Dịch giả: Phan Quang
Chương 24 (A)
CÁC CUỘC PHIÊU LƯU KỲ THÚ CỦA ABUNPHAUARI, BIỆT DANH NGƯỜI DU HÀNH VĨ ĐẠI – PHẦN TIẾP;

NGÀY 180, 181, 182, 183, 184.

  CHUYẾN ĐI THỨ HAI.
Vậy là nàng Canzat thuộc về tôi.  Hai chúng tôi quý yêu nhau, cuộc sống vô cùng hòa hợp.  Chúng tôi không cầu xin gì hơn được kéo dài những ngày hạnh phúc trời cho chúng tôi hưởng.  Nhưng than ôi! Người trần gian hay ngộ nhận, khi đã phong lưu những tưởng mình sẽ được phong lưu đời đời.  Bình sinh cuộc sống chúng ta chen lẫn ngọt ngào và cay đắng, khi ta cảm thấy hạnh phúc lên đến đỉnh cao chính là lúc ta bắt đầu những bước vào những ngày hoạn nạn nhất.
Mấy tháng sau lễ thành hôn của tôi, thân sinh tôi qua đời.  Tôi và em trai tôi chia nhau gia tài cụ để lại.  Em trai tôi, tên là Hua, muốn phần gia tài mình được hưởng chóng sinh lợi, muốn làm nghề thương mại.  Chú ấy tậu một con tàu, đem tất cả vốn liếng của mình mua nhiều loại hàng hóa xếp đầy cả một con tàu ấy, đưa sang bán tại vương quốc Malaba.  Tuy nhiên công việc kinh doanh chẳng lấy gì may mắn, tàu chú ấy bị đắm gần thành phố Ocmu.  Vốn liếng mất sạch, chỉ còn mình chú mau sao sống sót.
Chú trở về gần như trên người không còn manh áo, tình trạng thật khốn cùng.  Thương hại, tôi cho chú về nhà, cấp vốn cho đủ mua các thứ hàng hóa khác.  Nhưng chuyến đi nàng chẳng may mắn hơn lần trước.  Chẳng những không bù đắp được mất mát trước đây, tàu lại đắm.  Một lần nữa mất sạch, chỉ còn sót lại trơ mỗi cái thân chú.  Chú lại tìm về Basra gặp tôi, thưa với anh tai họa lại ập lên đầu em lần nữa.
  NGÀY THỨ MỘT TRĂM TÁM MƯƠI.
Thông cảm với bất hạnh của em trai, tôi không từ nan bất cứ điều gì để có thể an ủi chú.  Tôi bảo với chú:
“Thôi, em trai à, em biết rồi đấy, trên đời này số ai giàu sang, số ai nghèo khó, tất cả đều do tiền định.  Em buồn phiền phỏng được ích gì?  Đáng ra em nên thâm tạ trời đất đã cho em được sống đến hôm nay.  Thôi, hãy bỏ việc buôn bán ấy đi, em hãy về đây sống với anh, em chẳng lo thiếu thốn thứ gì.”
Chú thuận theo ý kiến của tôi.  Chú chuyển về sống tại nhà tôi.  Nhưng rồi nhàn cư vi bất thiện, ngày này qua ngày khác chú chỉ còn việc đi lang thang hoặc chơi bời đàn đúm cùng bè bạn.  Về phần mình, tôi quá bận lo chăm bẵm nàng Canzat, tìm mọi cách bày ra cho nàng tiêu khiển.  Tính tôi vốn thích tiêu pha, khoản lợi tức của tôi tuy khá lớn thật đấy song không sao đủ cung phụng cho lối sống quá phong lưu của hai vợ chồng.  Sau mấy năm, tôi nhận ra gia sản mình đã vơi đi đáng kể.  Sợ đến một lúc nào đó có thể trở nên quẫn bách, tôi tính cách phòng ngừa.  Tôi quyết định liên doanh với một thương gia giàu có, cùng nhau sang buôn bán bên vương quốc Gôncông.
