Tập II
Chương 3
Nghị quyết 05

Nguyễn Khắc Viện vừa phát biểu xong đồng chí Tổng bí thư đã đứng dậy bắt tay thân thiết và đón nhận bản tham luận của anh.
Cũng như thế, sau khi Dương Thu Hương phát biểu những ý kiến thẳng có lúc như gay gắt, cũng được đồng chí Tổng bí thư đứng dậy và đón nhận bản tham luận của chị. Nhà văn Anh Đức, nhà viết kịch Tào Mạt không tự đóng khung ý kiến của mình trong những vấn đề "nghề nghiệp" của văn học nghệ thuật. Các anh nói nhiều và sâu về một yêu cầu lớn của nhân dân, của xã hội ta hiện nay, "yêu cầu dân chủ hóa". "Dân chủ là lời hứa của Đảng ta với nhân dân từ những ngày chống ngoại xâm. Đảng phải giữ lời hứa với dân". Cũng phải thấy rằng "chúng ta chưa có truyền thống dân chủ. Yêu nước, phải biết tự hào về những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nhưng không cần làm một cuộc tự phê bình của toàn Đảng mà còn phải làm cuộc tự phê bình của toàn dân tộc thì chúng ta mới tiến lên được..." Chính trên cơ sở một nhận thức như vậy, mà các anh suy nghĩ về nhiệm vụ của văn học nghệ thuật hôm nay.
Họa sĩ Phan Kế An nói về những sai lầm hẹp hòi, thiển cận, cứng nhắc, đối với văn học nghệ thuật trong một thời kỳ bị ảnh hưởng nặng nề của những quan điểm "Mao ít" mà theo anh cho đến nay chúng ta vẫn còn chưa thật dũng cảm tự phê bình.
Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đặc biệt nhấn mạnh đến điều anh gọi là "sự bao cấp về tư tưởng" từng phổ biến suốt một thời. Đó là tình trạng "chỉ cần một người suy nghĩ cho mọi người, một cái đầu tối cao suy nghĩ cho mọi cái đầu. Một tình trạng độc đoán về tư tưởng như vậy tất yếu bóp chết mọi sáng tạo, làm khô kiệt văn học nghệ thuật.
Cùng diễn đạt ý đó, từ một góc độ khác nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh nói: "Vấn đề sinh tử của văn nghệ là tự do. Văn nghệ cũng như con chim, trói nó lại thì nó không hót. Hoặc nó hót vớ vẩn? Mà thả ra thì sợ nó bay mất. Lãnh đạo giỏi thì làm sao cho con chim văn nghệ bay bổng và hót vang trên bầu trời tự do của chúng ta..." Anh cũng nói đến một vấn đề sinh tử khác của văn nghệ: vấn đề nhân phẩm của người nghệ sĩ. Theo anh, có thời "lãnh đạo khinh bỉ sâu sắc văn nghệ sĩ. Mà con người bị coi thường, khinh bỉ thì tự nhiên thấy mình như cũng hèn kém, nhỏ lại. Biết tôn trọng con người thì con người lại tự thấy mình cao lớn lên..."
Nhà thơ Bằng Việt tập trung nói một vấn đề lớn, theo anh, trong sự lãnh đạo văn học nghệ thuật: vấn đề chăm sóc rèn luyện để tạo nên những tài năng, những đỉnh cao. Anh nói: "Chúng ta mắc một chủ nghĩa bình quân hết sức nặng trong những năm qua. Chủ nghĩa bình quân vô hình chung khuyến khích cái trung bình, cái dễ dãi nhưng hợp thời, cái sơ lược nhưng mà vừa ý lãnh đạo. Hơi khúc mắc một tý là ta ngại "có vấn đề". Nếu văn học nghệ thuật không khơi dậy những "vấn đề" thì có nó làm gì?..."
Kiến trúc sư Tạ Mỹ Duật nói về ý nghĩa của kiến trúc mà ta thường lầm lẫn đánh đồng với xây dựng. Chúng ta đã "rất cẩu thả về cảnh quan", xây dựng nhiều, tốn kém mà ít hiệu quả và đơn điệu. Anh cũng lên tiếng báo động về tình hình các di tích lịch sử bị phá hoại nghiêm trọng. Đạo diễn Trần Đắc và đạo diễn Hải Ninh nói đến những quan niệm hẹp hòi, thiển cận đang hạn chế những khả năng lớn của ngành điện ảnh chúng ta. Anh Trần Đắc đề nghị "Trung ương lãnh đạo cho văn nghệ đổi mới" để phá vỡ những nề nếp hạn chế cũ, định kiến, cản trở một cách vô lý những tiềm năng của văn nghệ... Đồng chí Tổng bí thư nhắc anh Trần Đắc, mà cũng là nhắc tất cả anh chị em: Trong cuộc đấu tranh còn rất quyết liệt, gian khó hiện nay cho sự đổi mới: "Mình hãy tự cứu lấy mình đi, rồi trời sẽ giúp mình".
