(tt)

Dịch giả: Lê thị Duyên
Ổn định và lật ngược thế cờ

    
hu vi Đại Đông Á
Trong khi tại Đông Nam Á các trận đánh diễn ra như chúng ta vừa thuật lại, Hải quân Nhật đã bí mật nới rộng cuộc chinh phục đến các quần đảo nhỏ tại trung bộ Thái Bình Dương. Một số quần đảo đó như Mariannes, Carolines và Marshall, đã từng thuộc về họ trong trận đại chiến trước. Các quần đảo khác được đặt thuộc quyền ủy trị của Mỹ, Úc hay Anh. Ngoài các đảo Wake và Guam được dùng làm trạm tiếp nối của Mỹ giữa Hạ Uy Di và Phi Luật Tân, không một quần đảo nào được đặt trong tình trạng phòng vệ, đến nỗi công việc chiếm hữu chúng trông giống như một cuộc đi dạo của lực lượng quân sự.
Trong vùng Tây nam Thái Bình Dương, cuộc tiến quân của Nhật cũng dễ dàng như thế. Sau khi chiếm đóng các đảo lớn Halmahera và Céram ở phía nam Phi Luật Tân, các bộ phận hải quân đến đóng tại Blak và trong vài hải cảng khác nằm trên bờ biển phía bắc của Tân Guinée.
Tân Guinée là một hòn đảo rộng mênh mông, chỉ mình nó đã rộng gấp đôi quần đảo Nhật Bản, có hình dáng giống như một con khủng long bự và hơi gù lưng mà chiếc xương sống là một dãy núi dài 2.500 cây số bao phủ bởi một thứ rừng già rậm rạp nhất thế giới. Năm 1942 ngoài việc không thám sát dãy núi này, người Nhật cũng không tính chuyện vượt qua vì chẳng lợi ích gì, vì chính chiếc bụng của con khủng long cũng là một sa mạc rộng lớn. Phần duy nhất đáng chú ý của đảo là phần đuôi kéo dài của con khủng long vốn cũng bị dãy trường sơn chia đôi, nhưng tại hai viền Nam và Bắc lại có một loạt hải cảng tuyệt vời phía sau lan tràn một khu vực đầy tài nguyên khoáng sản và canh nông. Chính khúc đuôi giống như đoạn ruột thừa này đã được Tổng hành dinh Thiên hoàng lựa chọn. Vì không thể đến đó theo ngõ phía Nam do sự chật hẹp và các mối nguy hiểm của eo biển Torrès nằm giữa bụng con khủng long tại mũi York với mũi đất xa nhất của Úc châu, quân Nhật xâm chiếm theo ngõ phía Bắc. Các đoàn quân khởi hành từ đại căn cứ hải quân Truck, tháng 1 năm 1942 đã đổ bộ lên Nouvelle-Bretagne và Nouvelle-Irlande và đặt căn cứ vững chắc trong các hải cảng Rabaul và Kavieng. Chỉ cần bước một bước là có thể chiếm các hải cảng Lae và Salamaua tại Tân Guinée; cuộc hành quân này đã được thực hiện gần như chẳng phải đánh nhau gì cả, các đội quân trú phòng của Úc được lệnh rút lui dọc theo bờ biển cho đến tận Port-Moresby, hải cảng chính của bờ phía Nam.
Giờ đây cái quạt khổng lồ đã trải ra từ Miến Điện cho đến quần đảo Kouriles. Nhờ chiếm hữu được hàng rào Mã Lai, bờ biển phía Bắc của Tân Guinée, Tân Bretagne và Tân Irlande, các quần đảo Gillbert và Marshall, Nhật Bản được đảm bảo bằng một chuỗi gần như liên tục các điểm tựa, cụ thể hóa vòng đai “chu vi Đại Đông Á” trên một đường bán kính trung bình 3.500 cây số chung quanh Đông Kinh. Bên trong chu vi này, Nhật Bản hoàn toàn rảnh tay khai thác các giếng dầu hỏa, mỏ khoáng sản, đồn điền cao su, ruộng lúa, tóm tắt, tất cả nguyên liệu mà Nhật Bản thiếu.
