Chín

Hàng ngày đi phát cây, thằng hộ pháp thỉnh thoảng lại trèo lên ngọn thật cao phóng tầm mắt về phía xa mờ cố tìm những dấu hiệu đầu tiên của cái bản Mù U ấy. Những lúc đó, bọn tôi xúm lại dưới gốc, há mồm, ngước mắt lên chờ đợi.
Thấy chưa? Thấy gì chưa?
Thằng hộ pháp nhìn rách cả mắt lại bị thằng học giả cứ hỏi cuống lên, nó phát bực: Thấy cái nỗ đít, nàng bản đâu ra, rặt những núi với rừng. Mọi ngày đi làm về, thường thường nó hát nghêu ngao dăm câu đầu voi tai chuột, từ hôm buổi chiều chỉ có bữa cháo, nó quên hết mọi bài hát trên đời, nuốt xong ba bát cháo, mỗi ngày mỗi loãng, nó vứt bát nằm ngửa ra chẳng nói chẳng rằng. Thằng học giả chịu đói giỏi hơn, hình như nó ăn chữ nghĩa thay cơm, chưa tối nó đã vác củi đốt đống lửa thật sáng rồi lôi ra cuốn sách dày cả gang tay cặm cụi đọc, đọc chán rồi lấy giấy bút ra viết chẳng biết nó viết lách những gì chỉ thấy miệng nó lầm bầm, lầm bầm làm cho thằng cấp dưỡng ngồi ở xa lại tưởng nó nhai gạo sống, tôi phải can: Không phải đâu. Nó nhai chữ đấy, thằng hộ pháp đang vuốt bụng lép kẹp cũng phải bật cười: Mẹ kiếp, có nhai cả đấu chữ cũng chả bằng có bát cơm nóng. Nói rồi nó đứng dậy, đi tới chỗ thằng học giả:
Sách gì đọc lên anh em nghe coi có quên được cái đói không nào?
Thằng học giả trợn tròn cặp mắt vốn đã trơn lên của nó:
Chúng mày muốn nghe thật không?
Mày khinh tao óc bã đậu không nghe được sách của mày hả? Đọc đi, đọc ngay cái trang mày đang giở ra kia kìa.
Thằng học giả nhếch miệng cười rồi hắng giọng đọc một hơi, miệng dẻo quẹo. Tôi thấy thằng hộ pháp và thằng cấp dưỡng cứ đực mặt ra, còn tôi thì ù cả hai tai như đang nghe người ngoại quốc nói chuyện. Tuy nhiên đứa nào đứa ấy làm ra vẻ lắng tai chăm chú lắm, thằng hộ pháp lại còn ra vẻ ta đây hiểu rõ, thỉnh thoảng lại hỏi cắt ngang:
Duy tâm nạc quan là mấy thằng thày bói, thày cúng phải không? Ai mà chẳng biết.
Thằng học giả phải đặt sách xuống sửa thằng hộ pháp nói cho đúng: duy tâm chủ quan chứ không phải lạc quan.
Thằng hộ pháp cứ gạt đi:
ôi già, đại khái cũng thế cả. Mày giỏi mày giảng thử bọn tao nghe...
Chao ôi, những lời nó giảng lại rắc rối tối mù còn hơn cả điều nó đọc trong sách. Tôi nghe mãi sốt ruột, chịu không nổi phải gắt lên:
Mày giảng thế, đến giáo sư đại học cũng chẳng hiểu huống hồ bọn tao.
Thằng hộ pháp hùa ngay theo:
Thôi vứt mẹ nó sách đi, kiếm cái gì bỏ bụng lại chả hơn cứ ngồi nghe nó ný nuận suông ư?
Thằng cấp dưỡng giật mình vội giao hẹn trước:
Tìm đâu tìm chớ có động vào ba lô thực phẩm. Tao đã ghi sổ đủ cả rồi, mất gì cứ chúng mày.
Thằng học giả gói kỹ cuốn sách, lấy sợi dây buộc thật chặt theo thói quen rồi mới thì thào vào tai tôi:
Tao biết chỗ này có cái ăn.
Ở đâu?
Trong ba lô ông toán trưởng chứ đâu. Này, có cả thịt hộp nữa, mày tin không?
Tất nhiên là tôi tin, bây giờ có chuyện gì mà ông không làm được, tôi đã hiểu ông khá rõ, nhất là trong chuyến đi này.
Vậy đúng hôm trước mày lấy trộm mì chính của ông ấy rồi.
Thằng học giả cười nhạt:
Tao chỉ lấy lại cái ông ấy lấy của bọn ta thôi. Mày có định giúp tao một tay thó hộp thịt không?
Chữ nghĩa đầy một bụngnhư mày cũng đi ăn cắp vặt hả?