Nhà biên kịch Tất Đạt, nữ đạo diễn Phạm Thị Thành, hai nữ nghệ sĩ ái Vân và Xuân Thanh, thông qua thực tế sinh động của ngành sân khấu, mà cũng nói đến những vấn đề chung của văn học nghệ thuật ta hiện nay: Vấn đề tự do sáng tạo bị cản trở thậm chí có khi bị "chà đạp" vì những quan niệm ấu trĩ, thô bạo, sai trái; vấn đề một thứ chế độ kiểm duyệt" vô hình mà không có pháp luật; vấn đề đời sống và điều kiện lao động nghệ thuật của người diễn viên sân khấu bị bỏ bê đến tồi tệ...
Từ góc độ lý luận, nhà sử học Nguyễn Hồng Phong đề cập đến ba vấn đề thuộc số những vấn đề vừa là cơ bản, vừa là cấp thiết của văn học nghệ thuật: vấn đề Đảng lãnh đạo văn nghệ, vấn đề công chúng của văn nghệ; vấn đề giao lưu văn hóa nghệ thuật.
Đảng dứt khoát phải lãnh đạo văn nghệ. Nhưng Đảng là ai? Và lãnh đạo như thế nào?... Đảng lãnh đạo phương hướng, không nên đi quá sâu vào chuyên môn. Chúng ta nói văn nghệ phục vụ đại chúng. Nhưng nếu từ đó mà chủ trương văn nghệ phải lấy tiêu chuẩn là làm cho đa số quần chúng hiểu, đại đa số thích, thì ta chỉ có văn nghệ trung bình. Văn nghệ phục vụ đại chúng, nhưng là đại chúng phải có văn hóa, do đó phải là quần chúng tiên tiến. Có hai cái phục vụ: phục vụ trực tiếp và phục vụ gián tiếp.
Trong lịch sử, có hai cái chất về văn hóa: đóng cửa lùi về cổ sơ, và tha hóa, không giữ được bản sắc của mình. Trong thế giới này, phải có trao đổi với những nền văn hóa khác mình thì mới đổi mới được. Giao lưu văn hóa cũng là nhu cầu sống còn. Trong những khâu quan trọng nhất cần tháo gỡ để "giải phóng tiềm năng sáng tạo" của văn học nghệ thuật, nhà văn Nguyên Ngọc tập trung nói về chức năng, hay là vai trò xã hội của nền văn học nghệ thuật, mà theo anh là vấn đề then chốt hiện nay.
Nhà văn Nguyễn Đình Thi trình bày một số suy nghĩ của anh về vấn đề dân chủ, đặc biệt ở các nước Xã Hội Chủ Nghĩa và ở ta; anh cũng nói về sự đánh giá những thành tựu văn học của chúng ta, mà theo anh là "một nền văn học lớn"...
Tính chung, trong hai ngày có tất cả 26 người phát biểu ý kiến. ý kiến nào cũng tâm huyết, sâu sắc, có giá trị. Ngay hồi đó, tôi cũng đã nghĩ đến việc tập hợp trí cả lại để xuất bản thành một tập sách, đánh dâu một sự kiện lịch sử độc đáo của Đảng ta. Một sự kiện đẹp, vừa mang giá trị khoa học, vừa mang giá trị nhân văn cao cả mà sau này nhất định sẽ được nhắc đến như một "Diên Hồng văn nghệ. Trong lúc việc đó chưa làm được tôi muốn đưa vào tập hồi ký này hai bài phát biểu, một của Nguyên Ngọc, đại diện cho anh chị em phía Bắc, một của Nguyễn Quang Sáng, đại diện cho anh chị em phía Nam.
Nguyên Ngọc phát biểu: Từ sáng hôm qua đến giờ, nhiều đồng chí đã phát biểu rất sâu sắc về những vấn đề quan trọng. Tôi nhất trí với nhiều ý kiến trong số đó. Vì thời gian có hạn, tôi xin không nhắc lại những ý kiến đã nhất trí, chỉ nói thêm về một số vấn đề các đồng chí trước chưa nói, hoặc một số khía cạnh chưa được nói tới trong các vấn đề các đồng chí trước đã nêu ra.
