(tt)

Dịch giả: Lê thị Duyên
Hồi chung cục của Hạm đội liên hợp

    
gày lễ Phục sinh 1 tháng 4 năm 1945, 1.200 chiến hạm đủ mọi cỡ của hạm đội Mỹ bố trí về phía Tây nam đảo Okinawa trước các bãi biển đổ bộ. Trong nội buổi sáng, 50.000 quân đã được đổ lên bờ và có thể chiếm các phi trường kế cận Yontan và Kadena mà không gặp một sự chống đối nào cả. Đến 16 giờ các hải vận hạm chính đã có thể nhổ neo đi chở các đơn vị đổ bộ tiếp theo. Chúng bị ngạc nhiên khó chịu với các cuộc tấn công của hai phi cơ Kamikaze, mỗi chiếc đâm trúng một hải vận hạm. Đấy là biến cố duy nhất của ngày đầu tiên. Một sự im lặng hoàn toàn, giống như thế đã đánh dấu 4 ngày kế tiếp. Các đơn vị lần lượt được đổ bộ và bố trí trên phần phía nam đảo. Tướng Buckner đồn trú vững chắc quân sĩ của ông trên các cánh đồng rải rác vườn cây và vườn hoa trải dài từ đỉnh núi Kakazu bị pháo đài xưa cũ Shuri chế ngự, và eo đất rất chật hẹp Ishikawa, thắt chặt lại như một chiếc nịt ngực ngay đoạn giữa hòn đảo rộng lớn.
Dư luận chung rất là lạc quan. Binh sĩ của lục quân trong tâm trí chờ đợi được thấy một cảnh trí lỗ chỗ hố bom đạn như cảnh mặt trăng, đã nói đùa với nhau và nói bóng gió rằng các câu chuyện về Iwo Jima do Thủy quân lục chiến kể lại đều “đã quá phóng đại như thường lệ”. Phần nguy hiểm nhất của một cuộc hành quân loại này là lúc đổ quân lên bờ, sự kiện đổ bộ thành công 200.000 người dường như là một triệu chứng tốt. Cuộc tấn công vào các đỉnh núi phía Nam đảo, các đỉnh Kazuka và Shuri, được ấn định vào ngày 9 tháng 4.
Tuy nhiên trước bình minh ngày 6, trong khi các chiến hạm Mỹ chuẩn bị thực hiện cuộc hải pháo buổi sáng vào các cứ điểm của Nhật, thì tiếng nổ dòn của cao xạ D.C.A đã phá tan sự im lặng. Những chùm bom đã quấy rộn mặt biển im lặng. Lần này, không còn nghi ngờ gì nữa, địch quân đã phản ứng.
Và phản ứng kinh khủng biết bao! Hai khu trục hạm đang tuần tiễu trước các đại chiến hạm đã hoàn toàn bị Kamikaze phá hủy, những chiếc khu trục hạm làm mốc rađa có phận sự canh phòng không phận ngoài khơi,phải chịu đựng một trận đánh vô vọng với các phi cơ tự sát ào tới hết đợt này đến đợt khác không ngừng nghỉ. Chính cảnh địa ngục tại Lingayen đã được tái diễn với tầm mức rộng lớn hơn nhiều. Trong vài phút tất cả các khu trục cơ trên các mẫu hạm đều cất cánh và nhiều cuộc không chiến ác liệt diễn ra trên các khu trục hạm làm mốc rada để toan tính chặn đứng phi cơ Kamikaze. Những tiếng nổ của đạn phòng không làm bầu trời nổi đốm đen giống như những quả bong bóng của trẻ con, trong đó những cánh phi cơ Zéro tơi tả hay những thân phi cơ oanh tạc nặng nề nhào lộn theo hình chữ chi. Đa số các máy bay tấn công đã kéo theo sau những vệt khói. Thỉnh thoảng một phi cơ đâm xuống nước bùng cháy một thoáng rồi nổ tan và biến mất trong một xoáy nước đen ngòm. Đôi khi nhiều cuộn khói nặng nề đã bốc lên cao từ chính các chiến hạm. Đến 4 giờ chiều, cơn cuồng nộ dịu hẳn đột ngột cũng như khi bắt đầu. Số lượng các cuộc tấn công tự sát lên đến 355. Một số gần tương đương oanh tạc cơ tung ra các đợt tấn công cổ điển rất hữu hiệu, phi cơ săn giặc Mỹ hoạt động không xuể, gần như không có chiếc nào bị bắn hạ.