Thật khó khăn lắm mới thuyết phụ được vợ tôi cho tôi tiến hành một chuyến đi xa như vậy.  Tuy nhiên, tôi nói mãi nàng cũng nghe ra, với hy vọng rồi đây khi tôi sẽ trở về Basra sẽ mang theo vô vàn của cải, lúc đó hai vợ chồng tha hồ hưởng những ngày còn lại chẳng có gì phải lo âu.
Vậy là tôi chung vốn làm ăn với một đồng nghiệp tôi biết là người trung hậu.  Chúng tôi cất hàng hóa mang sang bán tại thành phố Xurat, định bụng sau đấy lại mua tiếp các đặc sản ở Xurat đưa sang đổi chác tại Gôncông.  Ngày khởi hành, tôi gỡ vòng tay của nàng Canzat đầm đìa nước mắt, ôm hôm chú em trai và bảo:
“Em trai của anh ơi, tạm biệt.  Anh giao cho em việc chăm non gia đình và quản lý công việc của anh.  Em hãy cố gắng giữ gìn uy tín, cũng như dè sẻn số tài sản anh để lại nhà.  Trên tất cả mọi sự, anh nhờ em trông nom chị, chị là người đức hạnh, không phải lo chi về mặt ấy.  Cái chính là chú ý để chị khỏi bị những kẻ sấu xưa nay vốn ghen ghét anh tìm cách làm hại.  Tóm lại, anh ký thác chị dâu cho em, sao cho đến khi anh trở về, mọi sự đều nguyên lành tốt đẹp như ngày anh ra đi.”
Nghe lời dặn dò, chú Hua khoe khoang mình là người xử sự lúc nào cũng đàng hoàng, tinh tế, và hứa sẽ cố gắng là tốt mọi việc tôi giao phó.  Chú còn nói thêm, do tình nghĩa, anh em ruột thịt, chú chăm nom việc nhà của anh trai như chăm lo công việc của chính mình.  Tin vào lời hứa của chú em, tôi yên tâm lên đường cùng với người bạn kinh doanh.
Tàu giương buồm, lên đường đến thành phố Xurat bình yên vô sự.  Chúng tôi bán mọi thứ hàng hóa mang theo trên tàu, rồi lại mua các sản phẩm khác có thể rất ăn khách ở Gôncông để sang đấy bán; rồi giương buồm ra khơi đi tiếp.
Tôi xin miễn không thuật lại những lần gặp gió to sóng lớn cũng như những ngày trời yên biển lặng trên đại dương; dù sao rốt cuộc cũng cặp được bến cảng Gôncông sớm hơn cả thời gian mong đợi.  Chúng tôi bán hàng, thu đựơc một khoản lợi nhuận khá lớn.  Ông bạn hàng của tôi là một người rất am tường các loại ngọc ngà châu báu, mà chúng tôi lại đang có mặt ở vươg quốc Gôncông xứ có những viên kim cương đẹp nhất trên đời, chúng tôi liền quyết định đưa phần lớn vốn liếng ra mua kim cương, với hy vọng về thành phố Batđa có thể bán lại với giá đắt gấp bốn lần giá mua vào.  Hài lòng với số lãi đã thu được qua việc buôn bán các hàng hóa trước, và hy vọng với một khoản hời nữa thu được sau khi bán kim cương, chúng tôi chẳng có việc gì nấn ná lâu ở Gôncông.  Vậy là chẳng bao lâu sau khi xong công việc, chúng tôi lên đường trở về Basra.
  NGÀY THỨ MỘT TRĂM TÁM MƯƠI MỐT.
Con tàu chạy hết tốc độ.  Cũng như mọi hành khách trên tàu, chúng tôi hy vọng mau chóng trở về tới thành phố uớc mơ.  Thế nhưng, một đêm, một cơn bão cực kỳ dữ dội nổi lên.  Mặc cho hoa tiêu và các thủy thủ ra sức vật lộn, cuối cùng đành chịu thua gió bão, chúng tôi để mặc cho sóng dữ đẩy con tàu đi lạc khá xa hải trình.  Cuối cùng, sau nhiều ngày bị gió dập sóng vùi, con tàu xô vào một mỏm đá và vỡ tan không xa bờ một hoang đảo.