Tôi nghĩ trong hai cuộc kháng chiến vừa qua, văn học nghệ thuật ta đã làm tròn xuất sắc nhiệm vụ của mình. Cùng với các ngành khác, văn học nghệ thuật đã góp phần xứng đáng tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc, của Đảng để đánh thắng kẻ thù. Từ đó, cùng góp phần quan trọng xây dựng, phát triển và khẳng định những giá trị tinh thần và đạo đức mới tốt đẹp cho con người, cho xã hội. Về phần bản thân mình, văn học nghệ thuật ta cũng đã có một bước trưởng thành lớn về nhiều mặt, trong đó có lẽ đáng chú ý hơn cả là sự trưởng thành về đội ngũ... Những điều này không còn gì phải bàn cãi nhiều. Tuy nhiên, mặt khác cũng cần thấy rõ ràng trong suốt thời kỳ kéo dài hơn 30 năm ấy, văn học nghệ thuật ta đã phát triển trong những điều kiện rất đặc biệt, đó là những điều kiện hết sức khắc nghiệt của chiến tranh cho nên tất yếu nó có những hạn chế không thể tránh khỏi: những hạn chế ấy đã để lại những dấu vết hằn sâu. Ví dụ: "Do điều kiện chiến tranh, trong văn học nghệ thuật ta đã thường quen chỉ nói một chiều. Chỉ nói thắng lợi, không nói thất bại; chỉ nói thành tích không nói thất bại; chỉ nói sự đúng đắn không nói sự sai lầm... Tuy ai cũng biết rằng mỗi thắng lợi trong cuộc chiến đều đã phải trả bằng biết bao nhiêu tổn thất hy sinh, thất bại và cả sai lầm cay đắng... Sau Cách mạng tháng Tám 1945, lật đổ một chế độ xã hội cũ, chúng ta mong muốn bắt tay xây dựng một xã hội mới tốt đẹp. Nhưng lập tức chúng ta phải bước ngay vào chiến tranh chống ngoại xâm, cuộc chiến ấy cực kỳ ác liệt và kéo dài. Điều kiện chiến tranh buộc chúng ta hầu như lúc nào cũng phải giải quyết ngay những việc cấp bách nhất, còn những việc lâu dài, cơ bản thì cứ phải gác lại Trong công tác tư tưởng cũng vậy. Trong văn học nghệ thuật cũng vậy. Ví dụ như, trong giáo dục văn học nghệ thuật, suốt mấy mươi năm chúng ta đã nói rất nhiều, rất đậm về tình đồng chí, quan hệ đồng chí, điều đó là đúng và tốt quá. Song ta lại chưa kịp, chưa có thời gian... và cũng quên không nói về một cái sơ đẳng hơn, nhưng cũng gốc gác hơn của con người là tình bạn... Hoặc chúng ta đã nói quá nhiều, sâu về đất nước, về Tổ quốc, về Đảng, về nhân dân, về kẻ thù... nhưng gần như chúng ta quên hẳn một thời gian rất dài không nói gì với các cháu bé của chúng ta về cha mẹ, về gia đình... Trong việc xây dựng tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho con người, chúng ta vừa đạt được những tầm rất cao, lại vừa có sự hụt hẫng ở một số mặt gốc rễ, cơ bản, lâu bền. Có thể nói chừng nào đã có xu hướng "thực dụng" ở đây. Đó là một sự phiến diện không nhỏ.
Điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh cũng dễ dẫn đến khuynh hướng đồng nhất tất cả với chính trị. Cả giáo dục, cả văn học nghệ thuật, thậm chí cả những phạm trù khoa học như sử học, đạo đức học, tâm lý học... đều nhất loạt bị đồng nhất với chính trị. Cuộc chiến tranh giải phóng ác liệt đặt lên hàng đầu sự mất còn của dân tộc lấn át hết mọi quan hệ khác. Trong văn học nghệ thuật điều ấy cũng in dấu rõ: Cái chung của cộng đồng, cái toàn dân tộc là quan trọng nhất; cái riêng hầu như chưa được biết đến, nói đến, chưa có quyền của cái riêng...
Tất cả những điều trên đây là dễ hiểu, có tính lịch sử, là đương nhiên của một "thời kỳ văn học nghệ thuật chiến tranh". Chỉ có điều, khi chuyển sang thời kỳ khác, thời kỳ xây dựng đất nước trong hòa bình, tức là trở lại cuộc sống bình thường, lâu dài, hằng ngày... của một đất nước, một xã hội, nếu chúng ta không kịp nhận ra và kịp thời khắc phục những hạn chế có tính lịch sử trước đây, thì những hạn chế đó sẽ trở thành những nhược điểm, thậm chí những khuyết điểm sai lầm, cản trở sự phát triển của văn học nghệ thuật.
Tiếc thay, vừa qua chúng ta đã phạm đúng điều này trong sự lãnh đạo văn học nghệ thuật. Thật ra, từ gần mười năm trước đây, có người cũng đã thấy và chỉ ra. Nhưng liền bị quy chụp là "phủ nhận thành tựu, là ảnh hưởng đủ thứ quan điểm tư tưởng sai trái này nọ. Và những ý kiến trăn trở ấy bị dập đi...
Theo tôi, chúng ta đã chậm trễ mất khoảng mươi năm. Trong văn học nghệ thuật mươi năm có thể là cả một thế hệ? Thế mới biết, lỗi ở chỗ này không nhỏ. Một nguyên nhân khác, theo tôi, là đẻ ra hệ tư tưởng bao cấp nặng nề thống trị trong suốt thời gian dài, kể cả "bao cấp về tư tưởng". Có những thời kỳ dài, tôi xin nói một cách hình ảnh, cứ hàng quý đến kỳ anh tuyên huấn cấp dưới lại khăn gói lên tuyên huấn cấp trên, anh một ít tư tưởng do cấp trên cấp phát cho, về để tiêu dùng cho mình và cho đơn vị mình trong suốt quý. Hết quý lại đi lĩnh suất khác. Nếu chẳng may đến kỳ rồi mà giao thông trắc trở chưa đi lĩnh được suất tư tưởng mới, thì đành lúng túng ngồi chờ vậy, chẳng thể tự mình nghĩ ra được và dám nghĩ ra cái gì khác. Bởi đã quen: quyền suy nghĩ là quyền của cấp trên?