Nếu tổn thất về phi cơ của Mỹ cực kỳ thấp, thì tình thế lại khác hẳn đối với hải lực: 6 khu trục hạm bị đánh chìm, 17 chiến hạm các kiểu bị thương tổn trong đó có 10 chiếc vĩnh viễn không còn sử dụng được nữa. Số tử thương là 466, số bị thương - phần đông là bị bỏng khó sống - lên đến 568.
Trong lúc diễn ra loạt tấn công mệt nhoài ấy, hạm đội Nhật đã khởi hành cho chuyến ra đi tự sát, theo đúng kế hoạch Ten-Go. Quyết định dứt khoát đưa thiết giáp hạm Yamato, tuần dương hạm Yahagi và 8 khu trục hạm, tức là gần toàn diện hải lực tại chính quốc của Nhật, vào chỗ chết, đã được chuyển đến cho các giới chức liên hệ. Những người này cũng không ít ngạc nhiên khi biết rằng hải đội được cấu tạo như thế lại được giao cho Phó đô đốc Ito, mặc dầu ông ta chưa bao giờ chỉ huy một trận hải chiến, mà suốt thời kỳ chiến tranh chỉ làm việc tại Bộ Tổng tham mưu. Sự kiện duy nhất này chứng tỏ rằng Tổng hành dinh Thiên hoàng không có một phút nào nghĩ đến một trận hải chiến thật sự sẽ xảy. Hiểu rằng một cuộc điều động ra đi trong các điều kiện như thế sẽ gây nên biết bao lời chỉ trích, Toyoda phái viên Tham mưu trưởng của mình, Kusaka, đến thiết giáp hạm Yamato để hội họp với các sĩ quan cấp tướng của hạm đội. Những giới chức này sau khi biết rõ chuyện gì, yêu cầu một thời hạn để lấy ý kiến các hạm trưởng. Toàn thể đều nhất trí gạt bỏ ý tưởng một sứ mạng - tự sát kiểu này, không phải vì một sự hy sinh nhường ấy đã làm cho họ công phẫn, nhưng bởi vì nó không có một cơ may nào được bù trừ bởi sự phá hủy một mục tiêu quan trọng.
Trên chiếc tuần dương hạm Yahagi, Đề đốc Komura, Tư lệnh hải lực nhẹ, triệu tập sáu đại tá và ba trung tá hạm trưởng dưới quyền. Tham mưu trưởng của ông. Đại tá Hara, sẽ sống sót sau thảm cảnh, đã kể lại cho chúng ta mọi chi tiết về quang cảnh đã diễn ra trên chiến hạm của ông. Chúng ta ghi lại ở đây qua những nét chính:
- “Các ông, Komura nói, tất cả các ông đều đã thấy kỳ hiệu được kéo lên chiếc Yamato ra lệnh cho chúng ta thực hiện hành quân Ten-Go. Cuộc hành quân này đơn thuần chỉ là một cuộc tự sát, và tôi đã nói điều đó với vị Tham mưu trưởng của hạm đội liên hợp. Tôi được sự đồng ý của hai vị Đề đốc hiện diện. Phó đô đốc Ito giữ im lặng khiến tôi không rõ ông nghĩ gì. Như các ông đã biết, tôi là Tham mưu trưởng của Ozawa khi ông ta bị phái đi đóng vai trò nhử mồi trong vùng biển Phi Luật Tân. Tôi đã thấy một số lớn binh sĩ của ta bị giết chết. Tôi không chú ý đến số phận của bản thân tôi, nhưng tôi ghê tởm việc bắt thủy thủ đoàn của ta hy sinh trong một cuộc hành quân vô ích như vậy. Do đó tôi yêu cầu có một thời hạn để biết quan điểm của các ông”.