Cái giá phải trả cho những tài nguyên giàu có này thấp đến mức khó tin: Hải quân Nhật chỉ mất có năm phóng ngư lôi hạm, tám tàu ngầm và 50.000 tấn thương thuyền; Lục quân gần như đã bước ra khỏi cuộc phiêu lưu mà không bị sứt mẻ gì: 10.000 chết và 4.000 bị thương. Riêng phần thành tích chiến đấu của Hải quân, Lục quân và nhất là Không quân Nhật thì thật đáng sợ. Chín thiết giáp hạm, bảy tuần dương hạm, một hàng không mẫu hạm nhẹ (chiếc HMS Hermes bị tiêu diệt trên Ấn Độ Dương do phi cơ của Nagumo sau một cuộc đột kích tại Chlombo), vô số các chiến hạm nhỏ đủ loại, 200.000 tấn thương thuyền mà phần đông hàng hóa đều được thu hồi nguyên vẹn và đem ra sử dụng lại, không nói đến chừng 300.000 tù binh vừa quân sự vừa dân sự phải làm việc để xây dựng lại các đổ nát và tái lập sự khai thác canh nông và kỹ nghệ.
Chính tai biến khổng lồ này đã đưa tòa Bạch Ốc đến chỗ phải sửa đổi lại các kế hoạch. Quyết định “Germany first” đã đặt chiến trường Thái Bình Dương vào tình trạng lu mờ như ngọn đèn đêm, nhưng ngọn đèn đêm này hoàn toàn sắp tàn lụn. Hải quân Mỹ chỉ có tổng cộng, trên Thái Bình Dương, ba hàng không mẫu hạm nhờ phép lạ thoát khỏi cuộc oanh tạc tại Trân Châu Cảng và chừng mười tuần dương hạm. Chúng đã cố sức hoạt động đáng ca ngợi bằng cách thực hiện các cuộc đột kích bên ngoài vòng đai chu vi Đại Đông Á, nhưng vô ích, đấy chỉ là vết muỗi đốt trên da voi. Gia dĩ một trong các hàng không mẫu hạm ấy, chiếc Saratoga, lại rủi ro gặp một tàu ngầm Nhật và bị nó tặng một thủy lôi khiến phải chạy về nằm ụ tại San Francisco nhiều tháng trời. Như vậy là chỉ còn lại hai mẫu hạm - chiếc Lexington và chiếc Enterprise - để ngăn chặn hạm đội Nhật nếu nó muốn tái diễn cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng hay nới rộng vòng vây phía Nam để bao vây luôn Úc châu (Trong số ba mẫu hạm của hạm đội Thái Bình Dương, hai chiếc, Saratoga và Lexington được đóng năm 1927. Chúng được đóng bằng thân của các tuần dương hạm sau khi thay đổi cách sắp đặt bên trong nhiều lần để thích nghi với vai trò mới. Đấy là các chiến hạm chạy nhanh (33 gút) và cũng như các tuần dương hạm được võ trang 8 khẩu 203 ly, nhưng các cơ cấu dành cho phi cơ - đặc biệt là hầm chứa xăng - thì lại tương ứng với quan niệm của một kỷ nguyên khác. Song le, vì chúng di chuyển gần cả 40.000 tấn, lại có một phi đạo 280 thước, chừng 80 phi cơ chở trên mỗi chiếc có thể hoạt động dễ dàng. Trái với các lợi điểm đó, thành tàu quá cao và ống khói khổng lồ của chúng tạo thành một mục tiêu dễ bị trông thấy từ đằng xa. Chiếc hàng không mẫu hạm thứ ba, chiếc Enterprise đóng năm 1938, và các nhà chế tạo đã biết lợi dụng kinh nghiệm thu thập được với các chiếc trước. Nó chỉ chở được 20.000 tấn, nhưng vì nó chỉ được trang bị súng phòng không, nó có thể chuyên chở cùng một số lượng phi cơ như hai chiếc trên. Hơn thế nữa nó còn có ưu điểm trội hơn là rất dễ vận dụng và các cơ cấu kiến trúc liên quan đến phi cơ đều toàn hảo). Đấy chính là các đe dọa có mức độ trầm trọng đối với Hoa Kỳ đến nỗi chính sách diên trì không thể nào tiếp tục được nữa. Vả chăng công luận đã bắt đầu xì xầm và báo chí thì đặt tít lớn: “Hạm đội trở thành cái quái gì rồi?” Sau khi một tàu ngầm Nhật táo tợn đến nỗi dám đến oanh tạc ban đêm vào các giếng dầu tại Texas, nội vụ sắp đến chỗ bùng nổ.
