên tâm điều trị và sáng tác được mấy bài vọng cổ.
Chiến tranh mỗi ngày một lan rộng, chết chóc đau thương lan tràn, xóm làng, vườn tược tan nát. Không vùng quê nào còn được yên tỉnh. Những người dân quê mộc mạc dắt díu nhau chạy lên chốn thị thành lánh nạn, tìm kế sinh nhai. Cha mẹ kế dời nhà lên Sài Gòn ở Quận 8. Anh Sáu được quân đội cho biệt phái về Bộ Giáo Dục làm giáo viên. Xuất viện tôi về nhà cha mẹ kế. Bạn bè lần lượt đến thăm, nhờ đó tôi biết được tin tức của bạn bè, anh em kẻ còn người mất, tôi rất lấy làm an ủi.
Duyên đâu dung ruỗi. Cạnh nhà tôi có cô gái quê gốc Cần Giuộc cùng tỉnh Long An, theo gia đình tản cư lên Sài Gòn lập nghiệp, ngõ ý thương tôi. Cha mẹ cô cũng không chê tôi tàn phế, cho cô về làm vợ tôi để chăm sóc và an ủi tôi. Gia đình tôi ai cũng hài lòng. Cô ta chấp nhận lời giao kết của tôi: tuy chung sống nhưng phải được tự do, việc ai nấy làm, tiền bạc ai nấy sử dụng. Tôi cố tránh sự bẽ bàng có thể xảy ra mà tôi đã chứng kiến những anh em tàn tật như tôi. Hơn nữa thâm tâm tôi muốn sau này làm theo ước vọng của tôi. Đời tàn phế như vậy kể ra có nhiều may mắn, tôi thấy nhiều anh em cùng cảnh ngộ như tôi rất là long đong, đi đâu cũng bị người ta khinh dễ và coi thường.
Tết Mậu Thân 1968, khói lửa, bom đạn tràn vào Sài Gòn. Nhà cửa tôi bị thiêu rụi, chỉ còn một đống tro tàn. Nhà cửa và đồ đạc của cha mẹ kế cũng bị cháy sạch. Anh Sáu được lệnh tái ngũ và đưa ra Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Cha tôi về quê tá túc với người anh chú bác. Mẹ kế xuống Long Hải ở với chị Bảy. Còn tôi thì vào Viện Quốc Gia Phục hồi học nghề đánh máy chữ và kế toán, ăn nhờ cơm của viện chờ ngày lãnh sổ cấp dưỡng phế binh.
Vợ tôi đi làm thuê, hàng tuần đến viện thăm tôi, cho chút đỉnh tiền bạc và kho nấu thức ăn dự trữ, tôi chia sẻ những món ăn này với anh em chung phòng vì cơm tập thể lúc nào cũng khó ăn. Tôi gắng sức học nghề, số tiền vợ cho được dùng để giao tiếp với những anh em phụ trách làm sổ cấp dưỡng ở Bộ Cựu Chiến Binh. Nhờ thế, hơn 4 tháng sau ngày giải ngũ tôi được cấp sổ cấp dưỡng phế binh. Đây là một trường hợp khá đặc biệt, nhiều phế binh xuất ngũ khác có người phải chờ một vài năm mới nhận được sổ. Gia đình các tổ phụ, quả phụ càng thê thảm hơn, thậm chí có người phải chờ từ 4 đến 5 năm. Bất hạnh vẫn còn tiếp tục với người tàn phế.
Ngày cầm sổ vào ngân khố lãnh lương, tôi thấy cảnh ăn chực nằm chờ của bà con, anh em phế binh, tiếng kể lể than vãn nghe sao thật nảo lòng. Lãnh xong, tôi chia số tiền lãnh được ra làm bốn phần: một phần gởi về cho cha và người anh chú bác đã bảo bọc cha già trong suốt thời gian qua, một phần gởi cho mẹ kế và chị Bảy ở Long Hải, một phần cho vợ và mua quà cáp cho cha mẹ vợ, và phần còn lại để dành mời anh em phụ trách làm sổ cấp dưỡng tại bộ. Sau những lần mời qua mời lại, anh em phụ trách cho tôi qua phòng lựa những hồ sơ lưu trữ phế binh, tổ phụ và quả phụ lâu năm rồi chưa được giải quyết. Anh em trong phòng tận tình hướng dẫn cách thức sắp xếp, tôi tận tụy làm việc suốt ngày. Hồ sơ nào còn thiếu sót giấy tờ chi, tôi làm văn thơ nhờ trưởng phòng ký rồi gửi đến từng gia đình đương sự để bổ sung. Thỉnh thoảng tôi còn mời anh em trong phòng dùng cơm trưa.