Một sự im lặng suy tư tràn ngập khiến không một ai dám khuấy động. Đột nhiên một trong các đại tá hạm trưởng cất lời:
- “Có phải Kusaka đến đây dùng sức mạnh bắt ta thi hành lệnh không?”
- “Ông ta không nói đến mệnh lệnh, Komura trả lời. Không ai có thể ra lệnh cho người khác phải chết. Có thể là ông ta có mệnh lệnh ấy, nhưng ông ta không nhắc nhở đến. Ông ta chỉ đòi hỏi những đề nghị của các ông”.
Viên sĩ quan lại cất lời, giọng lạc hẳn đi: “Tôi có mặt với Kurita tại Leyte. Cuộc hành quân ấy đã lố bịch rồi. Cuộc hành quân mà nay chúng ta được yêu cầu thi hành càng lố bịch hơn. Chúng ta sẽ chết tất cả và còn lại gì để phòng vệ chính quốc?”.
Lời thuyết minh này có hiệu lực làm mọi người hết cứng lỗi. Có những tiếng la “chúng tôi cũng nghĩ như ông ấy” Nhiều tiếng thì thầm tán đồng lan tràn. Cuộc hội nghị chuyển qua một khúc quanh kỳ dị. Đô đốc Komura vẫn im lặng, mắt lim dim. Hạm trưởng Hara, người rất có ảnh hưởng trong số các hạm trưởng khu trục hạm lên tiếng:
“Giải pháp thông minh nhất theo ý tôi là thực hiện các cuộc hành quân biệt lập trên trục giao thông quá kéo dài của địch. Chiến hạm của tôi, chiếc Yahagi, có một rada và một máy Sonar mà rốt cuộc ta phải hãnh diện. Tôi sẽ tiêu diệt ít ra là một nửa tá chiến hạm trước khi bị khám phá. Thế còn hơn là giải pháo mà người ta đề nghị cho chúng ta vốn chỉ là đem trứng chọi đá”.
Lúc ấy nhiều hạm trưởng khác cũng đưa ra các đề nghị tương tự. Tất cả đều hãnh diện với chiến hạm của mình và tỏ ra nóng nảy vì ham muốn tung chúng vào trận đánh. Cái chết không quan trọng lắm đối với họ, nhưng với điều kiện là chết để phục vụ cho một cái gì, và họ biết các thủy thủ đoàn cũng bị khích động bởi cùng những ham muốn như họ. Một trong các hạm trưởng kết luận cuộc tiếp xúc bằng những lời được nói lên với nhiệt tình chan chứa:
“Toàn diện chiến hạm Asashino của tôi đều được giương về trận đánh, Xin hãy cho nó một cơ may để phục vụ đắc lực cho tổ quốc!”
Lúc đó, Komura cho dọn bữa ăn trưa. Không một ai đụng đến bữa ăn, các sĩ quan tiếp tục trao đổi quan điểm.
Đúng 13 giờ, Đô đốc đi đến chiếc Yamato. Ông trở về lúc 15 giờ và mặt tái ngắt bước vào phòng khách nơi các sĩ quan chờ ông:
“Tôi đã chấp nhận thi hành mệnh lệnh. Nó sẽ có hiệu lực lúc 15 giờ 30”.