ôi nhà đạo đức giả...
Nó thốt lên the rồi giảng giải cho tôi nghe cái lý thuyết Ăn cắp cái bị ăn cắp tức là không phải ăn cắp. Tôi chờ nó nói chán chê mới thủng thẳng:
Tao thấy ông toán trưởng nói cũng có phần đúng, cái bọn trí thức chúng mày không đáng cục cứt.
Nó không cãi lại chỉ nhe răng ra cười:
Đúng đấy, mày nói đúng đấy, ở cái xó rừng này thì công cũng như quạ cả thôi.
Vậy sao mày không xuống thành phố ở cho có giá?
Thật lạ, tôi chỉ nói vậy mà mặt nó nhăn lại như bị ong đốt, người run bần bật như thằng lên cơn sốt rét.
Mày làm sao? Trúng gió hả?
Nó gạt tay tôi ra, lững thững bước đi như người mộng du, giọng mê sảng:
Trời ơi, tôi điên quá, bố ơi, con giết bố rồi, sao lại điên quá không biết...
Tôi để mặc nó nằm vật bên đống lửa, cời rộng cho cháy to lên, phả hơi nóng vào người nó. Từ lâu tôi đã cảm thấy thằng điên điên khùng khùng này mang nặng một nỗi u uẩn nào đó, hoặc thất tình, hoặc gia sản bị tịch thu trong cải tạo tư sản nhưng tôi không thể ngờ nó lại mang tội giết cha, không, chắc không phải đâu, chắc nó lẩm bẩm những điều đã đọc trong sách như mọi khi thôi. Tôi tự an ủi vậy nhưng vẫn bối rối nhìn nó nằm co quắp, mắt nhắm nghiền trong khi từ trên cao vẫn thoang thả rơi những chiếc lá khô đậu trên người nó. Tôi cứ ngồi bó gôl mặc những ý nghĩ nhức nhối trong đầu tàn theo ngọn lửa.
Tôi cúi xuống bế bổng thằng học giả lên đặt vào võng của nó. Ngủ đi, sáng mai dậy, bóng đêm sẽ tan, cơn điên sẽ hết. Tôi đẩy nhẹ võng đu đưa cho nó. Gió bỗng nổi lên ầm ầm quét quang đám sương mù quẩn quanh từ chiều mà ngọn lửa xua mãi không chịu tan. Thằng hộ pháp đã dậy từ lúc nào, kéo tay tôi thì thào:
Thằng học giả sao thế?
Trúng gió.
Bỏ mẹ, nó mà quỵ thì mai chỉ còn tao và mày vừa phát cây vừa kéo thước...
vậy đã sao?
Bò ra rừng chứ sao? Rồi đến cái thủaa nào mới tới được bản Mù U đong gạo.
Tôi bật cười về nỗi lo cho cái dạ dày của nó, thảo nào nó không ngủ được phải bò dậy, nếu không nó đã đánh một giấc tới sáng.
Mày có xem bản đồ của lão toán trưởng không?
Có tao xem rồi
Xem kỹ không?
Quái lạ, xưa nay thằng này có bao giờ quan tâm tới bản đồ, bữa nay cái đói làm nó lẩn thẩn giống thằng học giả rồi sao? Tôi trố mắt:
Tao xem kỹ rồi. Sao mày bỗng đốc chứng quan tâm cả cái đó?
Thằng hộ pháp đảo mắt nhìn quanh, ghé tai tôi thì thầm:
Tao nghi lão toán trưởng lắm. Có khi trên bản đồ đếch có cái bản Mù U ấy đâu, hoặc nếu có thì cũng còn khướt mới tới chứ chả phải như lão ấy nói đâu. Lão ấy lừa cho mình yên tâm đi đến đỉnh Hua Ca đấy thôi.
Tôi bật cười về nỗi lo xa của cái thằng vốn chẳng quen nghĩ ngợi. Tôi nhớ ra tôi có xem bản đồ và có nhìn thấy một cái chấm nhỏ kèm theo hai chứ Mù U, tuy nhiên điều đó cũng chẳng chứng tỏ được chúng tôi chỉ còn cách nơi có xã hội con người ấy vài ngày đường như ông toán trưởngdự tính. Làm sao tin được tấm bản đồ chụp từ trên máy bay ấy, ngay đến đãy vách đá dài dằng dặc thế mà nó có chụp được đâu. Vậy nhưng giữa mênh mông rừng rậm núi cao này, ngoài nó ra, còn biết bám víu vào đâu? Tôi đành phải lên tinh thần cho thằng hộ pháp bằng những lời lẽ chính tôi cũng không tin. Nghe xong nó lắc lắc cái đầu bù xù:
Mày chỉ giỏi bênh ông toán trưởng. Tao nói thực, còn ít gạo vậy, giờ cứ quay bố nó lại, lần theo tuyến mà về vẫn còn kịp, đi tiếp nữa là chết đói cả lũ giữa rừng.