Kể từ khi có vụ bãi chức các con vật tế thần, Bộ Tư lệnh tối cao Hải quân được cải tổ hoàn toàn. Đô đốc King, trở thành Tư lệnh hạm đội thế chỗ Đô đốc Stark, là một người có khí phách khác hẳn. Ông không bao giờ chấp nhận chịu đựng gian không than vãn các quyết định không ăn khớp. Nhờ vừa nắm quyền Tư lệnh hạm đội Đại Tây Dương, ông có cơ hội thuận tiện để trình bày với Tổng thống về ưu tiên của cả hai chiến trường. Ông xung đột rất nặng với Bộ trưởng Hải quân Anh, Sir Dudley Pound vì theo như lời lên án của ông, thì đã không chịu tôn trọng lời cam kết tại Đông Nam Á và quá “ỷ lại” vào Hải quân Mỹ để hộ tống các đoàn công voa Anh. Vì lối ăn nói thẳng thừng như thế cho nên các cuộc can thiệp của ông tại Bộ tham mưu hỗn hợp liên quân thường được đánh dấu bằng các vụ la lối ầm ỹ.
Người thay thế Kimmel đứng đầu hạm đội Thái Bình Dương, Đô đốc Nimitz, lại là một con người khác hẳn. Chính ông cũng là một cấp chỉ huy đầy nhiệt tâm, nhưng cách hành động thì uyển chuyển hơn. Sự khéo léo và các biện pháp mà nhờ đó ông biết cách nắm một hạm đội Thái Bình Dương mất tinh thần sau vụ Trân Châu Cảng đã đảm bảo cho ông sự hậu thuẫn của tất cả các cấp thuộc quyền. Chỉ có trong tay hai mẫu hạm và mười tuần dương hạm, ông phải liên tục bổ khuyết yếu điểm. Tình trạng của ông cũng giống như một lính chữa lửa, để dập tắt đám cháy mà chỉ có một vòi phun nước bị thủng nhiều lỗ luôn luôn phải buộc đầu này thắt đầu kia. Bất kể sự tận tụy vô điều kiện của thuộc viên và sức chịu đựng dẻo dai lạ kỳ mà các chiến hạm của hạm đội từng chứng tỏ, tình trạng khốn khó này không thể kéo dài thêm. Nhờ sự khẩn nài của King, hàng không mẫu hạm Yorktown được gọi từ Đại tây dương đến nhập vào hạm đội Thái Bình Dương. Sự tăng viện này giúp Nimitz thành lập ba “lực lượng đặc nhiệm”, mỗi lực lượng tiếp hợp chung quanh một hàng không mẫu hạm. Hệ thống tổ chức này cho thấy mềm dẻo hơn và thích nghi với tình hình dễ hơn là hệ thống hạm đội cũ. Trên nguyên tắc do một Đô đốc chỉ huy, các lực lượng đặc nhiệm này có thể gồm có một tuần dương hạm và khu trục hạm thay đổi, chúng có thể được tập trung cho một sứ mạng xác định và sao đó lại trở về tình trạng tự trị. Chính các Đô đốc cũng vậy, họ cũng có thể thay phiên nhau chỉ huy lực lượng này hay lực lượng kia. Hệ thống tổ chức do hoàn cảnh bắt buộc ấy đã mang lại những kết quả tốt đẹp đến nỗi được tổng quát hóa và kéo dài cho đến hết chiến tranh.