Sau khi liếc mắt nhìn quanh, ông kể lại chuyện gì đã xảy ra:
Tôi đã trình bày quan điểm của các ông và nhấn mạnh rằng tôi cũng chia sẻ quan điểm ấy. Kusaka và Ito chăm chú nghe tôi. Nhưng khi tôi dứt lời, Kusaka đã giải thích rằng đây là một cuộc điều động đánh hướng để tập trung các phi đoàn của những hàng không mẫu hạm địch trong lúc hàng trăm phi cơ Kamikaze tại Kiou-Siou tấn công vào các chiến hạm chở quân đổ bộ. Ông ta kết thúc bằng cách nói rằng kế hoạch không do ông vạch ra nhưng ông tin rằng đợt ra quân của chúng ta sẽ không kết thúc một cách vô ích như các lần trước. Và để trả lời câu hỏi của một vị Đô đốc, ông ta nói thêm rằng toàn thể xứ sở sẽ phẫn nộ nếu như chiếc Yamato vốn đã bị công khai mệnh danh “khách sạn nổi của những Đô đốc ngu xuẩn” vẫn còn nguyên vẹn khi chiến tranh chấm dứt, sau khi nghỉ ngơi trong ba năm liền không hề bắn một phát đại bác. Lúc đó Đô đốc Ito phá vỡ sự im lặng đầy bối rối tiếp sau lời của Kusaka.
“Thưa các ông, ông ta bảo, chúng ta được cung ứng một cơ hội để chết một cách vinh dự. Một võ sĩ đạo luôn luôn sẵn sàng hy sinh đời sống của mình”.
“Câu nói nhắc nhở đến chân lý ấy đã chấm dứt cuộc thảo luận. Tất cả chúng tôi đều hứa thi hành mệnh lệnh”.
Komura cúi đầu xuống khi nói những lời này, như là để xin lỗi vì đã nhượng bộ áp lực của thượng cấp.
Lúc ấp, đại diện mọi người, Hara lên tiếng, tin chắc là sẽ diễn tả đúng tư tưởng của họ:
“Thưa Đô đốc, chúng tôi xin cám ơn ông đã trình bày ý tưởng của chúng tôi. Nhưng lệnh là lệnh. Chúng tôi sẽ cố gắng làm hết sức mình”.
Các sĩ quan nghiêng người tỏ dấu hiệu dồng quan điểm, và cáo biệt để trở về chiến hạm.
Công cuộc chuẩn bị nhổ neo được thực hiện lập tức, rồi các bệnh binh được di tản cũng như các sinh viên sĩ quan đang thực tập và tất cả những nhân viên không cần thiết lắm. Nhiều người trong số này muốn ở lại trên chiến hạm, và phải dùng mệnh lệnh bắt buộc họ rời tàu. Đến tối, Komura triệu tập tất cả các hạm trưởng để ăn bữa cơm vĩnh biệt. Ông đã tìm thấy lại được thái độ nhã nhặng thường lệ và mời các thực khách uống rượu Saké thả giàn. Dạ tiệc diễn ra trong một bầu không khí siêu thực. Ai cũng tỏ ra vui sướng, nhưng sự đùa giỡn trong phòng ăn sĩ quan, những câu chuyện vui về chiến trận tạo nên những tràng cười và hoan hô. Sau khi các hạm trưởng khu trục hạm ra đi, Đô đốc Komura và hạm trưởng Hara chấp thuận đến phòng ăn của sĩ quan cấp dưới thuộc chiến hạm Yahagi. Ở đấy cũng thế, rượu Saké chảy như thác cho đến 23 giờ, và đêm thức canh phòng chấm dứt trong một truyền thống thuần túy Nhật Bản, ai nấy đều che giấu vẻ mệt nhọc và say sưa do sự tôn trọng một sự câu thúc có tính cách nghi lễ.
Hôm sau ngày 6 tháng 4 năm 1945, lúc 16 giờ, siêu thiết giáp hạm Yamato, tuần dương hạm Yahagi và 8 khu trục hạm hộ tống của chúng nhổ neo rời Tokayama để thực hiện chuyến hải trình cuối cùng. Đô đốc Ito ra lệnh men theo bờ biển phía đông đảo Kiou Siou trong đêm tối. Đến 4 giờ sáng ngày 7, ông ra lệnh hướng về phía tây để lôi kéo càng xa càng tốt các phi cơ địch vốn sẽ không chậm trễ cất cánh săn đuổi.
