Chương 41

Ở những vùng xa đô thành Sài Gòn, những người cộng sản không nễ nang gì nữa. Họ ra lệnh tịch thu những căn nhà cứu tế của phế binh do chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cấp. Ơ? làng Mỹ Thới, anh em phế binh phải đi ra khỏi nhà trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Vì không còn nơi nương tựa, nhiều người đã bỏ miền Tây lên Sài Gòn sống lang thang trên các đường phố, đêm ngủ ở các sân ga, bến xe, sạp chợ và những nghĩa địa bỏ hoang...
Anh em chúng tôi đã gặp nhau, hỏi thăm và thông cảm lẫn nhau. Chúng tôi họp nhau thành những nhóm nhỏ và hàng ngày đến các đình chùa để lãnh nhang đi bán dạo khắp các phố phường. Chúng tôi đã gõ cửa từng nhà, thậm chí từng tâm hồn, để bày tỏ nỗi niềm, hoàn cảnh... Cũng may là chúng tôi đã gặp được nhiều người vẫn còn nặng lòng với quê hương, đã ân cần giúp đỡ chúng tôi và khuyên chúng tôi nên vững lòng chờ một ngày mai tươi sáng. Ngày mai đó chưa đến, nhiều anh phế binh bị tàn phế nặng, gia cảnh lại nghèo không đi bán nhang nổi, đã phải đi ăn xin. Chúng tôi cố kéo dài đời sống để chờ đợi, vốn liếng và sức sống vơi cạn dần theo năm tháng, ý chí phản kháng, chút hào khí còn lại của một chiến binh, bị cạn kiệt dần.
Trí óc chúng tôi trở nên chậm chạp vì hoàn cảnh khắc nghiệt của cơm áo dày vò. Cảm giác về cái đói lúc nào cũng canh cánh bên lòng. Chúng tôi thụ động trước hệ thống tuyên truyền trên các loa đài và báo chí cộng sản và không hy vọng gì ở các đài phát thanh Việt ngữ từ hải ngoại vọng về. Chúng tôi buôn "thỏng tay" đi vào cuộc sống như những xác không hồn, tự do và nhân quyền không có trong xã hội này. Sự lải nhải đến độ nhàm chán của các khẩu hiệu cộng sản cứ lặp đi lặp lại hoài, hết năm này qua tháng nọ, làm cho đầu óc chúng tôi mệt mỏi. Chúng tôi nhục nhã, bất lực chìm trong cuộc sống không có ngày mai. Con người trở nên đểu cán, sẵn sàng lừa dối nhau vì sợ đói, những bi kịch về sự phản bội xảy ra hàng ngày trong cuộc sống.
Hoàng Thụy là một phế binh cụt một chân ở Long Khánh, vợ anh còn chút nhan sắc đi mua bán than lậu. Trong một chuyến đi buôn vợ anh Hoàng Thụy bị bắt, vì muốn cứu lấy số hàng ấy nên chị đã chiều là làm... "vừa lòng" người cán bộ kiểm lâm. Sau đó cuộc sống vợ chồng hai anh chị trở nên khó thở, cuối cùng rồi hai người bỏ nhau. Chị đã dẫn đứa con gái nhỏ đi theo người cán bộ, còn anh Thụy thì lên Sài Gòn đi bán nhang dạo, hy vọng gầy dựng được ít vốn liếng về quê làm lại cuộc đời. Nhưng sau một thời gian lăn lóc, Hoàng Thụy tiêu dần số vốn, việc mua bán cũng tàn lụi theo thời gian. Anh gặp anh Nguyễn Văn Sơn, một phế binh cụt hai chân, hai người hợp nhau lại thành cặp "ca sĩ" bất đắc dĩ trên các hè phố.
Có lẽ đời sống hai anh sẽ khá hơn nếu như thành phố không có những "chiến dịch thu gom người già và tàn tật". Vào thời điểm Ba Nhiệm làm trưởng ban "truy quét tệ nạn xã hội" của thành phố, các anh em phế binh sống những ngày thật là kinh hoàng. Chỉ cần nghe hai tiếng Ba Nhiệm là tay chân anh em đã... rụng rời. Trong dịp mừng ngày "chiến thắng 30-4", nhà nào cũng treo cờ, đường phố giăng đầy những biểu ngữ hô hào những điều tốt đẹp, hai anh đã bị bắt khi đang hát: "Mặt trời mọc ở hướng Đông, nhưng ở đây, quê hương tôi, hướng Tây mặt trời vẫn mọc..." ("Mặt trời mọc ở hướng Tây", lời và nhạc của cố nhạc sĩ Nguyễn Trung Can sáng tác khi bị giam ở Khu Fatima, Bình Triệu. Anh bị phạt cách ly với các bạn tù một tháng).