Mới đầu anh em thấy tôi làm việc tận tụy không công mà còn chịu chi tiền, anh em nghi ngờ tôi làm như vậy để ăn tiền những hồ sơ chờ giải quyết, hoặc giúp những người thân.
Họ có biết đâu nguyên tắc làm việc của tôi rất giản dị, khi hồ sơ nào hoàn tất, tôi nhờ ban văn thư của bộ gởi cuốn sổ thẳng về các ty cựu chiến binh nơi đương sự cư ngụ chứ không mời đương sự đến bộ lãnh sổ. Không phải chỉ riêng một tỉnh mà trái lại tôi gởi những cuốn sổ cấp dưỡng đi nhiều tỉnh khác nhau và cũng không riêng gì một binh chủng mà trái lại tôi giải quyết hồ sơ thương phế binh ở nhiều binh chủng khác nhau, cả chủ lực quân lẫn địa phương quân và nghĩa quân. Anh em thắc mắc hỏi, tôi trả lời:
- "Thấy cảnh thương tâm của những người mang thương tật, tôi hiểu và chia sẻ với họ nỗi đau nên không muốn họ chờ đợi mãi một quyền lợi mà đáng lý ra họ phải được hưởng sớm nhất. Trong khi tôi ở đây ăn không ngồi rồi cần làm công việc gì đó cho ngày tháng. Sở dĩ tôi mời anh em ăn uống là vì quí mến anh em chứ không gì khác. Gia đình tôi tuy không dư giả gì nhiều nhưng cũng không đến nỗi thi°ếu ăn, số tiền tôi lãnh được sau khi đã chia cho người thân phần còn lại để tiêu xài. Ở đây tôi chẳng sắm sửa gì nên thỉnh thoảng mời anh em cùng nhau ăn uống, nói chuyện cho vui. Thế thôi!".
Mặc dù vậy, việc làm của tôi vẫn có nhiều người gièm xỉa, nói xấu nhưng tôi vẫn kiên tâm, nhã nhặn với từng người. Tôi tự nhủ lòng: "Mặc kệ những lời khen chê, mình cố gắng làm phận sự của mình, giúp được người nào hay người đó, miễn sao lương tâm mình không hổ thẹn là được rồi". Nhìn các đống hồ sơ trong các tủ vơi dần, cảnh ăn chực nằm chờ ở bộ cũng giảm, lòng tôi vô cùng thanh thản. Anh em, cô bác những anh em thương phế binh, những người đã chịu nhiều mất mát, đau thương trong cuộc chiến sớm có được niềm vui hay niềm an ủi rằng mình không phải là một gánh nặng thêm cho gia đình. Từ đó tôi bình thản tiếp tục công việc sắp xếp hồ sơ, gởi thư về các địa phương kêu gọi những đương sự bổ túc các giấy tờ thiếu xót để họ mau chóng nhận sổ ấp dưỡng.
Qua những chồng hồ sơ này, tôi mới biết trong thân tộc hai bên nội ngoại và bên vợ đều có nhiều thanh niên trong lứa tuổi của tôi bị tàn phế hay bị tử trận. Tôi cũng gởi thư về gia đình các đương sự yêu cầu bổ túc các giấy tờ thiếu xót nhờ đó mà các sổ cấp dưỡng đã được đến tay những người đó trong những điều kiện sớm nhất. Vòng đai thân tộc bên phía cha, phía mẹ ruột, phía mẹ kế và cả bên phía cha mẹ vợ, mọi người đều dành cho tôi nhiều cảm tình đặc biệt, hai bên nội ngoại đều rất hài lòng.