Chúng không chậm trễ thật. Lúc 11 giờ 30, một trong các trạm gác giặc trên đảo Amami báo hiệu “250 phi cơ địch, tiến về phía bắc”. Đó là các phi cơ của Lực lượng đặc nhiệm 58 của Spruance đã từng được báo tin từ đêm hôm trước về sự xuất đầu lộ diện của hạm đội Nhật. Bốn mươi phút sau, các rada của chiếc Yamato thấy chúng xuất hiện trên mặt kính và Ito thông báo tin tức cho tất cả chiến hạm đồng thời ra lệnh dang va nhau và chạy hết tốc lực. Từ trên đài chỉ huy chiếc Yahagi, Komura và Hara thấy chiếc thiết giáp hạm danh tiếng, mà hải quân sùng bái “bằng một thứ niềm tin gần như tôn giáo”, hơi hướng mũi lên trời nâng cao hai làn sóng vĩ đại hai bên sống mũi tàu. Trong cơn mưa phùn bay lất phất, nhìn thấy chiếc thiết giáp hạm thần túy và hùng tráng ấy rẽ sóng với tốc độ 35 gút, quả là một quang cảnh khích lệ, mặc dầu tình thế đã đến lúc nghiêm trọng. Những người không được dự kiến cuộc tàn sát tại Leyte không thể tưởng tượng được rằng một chiến hạm khổng lồ như thế lại có thể gục ngã dưới sức tấn công của phi cơ. Nhưng Komura là người, đã trông thấy thiết giáp hạm Musachi bị đánh chìm, nên không hề nuôi ảo tưởng.
Lúc 12 giờ 20 trưa, một cơn mưa rào bất chợt bao phủ các chiến hạm trong một màn sương lờ mờ. Không một phi cơ nào bị nhìn thấy mặc dầu các rada canh chừng không phận của chiếc Yawato vẫn có thể theo dõi chúng trên màn ảnh và ra lệnh hướng về phía chúng, tất cả các nòng đại pháo của thiết giáp hạm kể cả những khẩu đại bác khổng lồ 460 ly.
Đột nhiên trinh sát viên của chiếc Yahagi la lớn: “Hai phi cơ tả mạn phía trước!” và lập tức tất cả súng phòng không của tất cả các chiến hạm bắt đầu nổ tứ phía. Không phải chỉ có hai chiếc phi cơ bay ra khỏi các đám mây mà là 20 chiếc, 40 chiếc, 50 chiếc... Ngay sau đó, bom rơi xuống. Tuần dương hạm Yahagi và các khu trục hạm chạy chữ chi hỗn loạn để toan tránh bom, nhưng, nhưng các làn sóng thủy lôi màu lam đã xé mặt biển chung quanh các chiến hạm. Thỉnh thoảng một khu trục cơ đâm bổ xuống ngang các cột buồm và càn quét cầu tàu bằng đại liên.
Đến 12 giờ 40, tức là 10 phút sau khi phi cơ địch đến, chiếc Yamato, bị trúng trái thủy lôi đầu tiên. Sáu phút sau đến lượt chiếc Yahagi lãnh một trái ngay hầm máy, giết chết tất cả các nhân viên tại đó. Chiếc chiến hạm chạy lang thang một lát trong khi hạm trưởng Hara gào thét các mệnh lệnh để nắm lại tay lái con tàu, không biết rằng chiến hạm của ông đã bị quả đạn duy nhất ấy làm cho vĩnh viễn bị tê liệt. Từ lúc đó nó trở thành tấm bia cho hơn 100 oanh tạc cơ đâm bổ.