Mày điên hả? ông toán trưởng thà chết còn hơn cho cả toán bỏ nhiệm vụ.
Kỷ luật là cùng chứ gì? Cốt giữ được cái mạng mình thôi, có phải đi hót cứt cũng được.
Sống thế thì nhục lắm. To xác như maỳ không ngờ cái gan chỉ bằng ngón tay.
Tôi nói khích nó một chặp nữa chẳng hiểu có lọt tai câu nào không, chỉ thấy mắt nó trợn trừng, đôi lông mày sâu róm rúm lại rồi nín lặng, lủi thủi quay về võng.
Ngày hôm sau thằng học giả vẫn bò dậy đi làm, cứ như đêm qua không có chuyện gì xảy ra, đến chiều, khi thằng hộ pháp leo lên ngọn cây cao, phóng tầm mắt ra xa, nó lại ngước lên hỏi toáng: Thấy gì chưa mày? Thấy gì chưa?
Mấy ngày liền như vậy, thằng hộ pháp vẫn chưa thấy gì, cái bản Mù U ấy vẫn mù tịt ở nơi nào đó. Ông toán trưởng thôi không nói cứng nữa, ông cũng phải thừa nhận với bọn tôi bản đồ khu vực này không chắc đã chính xác, mọi người phải chuẩn bị tinh thần, sẵn sàng đón nhận tình huống xấu nhất, khi bao gạo của thằng cấp dưỡng đã rỗng hết mà cái bản Mù U ấy vẫn ở tít mù khơi. Bây giờ ông bắt nó nấu cháo cả hai bữa, tự tay ông đong gạo đổ nồi. Sáng sớm ôngthôi không còn thổi còi bắt tập thể dục nữa, suốt ngày ông nín lặng, mặc cho chúng tôi phát tuyến tới đâu thì tới, không giục nhanh lên để đảm bảo năng xuất hàng ngày nữa. Buổi chiều đi làm về, nuốt xong bát cháo loãng, cả bọn leo ngay lên võng nằm im để tiết kiệm sức. Thằng học giả cũng thôi không còn sờ đến những cuốn sách. Riêng ông toán trưởng, buổi tối vẫn loay hoay bên cái máy vô tuyến điện. Tôi biết ông vẫn đánh đi những báo cáo nhận về những mệnh lệnh, nhưng không hề hé răng phổ biến tức thời như mọi bữa nữa. Tuy nhiên, sau mỗi lần nhận tin, không thấy gương mặt ông rạng rỡ, mừng vui như trước, ông cau có, lầm li, tức giận chuyện gì đó. Vào một tối, khi cả bọn đã leo lên võng, ông ra hiệu muốn nói chuyện riêng với tôi.
Tôi đã điện về Ban chỉ huy đề nghị cho chúng ta quay lại...
Tôi giật mình nhìn ông như không tin ở tai mình. Ông toán trưởng của tôi, người nổi tiếng trong toàn Đoàn khảo sát về ý chí gang thép khó khăn nào cũng vượt qua, kế hoạch nào cũng hoàn thành, vậy mà nay lại bỏ cuộc, từ chối nhiệm vụ? Hay cũng giống như thằng học giả, thằng cấp dưỡng, ông cũng sắp điên rồi? Ông ngập ngừng như định thổ lộ chuyện gì, rồi có lẽ tôi có vẻ không sẵn sàng nghe, ông im lặng, rụt cổ vào tấm khăn bông đang khoác lên người. Kể từ hôm tôi nổ ông về chuyện không cho thằng hộ pháp buông máy VTĐ khi nó rơi xuống sông, ông có vẻ dè chừng, thôi không còn hỏi ý kiến tôi nữa. Tôi cũng chỉ để ý tới ông mỗi khi ông phổ biến chuyện công tác. Theo lối nói của thằng học giả, tôi và ông chỉ là hai phần tử trong một tập hợp có chung một mục tiêu là sản xuất và cùng theo một lý thuyết là người ta chỉ ăn để mà sống chứ khôngphải sống để mà ăn. Bởi vậy toàn bộ quan hệ giữa ông và tôi chỉ xoay quanh có mỗi cái việc làm sao đi tới được đỉnh Hua Ca và làm sao sống được khi gạo sắp hết.