Hai anh bị toán dân quân và công an có nhiệm vụ truy quét trói và quăng lên xe chở về Nhà Nuôi số 3 ở Thị Nghè. Tại đây, anh Sơn và anh Thụy đã tỏ ra bướng bĩnh khi làm "tờ nhận tội" liền bị cho là "ngoan cố", cán bộ chấp pháp đi vòng ra sau lưng co chân đá vào lưng khiến hai anh bị văng xuống nền xi-măng và đạp vào đầu nên cả hai bất tỉnh. Ở Thị Nghè được vài ngày thì hai anh bị đưa đi "lao động cải tạo" ở Nhà Nuôi số 4 Phú Giăng, Sông Bé.
Tuy gọi là "nhà nuôi" nhưng thật ra đó là những nhà giam theo đúng nghĩa, những người bị đưa vào đây đều bị coi là "tội phạm" hình sự, do đó bị tra tấn và hành hạ thường xuyên; hơn nữa điều kiện giam giữ cũng nghiệt ngã không thua gì những trại giam nổi tiếng khác. "Tội phạm" là những người bị bắt trong các đợt bố ráp lòng lề đường, sau một thời gian bị tạm giữ ở các "nhà nuôi" trong thành phốtất cả bị phân loại và đưa về các "nhà nuôi" khác rộng rãi hơn để lao động. Khác với các nhà giam, tại đây không ai có quyền khiếu nại là bị giam giữ trái phép hay không có án phạt rõ ràng; thời gian ở nơi đây được coi là để "nuôi dạy" nên có thể ở vô thời hạn, nhiều người đã ở lại vĩnh viễn. Thời gian bị giam giữ tùy thuộc ban quản giáo trại, những hung thần có quyền sinh sát trên số phận tù nhân; sự hiện diện của công an cũng có phần kín đáo hơn vì tất cả đều mặc thường phực nhưng cấp bậc vẫn theo nghạch công an.
Ai đã ở Nhà Nuôi số 4, Phú Giăng Sông Bé thì sẽ nhớ mãi những nỗi kinh hoàng trải qua. Mỗi nhà nuôi có vài căn trại, mỗi căn rộng chừng 200 mét vuông với khoảng 100 người bị giam trong đó. Tối về mọi người phân chia chỗ nằm và thay phiên nhau ngồi quạt cho nhau. Sáng đến, khi nghe tiếng kẻn điểm danh và lao động, người này lay gọi người kia, ai nằm im không cục cựa nữa thì đem đi... hỏa thiêu tại lò thiêu Bà Quẹo, ai còn sống thì đi lao động.
Tại đây mọi người đều phải làm việc, người mù thì ngồi lặt đậu phọng, người cụt hai chân thì đan rổ, người cụt hai tay ra giếng đạp trục bơm nước cho người cụt một chân hay cụt một tay thì xới đất, tưới cây. Ai cũng có việc làm để sinh lợi cho "nhà nuôi" và các cán bộ quản trại. Thân nhân những người bị giam giữ chỉ được vào thăm nuôi mỗi tháng một lần, quà cáp thăm nuôi bị kiểm soát rất kỹ. Anh em nào được thăm nuôi thường chia sẻ với những người mới bị bắt vào từng cục đường, trái chuối. Nhiều người quá đói ăn luôn cả vỏ chuối và xin luôn cả vỏ chuối của người khác để ăn, có khi còn nhấm nháp cả cùi bẹ chuối.
Ở "nhà nuôi", anh em thường hay chết vì những nguyên nhân "không đáng kể". Ai bị bệnh nặng phải chờ qua hôm sau, có khi qua hôm sau nữa mới được khám và cấp thuốc, nhiều người đã không chờ được "ngày hôm sau" đó. Bệnh tiêu chảy và kiết lỵ đã giết chết nhiều anh em. Những cuộc trả thù báo oán giữa các phe phái trong việc tranh giành chức đàn anh để hưởng một vài quyền lợi cũng đã làm nhiều người thiệt mạng. Khu đất canh tác sau "nhà nuôi" ngày xưa lưa thưa mồ mả, nhưng từ khi có anh em phế binh về đây thì số lượng mồ mả đầy kín cả khu vực. Xác những người bất hạnh được bó sơ sài trong mảnh chiếu tre rồi được chôn cất vội vàng phía sau trại, làm phân bón cho cỏ cây. Nơi đây cây mì, củ lang mọc rất xanh tốt, nuôi sống những người còn lại.