Tôi e rằng tình trạng này đến nay vẫn cũng chưa hết hẳn đâu!
Trong văn học nghệ thuật, tình trạng này cũng nặng nề. Mãi gần đây, một hôm tôi được chứng kiến một nhà văn có tên tuổi hẳn hoi và đang giữ một cương vị khá quan trọng trong bộ máy lãnh đạo văn học ta, lên chỗ Ban văn hóa văn nghệ Trung ương của đồng chí Trần Độ, nằng nặc đòi: "Trung ương phải chỉ đạo cho chúng tôi nên xây là chính hay chống là chính chứ! Lúc này văn học nên ca ngợi cái tốt là chính, hay đấu tranh chống tiêu cực là chính? Phê bình đấu tranh đến mức nào? Tỷ lệ như thế nào?... Yêu cầu Ban của Đảng phải chỉ đạo cho chúng tôi?..."
Riêng tôi, hôm ấy, tôi nghĩ: nếu tự anh không biết được trước cuộc đời hôm nay anh cần ca ngợi cái gì, đấu tranh chống cái gì, anh yêu ai ghét ai, anh phải yêu như thế nào và ghét như thế nào... thì anh còn là nhà văn cái nỗi gì?" Quả thật thói quen chỉ có thể, chỉ được phép suy nghĩ điều cấp trên đã suy nghĩ; thói quen chỉ được, chỉ dám và chỉ biết suy nghĩ theo phép cấp trên đã thống trị lâu dài trong xã hội ta. Mọi cái "lạ" đều phải kiêng kỵ. Tình trạng đó tất nhiên làm khô cằn mọi sự sáng tạo, trước hết là sáng tạo văn học nghệ thuật.
Anh Huy Cận có nói những quan niệm thô thiển, hẹp hòi, cứng nhắc trong lãnh đạo, theo anh, ở các cấp ủy địa phương đã cản trở nhiều sự sáng tạo văn học nghệ thuật. Tôi nghĩ khác. ở nước ta hiện nay, số lượng văn nghệ sĩ làm việc ở Trung ương đông hơn ở các địa phương nhiều. Nếu sự thô thiển, hẹp hòi, cứng nhắc chỉ có ở các cấp ủy địa phương như anh Huy Cận nói, thì làm sao giải thích tình trạng nghèo nàn hiện nay của văn học nghệ thuật ta, không chỉ nghèo "ở các địa phương"? Phải tìm chỗ khác. Tôi nghĩ rằng trong sự lãnh đạo văn học nghệ thuật, chúng ta có sai ở một số vấn đề quan trọng cơ bản và sai ở ngay trong "hệ chính thống", chứ không phải ở bộ phận, ở cục bộ, ở địa phương. Tôi chỉ xin tập trung nói về một vấn đề theo tôi là nóng bỏng nhất và cũng là vấn đề cơ bản, lâu dài: vấn đề chức năng xã hội, hay là vai trò vị trí xã hội của văn học nghệ thuật.
Nhiều đồng chí đã nói về các vấn đề cơ chế, chế độ, chính sách, về sự đối xử với các văn nghệ sĩ v.v... tôi nghĩ những điều đó đúng, cần nói, cần giải quyết. Nhưng có lẽ dẫu sao những cái đó cũng chỉ là hệ quả tất yếu của những cái quan trọng hơn: ấy là quan niệm về chức năng xã hội và văn học nghệ thuật.
ở ta cho đến nay vẫn thống trị hai quan niệm phổ biến về chức năng xã hội của văn nghệ. Một là văn nghệ minh họa. Chức năng phản ánh của văn nghệ bị hiểu một cách thô thiển. Đại thể là: Đảng và nhân dân sẽ làm nên sự nghiệp anh hùng, văn nghệ hãy ghi chép lại đi, để ca ngợi, để cho mọi người biết, để cho con cháu mai sau hiểu. Hoặc cao hơn một chút nữa, thì: cuộc đấu tranh xã hội diễn ra phức tạp như thế đấy. Đảng, Nhà nước ta đã giải quyết như thế này, thế này... văn nghệ sĩ hãy theo sát, tìm hiểu và ghi chép lại, trình bày những bài học Đảng đã rút ra được ở đó, một cách văn chương, để mọi người dễ tiếp thu, thấm thía... Văn nghệ là đi sau chính trị. Chính trị giải quyết. Văn nghệ phản ánh...