Vừa mới nhận được chiếc Yorktown tăng cường, Đô đốc Nimitz liền phái nó đến nhập đoàn với chiếc Lexington tại vùng biển Corail để thực hiện toan tính oanh tạc Rabaul đã từng bị thất bại. Cuộc hành quân dự liệu vào ngày 10 tháng 3 năm 1942 cũng không mang lại kết quả hơn lần trước, vì lẽ Rabaul có một tổ chức canh phòng quá chặt chẽ. Phó đô đốc Brown chỉ huy lực lượng đặc nhiệm đã chứng kiến tinh thần hiếu chiến của các phi công khu trục Nhật, nên tính toán rằng hy sinh các phi công oanh tạc cơ của mình là điều vô ích. Do đó ông quay trở về nhưng lại lấy một quyết định rất thích nghi là đưa lực lượng đến Port-Moresby và cho oanh tạc cơ cất cánh ra khởi bằng cách vượt lên trên dãy núi Owen Stanley - dãy núi chia đuôi của con khủng long ra làm hai phần Nam Bắc - để bất ngờ oanh tạc hai hải cảng Lae và Salamaua. Sự xuất hiện đột ngột của các oanh tạc cơ Mỹ trên các sườn núi đã thoát khỏi tầm khu trục cơ Nhật và các cơ sở hải cảng bị trúng vài quả bom. Những thiệt hại vật chất không đáng kể, nhưng hiệu quả tinh thần thì rất quan trọng. Nói chung thì đó là lần đầu tiên phi cơ Mỹ biểu dương sức mạnh, các giới chỉ huy Nhật thật không bao giờ lại có thể tưởng tượng đó là chính các phi cơ của các hàng không mẫu hạm mà họ đã đẩy lùi 15 ngày trước đó tại Rabaul. Họ tin là chúng từ Port-Moresby đến và do đó ước tính quá cao các phương tiện mà lực lượng trú phòng Úc và Tân Tây Lan có trong tay tại Tân Guinée.
Trong thực tế các phương tiện này chỉ là số không. Tại Port-Moresby chỉ có hai phi đạo không được sửa soạn kỹ, nên chỉ có các khu trục cơ là có thể cất cánh. Mac Arthur cũng mới đặt chân đến Úc châu cùng ngày hôm đó, chưa hề có chỉ thị, lẫn chiến hạm và binh sĩ nào để tăng viện cho đội quân trú phòng đang ngoắc ngoải gồm 7.000 người mất tinh thần và bị bệnh sốt rét quật ngã ấy. Nếu quân Nhật đẩy mạnh thêm về phía nam thêm một mũi tấn công nữa thì họ đã lấy được Port Moresby cũng như toàn thể phần còn lại rồi. Đô đốc Inoue chỉ huy hạm đội thứ 4 và không đoàn 24 không hải quân đã không tin rằng nên thực hiện sáng kiến này, do đó đã bỏ qua một cơ hội chắc sẽ không bao giờ còn đến lại nữa.