Sự đời cái gì cùng quá thường hay sinh biến, "cùng tắc biến, biến tắc thông". Trong số các anh em phế binh có anh Năm, một phế binh cụt cả hai chân, già nhưng có nhiều kinh nghiệm. Trong lần đi bán nhang xa bị ế không về nhà kịp nên anh phải ngủ "bụi". Xui cho anh là lúc đó đang có chiến dịch, người ta đã xúc anh lên xe và đưa vào "nhà nuôi". Anh nhớ lại một câu nói: "Khi người cộng sản đã nói là thương và giúp đỡ cái gì thì cái đó sẽ mất", và anh không khỏi rùng mình mỗi khi nghe hai tiếng "nhà nuôi" và "cải tạo".
Cùng cực quá hóa liều, anh Năm nghĩ là ở lại đây chỉ có chết thôi nên đã rủ một bạn khác tìm cách trốn trại. Anh nhờ anh Xuyến mù hai mắt cõng trốn. Nhưng chẳng may hai anh đi lạc đường, lọt trúng ổ phục kích của công an trên tuyến đường từ Phú Giáo về Tân Uyên chận bắt dân buôn lậu than. Cả hai anh bị bắt lại và bị trói ngồi vào một góc rừng chờ giải giao về lại Phú Giăng. Trong đêm tối hai anh lén cởi được dây trói trốn được vào rừng, rồi từ đó đi dọc theo tuyến xe về Tân Uyên. Đêm đi ngày nghỉ, hai anh đi suốt đêm và bới trộm khoai ăn. Đi được ba hôm, hai anh quyết định ra lộ đón xe về lại Sài Gòn. Hành khách trên xe hiểu chuyện đã chung góp nhau một số tiền giúp đỡ hai anh mua nhang bán tiếp.
Anh Thụy và những anh em phế binh khác thì không có cơ may như thế nên đã ở lại "nhà nuôi", chịu đói đến xanh da, mỗi bữa chỉ được ăn chưa đầy hai chén cơm và một khoanh củ mì. Mỗi tuần lễ các anh em được ăn mắm ruốc một lần, những ngày thường thì ăn cá khô hay cá ươn, loại dùng để nuôi heo và bón cây. Vì ăn quá mặn và uống nước nhiều có cảm giác no, lâu ngày nhiều anh em mắc các loại bệnh đường ruột.
Tiêu chuẩn được đi vệ sinh của mỗi trại viên mỗi ngày hai lần, muốn đi phải "đăng ký" trước và cho cán bộ rảnh rỗi mới dẫn cả đoàn đi. Nếu anh em nào bị "chột" bụng, mắc bệnh kiết lị, lỡ "ị" ra quần hay xin đi quá "tiêu chuẩn" thì bị phạt roi. Người bị phạt phải nằm xuống chịu cho cán bộ quản giáo quất hai roi vào lưng hay vào đít cho mỗi lần "vi phạm nội qui" của trại. Cho nên anh em rất sợ mắc bệnh kiết lắm, cán bộ phụ trách "hình luật" không nương tay với bất cứ ai.
Kể cũng nhục thật, mặt những thằng nhỏ cán bộ quản giáo đáng tuổi con cháu mà dám cầm roi quất vào thân hình tật nguyền của những người đáng tuổi cha chú nó. Không biết sau khi hành hạ người già yếu và tật nguyền như vậy chúng nó có sung sướng gì hơn không. Nhiều thằng còn văng tục chửi bới những anh em nào né đòn hay kêu đau. Mỗi lần mang ai ra quất, thường là buổi chiều tối, ban quản giáo triệu tập tất cả trại viên lại rồi "thi hành kỷ luật" ngay trước mặt mọi người. Nhiều anh em đau tức quá chửi lại thì bị quất nhiều hơn, có anh nằm luôn tại chỗ, những trại viên khác phải khiêng vào phòng xức dầu cù là và hái lá cây rừng xoa vào vết thương cho chóng lành. Trong lúc hoạn nạn mới biết tình người thật đúng.
Anh Hoàng Thụy, sau một thời gian bị giam giữ đã kiệt sức, mắc bệnh lao nên được thả về. Về lại Sài Gòn, anh gặp lại anh Sơn ở ngoài đời. Anh Sơn vì sức yếu và cụt hai chân không làm gì nên chỉ ở một thời gian ngắn và được thả về trước. Lần này hai anh không còn dám đi ăn xin nữa, thường là nằm nghỉ trong các nghĩa địa chịu trận, "ăn xin" bà con trong "cộng đồng nghĩa địa" cho ăn.