Ở vùng quê cha tôi không được khỏe. Mặc dù vợ và em út thường về thăm viếng, cung cấp thuốc men và tiền bạc cho cha nhưng tôi vẫn không an tâm. Đường sá về nơi cha tôi ở càng ngày càng mất an ninh, tôi cũng không dám đi về một mình lỡ có chuyện gì thì ân hận suốt đời. Hơn nữa, vợ tôi có mang đứa con đầu lòng sắp tới ngày sinh, cần bớt đi lại trong thời kỳ sinh nở. Trong lúc này lòng tôi rối bời. Cũng may là nhờ cha vợ và đứa em gái phụ giúp tiền bạc, tôi cất lại căn nhà cũ trên nền nhà bị cháy ở quận 8 hồi Tết Mậu Thân. Ngôi nhà nhỏ được anh em, bạn bè ở Viện và Bộ Cựu Chiến Binh phụ giúp xây lên nên hoàn thành khá nhanh. Lòng tôi vô cùng cảm động và sung sướng. Cuộc đời phế binh như vậy là may mắn lắm rồi.
Khi nhà vừa làm xong, việc đầu tiên là ra chợ mua liền một tủ kiếng để chưng hình mẹ tôi lên thờ. Ngày ăn tân gia, trên bàn thờ mẹ khói hương nghi ngút, tôi cố ý chọn đúng ngày giỗ lần thứ 22 của bà để tổ chức. Hôm ấy trong căn nhà đơn sơ nhỏ nhắn mọi người đều đến đông đủ,các anh chị em cùng những anh em, bạn bè đều cùng có mặt. Đứng trước bàn thờ của mẹ, cha tôi đốt nhang lâm râm khấn niệm, không khí trang nghiêm, lặng lẽ, anh chị em tôi đều sụt sùi nhỏ lệ làm mọi người xúc động theo. Cúng lễ xong, mọi người ngồi vào bàn tiệc, tuy đơn sơ, đạm bạc nhưng ai nấy đều thật lòng nên buổi tiệc thêm phần vui vẻ. Nhà không đủ chỗ ngồi, thanh niên trai trẻ ngồi xuống nền xi măng ăn uống, còn bàn ghế thì dành cho các bậc trưởng thượng.
Anh em trong Viện và Bộ Cựu Chiến Binh tình nguyện phụ giúp tôi treo lên tường những bức tranh, kỷ vật thân tặng để tỏ chút tình quí mến.´Ăn uống đến khuya, anh em bạn bè lần lượt ra về, những người thân trong gia đình chia nhau tìm chỗ nằm nghỉ. Niềm vui thật là trọn vẹn. Ngày hôm sau, mọi người ai về nhà nấy, riêng cha tôi thì ở lại với chúng tôi. Vợ tôi tiếp tục đi làm, sáng đi chiều về, làm bổn phận vợ hiền, dâu thảo.
Thỉnh thoảng tôi đến Viện, đến Bộ thăm anh em. Lúc này hồ sơ cũng ít tồn đọng nên anh em làm việc rất nhàn hạ, chỉ khi nào có bà con, bạn bè trực tiếp nhờ tôi mới vào can thiệp. Sau ngày ăn tân gia không lâu, vợ tôi về lại nhà cha mẹ ở kế bên để được chăm sóc. Đến ngày sinh nở, vợ tôi cho ra đời đứa con trai đầu lòng. Sau hơn ba tháng được bà ngoại tận tình nuôi dưỡng, hai mẹ con về lại nhà. Vợ tôi phải đi làm việc liền sau đó, cháu bé được ông nội chăm sóc, nuông chiều.
Anh Sáu, một lần nữa, được biệt phái về Bộ Giáo Dục, làm giáo viên trường Âu Dương Lân, quận 8 gần nhà, sau mấy năm cầm súng chiến đấu tại vùng U Minh, miền tận cùng đất nước và đã tham dự biết bao trận chiến kinh hoàng, khốc liệt. Tạ ơn trời đất đã cho anh trở về bình an, lành lặn. Anh đưa vợ và con từ dưới quê vợ lên Sài Gòn, cất nhà phía sau để ở. Các anh chị em tôi, dần dà ai cũng lập gia đình, có công ăn việc làm ổn định. Cha tôi rất mừng khi thấy gia đình các anh chị em sống trong hòa thuận và đùm bọc. Tuy vậy, ông vẫn còn nỗi buồn da diết là không có tin tức của người anh Cả, nghe đâu thiên hạ đồn anh đã chết.
Chương trình phát triển đô thị được thi hành. Căn nhà anh Sáu nằm trong khu vực bị giải tỏa vì người ta dự phóng xây dựng một con lộ. Tôi cùng vợ con xuống Vũng Tàu thuê nhà ở, nhường nhà lại cho anh chị Sáu phụng dưỡng cha già vì gia đình anh đông con, lương ít.