Tóm tắt, trong các huấn thị của Inoue, không có điểm nào có thể chính thức hóa một sáng kiến như thế. Tổng hành dinh Thiên hoàng rất chia rẽ nhau về một cơ hội mới nhằm bành trướng vòng đai chu vi Đại Đông Á. Lục quân thì vì đang tung ra toàn diện lực lượng tại Miến Điện hầu cắt đứt những liên lạc cuối cùng giữa Trung Hoa và Đồng minh cho nên nhất định không chịu phân tán lực lượng của mình trên một chiến trường thuần túy thuộc Hải quân vốn là thứ yếu đối với Lục quân. Chính bản thân Yamamoto, người đã thực hiện xong tất cả các mục tiêu của kế hoạch miền Nam, cũng muốn giữ phần chủ lực của hạm đội liên hợp trong hải phận bản quốc, ngày nào mà ông còn chưa hết chuyện với các lực lượng hải quân Mỹ. Theo ý ông, điểm yếu của vòng đai chu vi nằm về phía đông và Đông bắc, nơi đó, dãy quần đảo Hạ Uy Di và Aléoutiennes - vẫn luôn luôn nằm trong tay quân Mỹ - như chĩa một mũi giáo nhọn hướng ngay vào quả tim Nhật Bản. Ngày nào chưa chiếm được đảo san hô Midway và các đảo Atu và Kiska, thì nền an ninh của quần đảo Nhật Bản còn chưa được đảm bảo. Và nếu, điều này rất có thể xảy ra đối phương tung ra tất cả lực lượng hải quân vào trận chiến để phòng vệ các pháo đài chủ yếu này thì đây là một cơ hội rất tốt để tiêu diệt chúng nhờ ưu thế số lượng vĩ đại của hạm đội liên hợp.
Tình thế thật khá nghịch thường, chính Đô đốc Nagano, Tổng tham mưu trưởng Hải quân vốn là người luôn luôn hòa dịu, lại trở thành người biện hộ cho sự bành trướng vòng đai chu vi trong vùng phía Nam Thái Bình Dương. Ông ước tính rằng phải chiếm Port-Moresby và quần đảo Salomon ngay lập tức bằng cách lợi dụng tình hình rối loạn toàn diện của Đồng minh trong khu vực này. Bằng cách khóa chặt vùng biển Corail trước Úc châu Nhật sẽ loại từ các căn cứ xuất phát cho một cuộc phản công mai hậu, và hành động này chỉ phải trả giá bằng một sự nối dài vô nghĩa lý các đường giao thông liên lạc mà thôi. Có lẽ ông ta hy vọng rằng luận cứ chót ấy sẽ làm Yamamoto hết đường biện bạc với kế hoạch tấn công vào Midway mà ông ta xét đoán là quá liều lĩnh. Thật vậy vấn đề đường giao thông liên lạc đã được đặt ra với tất cả mẫn nhuệ vì các khoảng cách quá lớn lao giữa các giếng dầu vừa chiếm được và các xưởng lọc dầu tại chính quốc. Sự hủy diệt phần lớn các xưởng lọc dầu trên các đảo bị chinh phục khiến cho Nhật cần phải gửi dầu thô về nước và phải gửi lại các loại nhiên liệu bằng tầu dầu để tiếp tế cho lực lượng Hải quân và không quân; từ đó phát sinh cả một hệ thống giao thông vĩ dại trên một đoạn đường 6.000 hải lý (11.000 cây số), đặc biệt rất dễ bị tàu ngầm địch tấn công lại thêm vào đó phí tổn trở nên cực kỳ đắt đỏ. Một sự bành trướng mới vòng đai chu vi về hướng quần đảo Aléoutiennes và Midway sẽ gia tăng thêm một dịch vụ chuyên chở phụ tới trên một đoạn đường khứ hồi dài 4.000 hải lý mà hạm đội thương thuyền Nhật không thể nào cáng đáng nổi một cách lâu dài.