Anh Năm Huệ, một lão tướng trong nghĩa địa, bày cho các anh em cách che mắt những người có nhiệm vụ truy quét tệ nạn xã hội trên các lòng lề đường bằng cáchsắm sẵn vài bó nhang mang theo trong người, lỡ khi bị chận bắt thì chìa ra làm bằng chứng: "...Tụi tui đâu có đi xin, tui đi bán nhang cho nhân dân thờ kính ông bà mà", và anh còn dặn thêm:
- Phải cãi cho đến cùng, đừng hy vọng họ sẽ cảm thông. Nếu cãi không được thì phải tìm cách chạy trốn.
- Thôi, tôi không còn gì nữa - Sơn ngao ngán thở dài. Tôi để thành phố này lại cho cộng sản ở, để họ ăn cơm và thở hít không khí được nhiều hơn. Tôi tìm đường về các miền quê xa.
Nhưng hai anh Thụy và Sơn thì đã thất chí nên không còn nghe gì nữa cả. Năm Huệ cố tìm lời khuyến khích:
- Sao mà bỏ cuộc sớm quá vậy, chúng ta cần phải hiểu cách nghĩ nhìn của người cộng sản, phải "diệu dụng" trí xảo mà kéo dài đời sống chớ!
- Sống để mà làm gì? - Sơn hỏi lơ đãng.
- Để chờ đợi - Năm Huệ trả lời.
- Chờ đợi cái gì! - Hoàng Thụy thở ra, mắt nhìn xa xăm. Chúng ta đã chờ đợi... hơn hai mươi năm rồi, đầu nay đã mọc hai thứ tóc. Cái mà anh em mình chờ đợi có bao giờ đến đâu?
Năm Huệ nhìn họ:
- Thật ra điều chờ đợi và hy vọng của chúng ta là... tình thương, khi tình thương trở lại thì mọi sự sẽ khác thôi.
- Tình thương! Rời rạc quá anh Năm à. Tình thương làm gì có trên đời này? Nói để cho có nói mà thôi.
- Vậy những năm tháng đã qua anh em sống bằng gì? Nếu như không có tình thương thì chúng ta đã chết cả rồi. Có điều là chúng ta cần phải áp dụng câu ngạn ngữ của người Tây hay nói đó: "Mày hãy tự giúp mày đi, trời sẽ giúp lại". Mấy chú còn nhớ không?
- Là sao? - Sơn chẳng hiểu gì cả, mệt mỏi hỏi lại.
- Là... là mình hãy tự cứu mình đi, rồi trời sẽ cứu mình lại.
- Què cụt như chúng mình lo cho mình còn chưa xong thì còn hơi đâu làm được cái gì khác nữa - Thụy ngao ngán nhìn Sơn.
Sau lần nói chuyện đó, Thụy và Sơn không còn tiếp xúc với anh em nữa. Họ thường im lặng, nên anh em chúng tôi cũng không hiểu họ cảm giác ra sao về cuộc sống.
Một buổi chiều kia, hai anh Thụy và Sơn ra bến Bạch Đằng nhảy xuống sông Sài Gòn tự tử. Những người dạo mát ở gần đấy kể lại rằng: "Hai người ấy ngước mắt nhìn tượng Đức Trần Hưng Đạo chỉ tay xuống dòng sông một lúc lâu rồi mới nắm tay nhau nhảy ủm xuống dòng nước đang chảy xiếc...".
Xác hai anh được vớt lên. Cha anh Sơn, một ông già còm cõi đang bán bánh ú và bánh tét quanh chợ Bến Thành, hay tin đến nhìn xác con. Nhưng ông im lặng đứng chung vào với những người hiếu kỳ, ông không dám đứng ra nhận là thân nhân của người xấu số. Ông không có tiền để mai táng con ông. Ông đứng thẩn thờ nhìn chiếc xe chở xác con ông đi khuất rồi mới dám khóc. Những giọt nước mắt từ lâu bị đè nén đã tuôn trào như mưa.
Sau khi hay tin hai anh Sơn - Thụy cùng nhau tự tử, cảm giác bấp bênh về một cuộc sống vô vọng ở ngày mai đè nặng lên tâm trí các anh em phế binh còn đang lang thang khắp thành phố kiếm sống. Hai chữ "tự tử" lờn vờn trong tâm trí của anh em, mỗi người suy nghĩ cách từ bỏ cuộc sống của mình.