Từ trên đài chỉ huy, Komura và Hara làm khán giả dự kiến cuộc phòng vệ của các xạ thủ đại bác trên chiếc Yahagi. Thỉnh thoảng người ta nghe có tiếng rú lên vì vui sướng: một pháo thủ vừa thấy chiếc bia của mình bốc cháy và rơi xuống như một hòn đá. Những chùm bom siết chặt dần chung quanh chiếc chiến hạm bất động và những tiếng nổ đã làm rung chuyển thân tàu đến mức độ người ta có thể nghe những đầu đinh tán chạm lách cách vào thành tàu và ống khói như tiếng đạn ria chứa trong các trái phá. Thế rồi chuyện không tránh được đã đến. Một trái thủy lôi thứ hai phát nổ đã phá vỡ tung phía sau chiến hạm làm nhiều xác người rách bươm bắn lên trời. Ngay lúc đó một oanh tạc cơ đâm bổ đặt một quả bom ngay giữa pháo và tháp phía trước, xoi thủng sàn tàu bọc thép rồi rơi xuống nổ tung dưới đáy kế các hầm dầu. Nếu không có phản xạ tức thì của viên sĩ quan tác xạ cho mở ngay những “van” nhận chìm, thì chiếc Yahagi đã nổ tung cùng với thủy thủ đoàn. Thay vì như thế, nó đành chịu chúi mũi thêm một chút và khạc ra nhiều hơi nước, nhiều ngọn lửa hơn mà thôi.
Bản án treo không kéo dài được lâu. Những tiếng nổ kế tiếp nhau theo một nhịp độ đến mức đứng trên đài chỉ huy, hạm trưởng không bao giờ thấy được cùng một lúc 1/4 chiến hạm. Khi khói tan dần, một lỗ thủng khổng lồ xuất hiện ngay nơi giàn đại pháo hoặc nơi sàn đặt ống phóng thủy lôi. Độ nghiêng của chiến hạm gia tăng không ngừng, nhưng đều đều, từ tốn, làm như chiếc chiến hạm muốn chết một cách đường bệ. Khi mặt cầu tàu chìm ngang mặt nước và sóng biển xô đến quét sạch các vũng máu, Đô đốc Komura gọi một trong các khu trục hạm cuối cùng còn chạy tốt đến gần để chuyển những người còn sống sót sang rồi tiến thẳng đến Okinawa. Khu trục hạm Isokasé mở hết tốc lực chạy đến gần xác chiếc Yahagi, nhưng khi còn cách 200 thước thì nó biến mất, cũng bị trúng thủy lôi - trong một đám mây khói.
Thế là hết... Mặt biển bao phủ đầy đầu người đen ngòm. Những kẻ bị đắm tàu bám chặt vào các mảnh tàu vỡ hay mảnh xuồng cấp cứu, vùng vẫy trong một lớp dầu cặn dày, mà không có một tia hy vọng nào được vớt lên. Những người còn tĩnh trí quay đầu nhìn về phía chiếc Yamato vẫn còn tiếp tới ở xa xa cùng với những chùm bom và những tiếng nổ đi kèm. Tất cả những hy vọng và cuộc đời còn sót lại nơi họ đều hướng về chiếc bóng oai nghiêm đường bệ dường như đang thách thức với số phận ấy. Từ lâu vẫn đứng bên nhau, đột nhiên Komura và Hara không còn thấy nhau nữa mà chưa kịp nói một lời vĩnh biệt. Lớp dầu cặn dày đặc nay loang dần, Hara kiệt sức, chập chờn trên một mảnh tàu vỡ mà ông bá chặt vào, rồi thình lình một ánh sáng lóe lên ở phía xa kéo ông ra khỏi cơn hôn mê. Ông nhắm mắt lại một lát và khi mở mắt trở lại, mặt biển trở nên trống vắng và yên tĩnh lạ kỳ. Một cột khói trắng khổng lồ bốc lên trời ngay tại chỗ chiếc Yamato hiện hữu trước đó. Những tiếng nổ kế tiếp nhau như sấm động đã làm những nỗi nghi ngờ cuối cùng tan biến: chiếc đại thiết giáp hạm vừa chìm xuống sóng biển.
Khi bóng đêm sắp bao phủ bầu trời, những nạn nhân bị đắm tàu thuộc chiếc Yahagi dường như có nghe một tiếng động cơ đến gần. Vài phút sau, một chiếc canô thuộc một khu trục hạm lần lượt vớt hết người này đến người khác và đưa họ trở lại chiếc Hatsushimo chiến hạm độc nhất của hải lực Nhật Bản còn sót lại như có phép lạ. Chiếc khu trục hạm chở đầy người lấm lem dầu cặn được thủy thủ đoàn tẩy sạch và an ủi. Trong bệnh xá, Hara, nằm dài trên chiếc bàn mổ, quan sát viên bác sĩ đang chăm sóc các vết thương của mình. Ông không còn nhớ được gì cả. Không biết mình có bị một vết trầy trụa nào không!