Quan niệm thứ hai là: "Văn nghệ xướng ca" (và đương nhiên dẫn đến: "xướng ca vô loài!"). Đại thể văn nghệ là một thứ trang trí của xã hội. Khi no đủ, vui vẻ, gọi văn nghệ đến giải quyết, mua vui. Còn khi mệt, bận, cáu thì văn nghệ liệu mà tránh xa ra, đừng có quấy rầy!... Vai trò xã hội của văn học nghệ thuật bị hạ thấp. Mọi thái độ đối xử không đúng với nó bắt nguồn từ đó. Anh Nguyễn Đăng Mạnh có nói đến sự "bí mật", sự khó định nghĩa của văn học nghệ thuật. Quả có thế thật. Cho đến nay có lẽ vẫn chưa hoàn toàn giải thích sáng rõ được hết tại sao văn học nghệ thuật lại cần thiết đến thế cho con người, đã có mặt từ khi loài người là loài người, và tồn tại mãi với nhân loại như một điều kiện của chính sự tồn tại của loài người. Và hình như xã hội càng tiến lên, đặc biệt ngày nay khi nền văn minh cơ khí càng phát triển thì nhu cầu nghệ thuật của xã hội, của con người lại càng cấp thiết, bức bách hơn.
Phải chăng, trong rất nhiều lý đo, có một lý do sâu xa này: nghệ thuật là một phương thức tồn tại của con người, giữ cho con người mãi mãi là con người, không sa xuống thành con vật mà cũng không thành những ông thánh vô bổ và vô duyên. Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người. Cái cốt lõi của văn nghệ là tính nhân đạo.
Có một thời chúng ta sợ, coi việc nói đến những điều gọi là những "đề tài vĩnh cửu của văn học nghệ thuật là "tối kiêng kỵ", là "phi giai cấp", là "tư sản", "xét lại"... Song, mặc chúng ta kiêng kỵ và lo sợ, những đề tài như vậy vẫn cứ tồn tại. Có những câu hỏi cứ còn mãi, lặp đi lặp lại mãi, suốt đường dài của lịch sử con người, như những câu hỏi về sống và chết, tốt và xấu, thiện và ác, thật và giả, hạnh phúc và đau khổ... Đó là những câu hỏi quằn quại còn mãi. Chỉ có điều mỗi thời đại, mỗi giai cấp, đến lượt mình phải có câu trả lời riêng của mình cho những câu hỏi đó. Giai cấp vô sản và xã hội chủ nghĩa chúng ta cũng phải trả lời những câu hỏi đó, theo cách của ta. Và con cháu ta mai sau, đến lượt chúng cũng vậy.
Sau năm 1975, có lúc chúng ta đã ngây thơ tưởng rằng đánh giặc xong, chỉ còn nội bộ, nhân dân, đồng chí với nhau, mọi quan hệ sẽ dễ dàng tốt đẹp ngay... Mười năm qua, có lẽ một trong những sự giác ngộ quan trọng nhất của chúng ta là thấm thía hiểu ra rằng xã hội càng tiến lên thì cuộc đấu tranh giữa cái tốt và cái xấu, cái thật và cái giả, cái thiện và cái ác... không giảm, không mất đi, trái lại càng phức tạp, tinh vi, ác liệt hơn. Cái ác dường như cứ càng dữ dội, xảo quyệt... hơn mãi, và không những không biến đi, mà chừng như ngày càng mạnh hơn. Trong cuộc vận động quyết liệt đó, cái thiện vươn lên, thắng lợi một keo. Một bộ phận của cái thiện lại chuyển biến sang phía cái ác Cái ác lại mạnh hơn. Và cuộc đấu tranh lại bắt đầu... Mãi mãi... Ngẫm cho cùng, văn nghệ xưa nay chính là nói về cuộc đấu tranh đó.
Trong cuộc đấu tranh ấy, văn nghệ đặc biệt làm một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng: nhiệm vụ dự báo xã hội. Có thể coi văn học nghệ thuật như là một thứ giác quan đặc biệt, là cái ăng-ten nhạy cảm đặc biệt của xã hội. Có những ngày đang nắng chang chang, vậy mà mở cái radio ra cứ nghe rét rét trên các làn sóng, thì ra gió mùa đông bắc đã ở bên kia biên giới, cơn dông sắp đến. Văn nghệ là cái ăng-ten ấy, Pu-skin gọi thi sĩ là nhà tiên tri. Goóc-ki thì nói đến "chim báo bão". Còn Nguyễn Du của ta thì viết: "Bất tri tam bách dư niên hậu..."
Dự báo nghĩa là nói cái chưa có, mắt thường chưa thấy, tai thường chưa nghe... Người nghệ sĩ lớn là người có con mắt tinh đời, nhìn những thế lực đang hùng hùng hổ hổ thống trị xã hội mà đã sớm đoán ra và tiên báo sự tàn lụi của nó; nghe những mầm non của cái mới còn rất cô đơn, rất mơ hồ mà dám khẳng định nó sẽ làm chủ tương lai... Nhà văn càng lớn thì khả năng dự báo của họ càng xa, càng dài, càng chính xác.