Trong khi tại Đông Kinh các cuộc thảo luận cực kỳ sôi động giữa người ủng hộ và kẻ chống đối các kế hoạch tương lai, King theo đuổi một cách có phương pháp công việc tổ chức phòng vệ những điểm tựa cuối cùng của ông trên Thái Bình Dương. Quần đảo Samoa đã nhận được một Trung đoàn Thủy quân lục chiến (Là một đơn vị tự trị của quân đội Mỹ, có pháo binh, chiến xa và không lực riêng) và một lực lượng viễn chinh 17.000 người đã được gửi đến Tân Calédonie và được Toàn quyền Pháp Sautot, mới ngả theo phe Pháp quốc Tự do rộng tay đón tiếp. Các đảo san hô Palmyre, Canton và Christmas được sửa sang lại thành trạm tiếp nối cho các phi cơ bay ngang qua Thái Bình Dương và 4.000 kỹ thuật gia ra sức làm việc để xây cất một căn cứ tiếp liệu cho chiến hạm tại Borabora trong các quần đảo thuộc Pháp. Về phần mình, Tân Tây Lan cũng đã tăng viện cho quân trú phòng trên quần đảo Fiji và Úc cũng đã làm như thế tại Port-Moresby.
Rồi đến vấn đề định giới hạn trách nhiệm của các giới chức Hải quân và Lục quân, nghĩa là giữa Nimitz và Mac Arthur. Ý định đầu tiên của Roosevelt là giao cho Mac Arthur một thẩm quyền chỉ huy tuơng tự như cuủaavell trong cơ cấu ABDA bao trùm không phân biệt Hải hay Lục quân. Nhưng cả Marshall lẫn Nimitz không ai ưa Mac Arthur. Rõ ràng là họ sợ các phản ứng của ông và nết cứng đầu đến trở thành chuyện truyền kỳ của ông. Marshall thì sợ rằng ông không còn tâm trí mềm dẻo cần thiết để thích nghi với một quyền chỉ huy chưa từng có trong lịch sử, trong đó chiến hạm và phi cơ sẽ đóng vai trò ưu thế. Về phần King, thì không muốn nghe nói đến chuyện một Đô đốc lại thuộc quyền một tướng lĩnh bộ binh - và nhất là cái ông tướng ấy. Như vậy, họ đồng ý về nội dung, nhưng sự áp dụng xem ra cực khó. Làm sao có thể phân chia một chiến trường hoàn toàn gồm có các vùng biển mênh mông rải rác vô số đảo lớn đảo nhỏ, hay đảo san hô mà không có đặc điểm nào giúp phân biệt đảo này với đảo kia được chứ? Cuộc thảo luận kéo dây dưa đến mức Roosevelt quyết định giải quyết lấy một mình. Cố vấn Harry Hopkins của Tổng thống chủ trương rằng, nghiêng người trên một bản đồ Thái Bình Dương, ông vạch một đường viết chì theo một kinh tuyến lướt qua Phi Luật Tân và quyết định những gì xảy ra bên trái là thuộc Mac Arthur và những gì ở bên mặt thì về phần Nimitz. Phần chia cắt bất hợp lý này ít ra cũng được một điểm là đơn giản, và ai nấy đều vui vẻ nghe theo. Các huấn thị chi tiết được soạn thảo rất lâu, nhưng chúng có một đoạn mở đầu thật phân minh: “sứ mạng của ông là ngăn chặn quân địch trong các giới hạn hiện thời và sự chuẩn bị cho một cuộc phản công trong tương lai”. Thật ngắn gọn, thật hay, và không ai đòi hỏi gì thêm.
Nimitz đòi hỏi ngay một Phó đô đốc để được ủy quyền chỉ huy tại chỗ các lực lượng đặc nhiệm đang hành quân trong khu vực Đông nam Thái Bình Dương. King chỉ định Đô đốc Ghormeley, bản doanh của ông này được đặt tại Auckland thuộc Tân Tây Lan. Như thế, ngay trong tình thế hỗn loạn, một tổ chức chỉ huy khởi điểm đã được thành hình, cũng có giá trị như một tổ chức kia, bởi vì, sau khi được chiến trận thử thách, nó kéo dài không thay đổi cho đến cuối cùng.