Cuộc sống lại tiếp diễn; ông vui sướng được biết rằng Komura cũng có mặt trên tàu với chừng mười sĩ quan của chiếc Yamato. Chính nhờ họ ông mới biết trường hợp tổn thất chiếc chiến hạm này.
Ngay từ đầu, chiếc Yamato đã bị một thủy lôi và hai quả bom đánh trúng. Điều đó không làm nó giảm tốc độ và đại bác phòng không của nó đã hạ mười phi cơ địch. Ba khắc sau, đợt tấn công thứ hai do Mitscher tung ra đã nhắm vào chiếc chiến hạm khổng lồ với mệnh lệnh dứt khoát là phải đánh chìm nó. Trong vòng nửa giờ đồng hồ, hơn 100 oanh tạc cơ đâm bổ và một số lượng phi cơ phóng thủy lôi tương đương từ khắp bốn phương trời ùa đến tấn công. Ba quả bom mới rơi trúng và mức tác xạ chậm lại vì các đám cháy càn quét cầu tàu cũng như các kiến trúc thượng tầng. Lúc ấy nhiều đợt phi cơ phóng thủy lôi bay đến để tiêu diệt nó. Chín thủy lôi trúng vào tả mạn và chiếc chiến hạm bị nghiêng ngay 30 độ. Từ lúc ấy thảm họa dồn dập xảy đến. Vài quả đạn 450 ly lăn ra khỏi phòng phân phối, rơi xuống các hầm tàu qua các vết thủng và phát nổ. Mọi nỗ lực để lấy lại sự kiểm soát con tàu đều vô ích, các tường chắn bị rung chuyển đành lần lượt đổ sụp.
Khi mối đe dọa chìm tàu trở nên cấp kỳ, Đô đốc Ito cho gọi lên cầu tàu vài sĩ quan hiếm hoi còn sống sót và nói lời vĩnh biệt. Ông phải bám vào thành lan can để khỏi ngã. Đề đốc Ariga, hạm trưởng phải giúp ông ta trèo lên sàn tàu gần như dựng thẳng đứng để trở vào đến phòng trực và tự khóa mình vào trong đó. Chính Ariga cũng đã nhờ một tùy viên cột chặt mình vào đường dốc của một hầm trú ẩn khi hải hành và chào các sĩ quan sau khi chúc họ may mắn. Vài giây sau cuộc chia tay cảm động ấy, nhóm sĩ quan bị một tiếng nổ trong lòng chiến hạm hất văng xuống biển và chiếc tàu đột ngột chìm luôn.
Toàn diện nước Mỹ bừng bừng khích động khi nghe tin loan báo ông kẹ Nhật Bản bị đánh chìm. Số lượng năm hoặc sáu phi cơ của Mitscher bị hạ, và chừng 20 chiếc bị cao xạ D.C.A của các chiến hạm Nhật bắn trúng có vẻ như là một phần cống hiến quá nhẹ cho chiến công này.
Nhật Bản tiếp nhận tin tức ấy với niềm cay đắng đen tối. Lại một ảo vọng nữa bị sụp đổ tan tành sau biết bao ảo tưởng khác. Kết quả rõ rệt nhất của cuộc hủy diệt lịch sử này là chặn đứng lại trong các hải quân công xưởng của Mỹ và Anh, công cuộc đóng bốn thiết giáp hạm từ 40.000 đến 50.000 tấn, mà các Đô đốc phe Đồng minh, rõ rệt là mù quáng, vẫn cứ khăng khăng đòi hỏi cho bằng được. Lần này chứng cớ rõ rệt cho thấy rằng kỷ nguyên của những “dreandoughts” (thiết giáp hạm) đã cáo chung và một trang sử của hải quân đã được lật qua.