Tôi nghĩ cũng nên nói rõ thêm rằng ngay chính bản thân người nghệ sĩ nhiều khi cũng không tự mình cắt nghĩa rõ được, trình bày rõ được sự "tiên tri" của mình dâu. Nhiều khi đó là một thứ dự cảm. Tâm hồn đặc biệt nhạy cảm của họ rung lên vì những chấn động nào đó mà chính họ cũng chưa hiểu được hết ý nghĩa... Nhà văn nổi tiếng G.G. Mác-két có nói rằng không nên đánh giá quá thấp vai trò của nghệ thuật, nhưng cũng không nên đề cao quá đáng vai trò đó. "Xưa nay nói cho cùng nghệ thuật cũng chưa bao giờ lật đổ được một chế độ chính trị nào". Quả là ở Châu Mỹ La Tinh đau khổ và sôi sục của ông, cho đến nay chưa có chế độ độc tài nào bị văn nghệ lật đổ! Nhưng ông nói văn nghệ lại làm một việc rất quan trọng; nó báo hiệu, nó gây men, nó chuẩn bị tư tưởng cho những biến đổi xã hội rộng lớn, những cuộc cách mạng. Trong ý nghĩ đó, nó đi trước. Tôi nghĩ khi nói chức năng phản ánh của văn nghệ là phải nghĩ như vậy. Phản ánh nhưng là báo trước, chuẩn bị tư tưởng trước, chuẩn bị tư duy mới cho xã hội, chứ không phải đi sau, ghi chép, minh họa. Anh Nguyễn Khắc Viện có lần nói: "Nhiệm vụ của kẻ sĩ trong mọi thời là gây dư luận", có lẽ cũng là trong ý này. Nguyễn Quang Sáng phát biểu ngắn hơn nhưng mỗi câu, mỗi chữ hàm chứa những vấn đề lớn, những vấn đề cốt lõi mà tất cả mọi người trong giới văn hóa nghệ thuật từng trăn trở mấy lâu nay. Cách nói của anh, giọng của anh đầy chất hóm hỉnh nhưng vô cùng thẳng thắn và bộc trực của người Nam Bộ.
" ở thành phố Hồ Chí Minh, tôi có dịp gặp và làm việc với anh Mười. (Tên gọi thân mật của đồng chí Nguyễn Văn Linh trong thời hoạt động ở chiến trường miền Nam) Cho nên, hôm nay những điều tôi nói, đối với anh Mười không có gì mới (muốn có cái mới đâu có dễ), nhưng vẫn nói lại vì những điều ấy chưa thực hiện được, còn cay cú. Và đối với anh chị em ở đây cũng không có gì là lạ, nhưng vẫn nói để thấy, suy nghĩ của chúng ta giống nhau, chúng ta không cô đơn.
Như nhận xét của đồng chí Tổng bí thư, văn học nghệ thuật của chúng ta mấy năm qua vẫn còn nghèo. Đúng như vậy. Vốn đã nghèo lại càng nghèo, ở chỗ ta có tác phẩm hay mà không thấy (có vàng mà tưởng thau). Cái không hay lại khen bốc lên (thấy thau lại tưởng là vàng). Có anh nói: "Viết không biết, vẽ không vẽ, chỉ có khen với chê cũng không làm đúng". Chưa đánh giá đúng giá trị của những tác phẩm đã có, do đó thấy nghèo hơn. Tôi nghĩ, muốn có tác phẩm hay phải có ba điều kiện: một là tài năng, hai là tiền, ba là tự do. (Tôi nói đùa là phải có ba chữ T).
Những anh chị em đang ngồi ở đây và không có mặt ở đây là những người có tài năng, tài năng cộng với một cuộc sống của hai cuộc chiến tranh. Có một nhà văn nước ngoài tự hào đã có ba năm làm lính trong chiến tranh chống phát xít bảo vệ tổ quốc. Với nhà văn ấy, cái vốn ba năm chiến tranh của anh là ngôi sao của văn học, anh sẽ viết suốt đời. Anh hỏi tôi có bao nhiêu năm tham gia chiến tranh. Tôi đáp: Tôi hơn anh con số không ở sau, nghĩa là có ba mươi năm. Anh cười và bảo tôi có thể viết đến kiếp sau. Chúng ta có một cái vốn lớn và quý không phải người nghệ sĩ nào cũng có, nhưng tại sao chúng ta có ít tác phẩm hay?
Điều thứ hai tôi nói đến tiền là muốn nói đến phương tiện làm việc, muốn nói đến chế độ nhuận bút. Chế độ nhuận bút của ta vừa thấp đến vô lý, vừa bất hợp lý ở chỗ những tác phẩm được viết bằng tâm huyết, có khi viết bằng cả một cuộc đời thì tiền nhuận bút lại quá ít (ít đến nỗi không dám mua sách tặng cho bạn bè) còn cái dễ hơn, làm dễ dãi thì tiền được khá hơn. Tiền nhuận bút thấp kém đã ảnh hưởng đến sức sáng tạo và sức viết. Đó là một nguyên nhân.