Ông toán trưởng cứ ngồi như tượng mãi vậy, trong lúc tôi băn khoăn tìm cách rút nhẹ về võng làm một giấc, tránh không khí nặng nề, căng thẳng này. Thân phận chỉ quen cầm dao phát cây như tôi giúp gì ông được? ông là cái đầu, còn tôi là tay chân, cùng lắm gãi cho ông khỏi ngứa vậy thôi. Ngẫm nghĩ, chỉ huy là việc của ông chứ. Rốt cuộc hình như ông cũng đã nghĩ xong và lên tiếng:
Tôi đã ba lần điện xin cho anh em quay lại nhưng Ban chỉ huy không đồng ý. Chúng ta vẫn phải tiến tới đỉnh núi Hua Ca bằng bất cứ giá nào. Mệnh lệnh là mệnh lệnh, tuyệt đối phải chấp hành.
Tôi nghĩ bụng giờ có quay lại cũng không được nữa, gạo đâu ra, chuyện đó lẽ ra ông phải tự quyết định ngay khi gặp vách đá kia, than ôi, ông chỉ quen nghĩ trong những điều cấp trên đã nghĩ.
Bằng giá nào cũng phải đi đến được đỉnh Hua Ca. Bởi vậy phải lường trước mọi diễn biến xấu nhất...
Cái tính lo xa của ông, tôi không lạ, ông là chuyên gia của các thứ diễn biến: nào tư tưởng, nào thời tiết... thứ nào cũng nằm trong dự tính kế hoạch cả rồi, tôi chỉ lạ sao ông bàn chuyện đó với tôi, một thằng cán bộ chẳng phải, đảng viên cũng không. Vậy là sao?
Trong trường hợp xấu nhất nếu tôi bị ốm nằm xuống, các cậu cứ đi tiếp, tôi sẽ giao phó bản đồ, địa bàn tài liệu cho cậu.
Tôi giật nảy người, ấy chớ, chớ xớ rớ vào chuyện đó, chẳng may không dẫn tụi nó tới được đỉnh Hua Ca lại lạc sang đỉnh của nợ nào đó thì bọn nó giết tôi. Tôi chối đây đẩy, tôi không có trình độ, tôi không quen chỉ huy, tôi không có uy tín, tốt hơn hết khi cần ông nên giao cho thằng học giả, nó làm việc đó giỏi hơn tôi.
Không được, về nguyên tắc tổ chức tôi không thể nào giao cho nó được. Cậu hiểu ý tôi chứ?
Tất nhiên tôi hiểu, ông không tin thành phần tư sản, ngay đến khẩu súng trường cổ lỗ ông còn không cho nó mó tới huống hồ cả một hồ sơ thăm dò khảo sát của một con đường quan trọng. Cái ý thức cảnh giác đó đã ăn vào máu ông chẳng thể nào thuyết phục nổi, bởi vậy tôi đành ngồi im nghe ông dặn dò cách dùng địa bàn, xem bản đồ, ghi sổ các số liệu đo đạc xem ra cũng chẳng khó khăn gì, cứ bám chắc lấy cái hướng ông vạch sẵn, ắt là phải tới nơi.
Tuy nhiên đó là giả dụ vậy thôi, lúc ông mà nằm xuống thì khó có thằng nào còn đứng được, ngoài những cơn hen đôi khi hành hạ, thân hình gày guộc của ông vẫn săn chắc dẻo dai đến mức đôi lúc nhìn ông cặm cụi bên tờ bản đồ dưới ánh đèn dầu sau một ngày leo trèo vất vả thằng học giả cũng phải thốt lên: Cái lão này thật chẳng khác con báo rừng, quái, sức mạnh lão ở đâu ra nhỉ? Quả thực, trong thâm tâm, đôi lúc tôi cũng muốn ông... mệt mỏi, hoặc cảm cúm sơ sơ gì đó để tôi được nghỉ leo trèo một, hai ngày hoặc
ít ra cũng thoát được tập thể dục, nằm nấn ná thêm vài giờ lúc sáng sớm. Vậy mà không, ông vẫn trớ trơ và có vẻ lại còn khoẻ khoắn hơn cả bọn tôi nữa kia.
Bác đừng quá lo thế, tới cái lúc bác ốm phải nằm đấy, chắc bọn tôi cũng chẳng thằng nào còn khỏe đâu.
Tôi thoái thác bằng cái cớ cuối cùng như vậy, ông gấp tờ bản đồ lại, ngước lên nhìn tôi:
Trong tình hình này, chuyện gì cũng có thể xảy ra, tôi phải giao phó trước cho cậu trách nhiệm nặng nề ấy.
Chính vẻ vật nài trong ánh mắt, buồn buồn trong giọng nói của ông đã làm tôi nín lặng, và như vậy tôi đã chấp nhận để mai kia ông trút sang tôi cái gánh nặng đang đè trên đôi vai xương xầu của ông.