Điều thứ ba quan trọng hơn, là tự do cho sáng tác. Khi đặt vấn đề tự do cho sáng tác mà có đồng chí hỏi gặng lại: "Chế độ ta không có tự do à?" thì rất khó trao đổi. Từ hôm qua đến nay, các đồng chí nói rất nhiều đến tự do sáng tác, chứng tỏ là tự do cho sáng tác có bị hạn chế.
Rõ ràng là người viết luôn luôn có một mối lo, nói là sợ thì quá đáng, nói sờ sợ thì đúng hơn. Sợ trên, sợ xung quanh và nỗi sợ ấy ở ngay trong bản thân mình. Trước khi đưa ra, tự mình đã cắt gọn cho trơn tru rồi. Có gì gai góc thì sợ "có vấn đề". Như tôi chẳng hạn, khi tin bộ phim "cánh đồng hoang" bị cấm trong quân đội, lập tức tôi nghĩ ngay lý lịch của mình (lý lịch của tôi không ngon lắm, nhưng không đến nỗi nào). Cái sợ ấy như là sợ ma vậy. Trong số bạn bè của tôi (một số thôi) tôi nghiệm thấy: người nào được cho là ngoan ngoãn, được xuôi chèo mát mái, thuận buồm xuôi gió thường không có cái gì hay, còn người gặp khó khăn, bị "để ý", bị coi như "có vấn đề, thì thường có cái hay.
Tự do cho sáng tạo phải như không khí dễ thở. Ta luôn luôn thở, thở một cách tự nhiên, thở mà không hay biết - Thở mà nghĩ là đang thở, phải thở thì tức là bệnh rồi, như bị hen vậy - Tự do sáng tác phải được thoải mái tự nhiên như thở.
Lúc ở thành phố Hồ Chí Minh, có lần tôi phát biểu với anh Mười, nói về sự quan tâm của cấp ủy đối với anh vực văn học nghệ thuật, tôi có nói: "Đối với văn nghệ, lâu lâu cấp ủy mới liếc qua một cái". Tôi nghĩ là anh Mười giận. Nhưng sau đó, trong một cuộc gặp gỡ với anh chị em văn nghệ sĩ thành phố, anh Mười có nhắc lại và nói: "Lần này thì tôi liếc tình". Và lần này, xa hơn cái "liếc tình" ấy, hôm nay như buổi kết hôn giữa anh với lãnh vực của chúng ta? "
Nhiều hy vọng!
Cuộc gặp gỡ giữa đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, với các văn nghệ sĩ trong hai ngày 6 và 7 tháng mười là một cuộc gặp gỡ lý thú. Có thể nói, đây là một cuộc gặp có tính chất lịch sử. Cuộc gặp được tổ chức theo chính sáng kiến của Tổng bí thư.
Không khí cuộc gặp là đặc biệt chân thành, cởi mở và tâm huyết. Mỗi người phát biểu đều như muốn dốc hết bầu tâm sự với đồng chí Tổng bí thư, với biết bao điều day dứt từ lâu muốn bày tỏ mà chưa biết bày tỏ cùng ai. Thực ra cũng đã có nói nơi khác, nhưng nói chỉ để mà nói chứ có ai nghe đâu, hoặc nghe để mà nghe chứ với cơ chế cũ thì liệu có làm được gì...
Còn trong cuộc gặp này, tiếng nói của họ được đồng chí Tỏng bí thư nghe chăm chú hầu như không bỏ sót một ý nào. Có thể, đây là lần đầu tiên giới văn hóa nghệ thuật cảm thấy tiếng nói của mình được Đảng đánh giá cao và tiếp nhận một cách trân trọng.
Do đó, khi đồng chí Tổng bí thư phát biểu kết thúc cuộc gặp, đã nói lên đầy đủ những điều then chốt và bản chất nhất làm cho anh chị em hết sức xúc động. Theo tôi, bài phát biểu ấy đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị, nên tôi đưa toàn văn vào tập hồi ký này để mọi người nhớ lại một thời của văn nghệ đổi mới.
"Thưa các đồng chí,
Trong hai ngày qua, tôi được may mắn dự cuộc hội thảo này, được nghe nhiều đồng chí phát biểu. Tôi rất hoan nghênh ý kiến của tất cả các đồng chí vì các ý kiến ấy đều thẳng thắn, đa dạng, phong phú và sâu sắc. Có lẽ những điều các đồng chí nói ra đã được ấp ủ từ lâu, rất tâm huyết. Có thể nói, hai ngày vừa qua, các đồng chí đã thổ lộ can tràng.
Nhiều đồng chí đã phát biểu. Nhiều cách nói khác nhau. Nhưng xét cho cùng, nội dung các ý kiến đều giống nhau, thống nhất với nhau về những điểm sau:
Thứ nhất, là về vai trò của văn hóa văn nghệ. Sự lãnh đạo của Đảng trong nhiều năm qua còn xem nhẹ, đánh giá thấp vai trò của công tác văn hóa văn nghệ và vị trí của các văn nghệ sĩ, các nhà hoạt động văn hóa trong đời sống xã hội. Đây là vấn đề nhiều đồng chí, bằng cách này hoặc cách khác, đã nói khá tập trung và đã đưa ra nhiều dẫn chứng cụ thể, sinh động.
Thứ hai, là các đồng chí đều nhận xét rằng sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ còn có tình trạng thiếu dân chủ, còn độc đoán, áp đặt.
Thứ ba là cơ chế tổ chức, quản lý và các chế độ, chính sách đối với văn hóa và văn học nghệ thuật còn nhiều điểm chưa đúng, còn nhiều điều bất công... Sự thiếu sót này là một trong những nguyên nhân làm cho dời sống của các đồng chí gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Những người làm công tác văn hóa, văn nghệ cũng là những người sản xuất, lại là những người sản xuất ra sản phẩm cao cấp cho xã hội. Trong thời gian qua, sự đầu tư cho lao động trí óc, lao động sáng tạo không đủ để các đồng chí tái tạo lại sức sản xuất.
Đó là mấy điểm lớn qua phát biểu của các đồng chí.
Có thể nói, các điểm ấy cũng là những nguyên nhân chính làm cho chưa phát huy tốt được khả năng của đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức. Có lẽ, cho tôi tạm dùng một từ, tôi có cảm xúc trong hơn mười năm qua (từ khi nước nhà thống nhất, cả nước đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội), so với hai cuộc kháng chiến trước đó, thành tựu của văn học nghệ thuật của chúng ta còn nghèo. Trong hai cuộc kháng chiến, các đồng chí đã đóng góp rất nhiều, có công rất nhiều, có tài rất nhiều. Nhưng mười năm qua thì không được như thế. Tôi nói nghèo là vì như vậy.
Qua phát biểu của các đồng chí, tôi thấy rõ thêm nguyên nhân vì sao sang giai đoạn cách mạng này, sự đóng góp của các đồng chí còn ít. Gần đây, có một số tác phẩm tốt được sự hường ứng trong công chúng, nhưng còn ít quá. Đáng lẽ những tác phẩm như vậy phải có nhiều hơn. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là: với tinh thần đổi mới của Đại hội VI, ta phải truy cho ra vì nguyên nhân gì làm cho văn học nghệ thuật của chúng ta nghèo đi.
Trong lĩnh vực kinh tế xã hội, chúng ta không phủ nhận rằng chúng ta đã làm một sự việc tốt. Nhưng bên cạnh đó, chúng ta mắc rất nhiều cái sai. Đáng lẽ đời sống nhân dân, đời sống người lao động chân chính không đến nỗi khổ như hiện nay nếu không có những sai lầm mắc phải. Như các đồng chí đã biết, Trung ương đang cố gắng sửa chữa các sai lầm. Muốn sửa sai thì phải tìm nguyên nhân. Có giải quyết, sửa chữa các sai lầm mới đổi mới được, đổi mới là một cuộc cách mạng sâu sắc, triệt để: đổi mới tư duy, đổi mới chính sách, đổi mới tổ chức, đổi mới cán bộ... Người lãnh đạo mà bảo thủ, sai lầm, không chấp nhận đổi mới thực sự thì không thể lãnh đạo được. Các đồng chí có nói nhiều đến sự "cởi trói". Có như vậy mới phát huy hết khả năng trong lĩnh vực của các đồng chí. "Cởi trói" như thế nào? "Cởi trói" nói ở đây trước hết tôi nghĩ rằng Đảng phải cởi trói. Cởi trói trong lĩnh vực tổ chức, chính sách trong các quy chế, chế độ... Nghe các đồng chí phát biểu, tôi cũng không ngờ trong lĩnh vực này cũng có kiểu quản lý hành chính bao cấp, tới đây phải sửa và phải xây dựng những văn bản pháp quy nhằm bảo đảm sự phát triển cho ngành các đồng chí. Đảng và Nhà nước phải bắt tay mau lẹ vào công việc này. Một mặt khác, tôi nghĩ trong lãnh vực của các đồng chí, không thể có ai khác hơn là các đồng chí phải tự làm. Hồi sáng, nhân có ý kiến đồng chí nào đó phát biểu, tôi có nói chen vào "Hãy tự cứu lấy mình trước khi trời cứu là trên ý nghĩa như vậy. Chính các đồng chí cũng đòi hỏi rằng trong lĩnh vực của các đồng chí, không được áp đặt mọi công việc như đặt con tàu chạy trên đường rầy, các đồng chí.cần được tự do lo liệu cho các công việc của mình. Nếu như trong lĩnh vực kinh tế hiện nay cần phát huy dân chủ cho người sản xuất thì ở lĩnh vực của các đồng chí, các đồng chí cũng phải làm chủ.