Tất cả thủy thủ đoàn đều thiệt mạng, trừ có ông bạn hàng của tôi và tôi.  Nhờ xuống kịp chiếc xuồng cứu nạn, chúng tôi thoát khỏi chết chìm.  Nhưng hỡi ôi!  Một nỗi hiểm nghèo ghê gớm chẳng khác nào bão tố đang chờ đợi chúng tôi.
Chiếc xuồng con cập bở, chúng tôi sắp lên đảo, chợt một con cá sấu to khủng khiếp lao đến chỗ chúng tôi.  Con vật ghê sợ ấy chống lên hai chân trước, quẫy mạnh cái đuôi, đạp chiếc xuống cứu nạn ra hàng nghìn mảnh.  Ông bạn tôi và tôi chưa kịp lên bờ, đều rơi tõm xuống nước.  Ngay lúc ấy, con cá sấu há mỏm đớp.  Chúng ngoạm được ông bạn tôi, trong khi nó mải bận nhai ngấu nghiên để nuốt cái mồi ấy, tôi thừa cơ bơi được vào bờ, ba chân bốn cẳng chạy sâu vào đảo trốn cá sấu.
Thoạt tiên tôi gặp một con suối, nước suối nhìn trắng tựa sữa.  Tôi uống, thấy ngon tuyệt vời, tưởng như đang uống nước trái cây ép loại thượng hảo hạng.  Tiếp đó tôi hái một ít lá cây cỏ mọc bên bờ suối ăn, và cảm thấy ngon như dùng sơn hào hải vị.  Thiên nhiên ở đây thật phong phú, đa dạng làm sao, cho nên mới sản sinh ra nhiều loại kỳ thú đến thế, tôi nghĩ.  Mặc dù lúc này đã tan gia bại sản hoàn toàn, tôi vẫn thầm cảm tạ trời đất đã cho tôi dạt lên một hoàn đảo không đến nỗi phải chết đói chết khát.  Tuy nhiên, tôi rất sợ gặp thú dữ, bởi vậy mặc dù rất buồn ngủ, vẫn không dám chợp mắt, chỉ sợ sơ ý làm mồi cho chúng.
Tôi đi sâu vào một khu rừng.  Trong rừng toàn cây gỗ lô hội hoặc trầm hương quý.  Đi khoảng ba trăm bước, gặp một bãi cỏ non, có rất nhiều hoa tươi đủ màu tỏa hương thơm ngát.  Chính giữa bãi cỏ non ấy, mọc lên một cây cổ thụ cao dễ đến cả trăm thước, vươn dài những cành cây vững chãi mang bộ lá um tùm, tạo nên một khoảng bóng râm rất rộng.  Cạnh gốc cây, dưới một chiếc lều lợp bằng gấm thêu, một người đàn ông nằm có vẻ như đang ngủ trên một chiếc sập.  Tay phải người đàn ông ấy đặt lên một cái hộp nhỏ bằng vàng.  Bên cạnh ông, một con rồng lớn nằm canh, mõm nó ngậm một cọng cỏ thơm, thỉnh thoảng lại đưa ngọn cỏ thơm vào mũi người đang nghỉ.
Cảnh tượng ấy làm tôi khiếp đảm.  Tôi tự bảo:
“Có ích gì cho ta thoát khỏi hàm cá sấu, để rồi bị con rồng này chồm đến vồ ăn thịt?”
Không dám tiến đến gần chiếc lều nữa, tôi vội chạy lùi nấp sau bụi rậm, từ đấy quan sát người đàn ông nằm nghỉ và con quái vật.  Một lát sau, tôi thấy con rồng ra khỏi cái lều, bay bổng lên bầu trời rồi nhanh chóng biến mất khỏi tầm mắt tôi.
Con rồng đi khỏi, tôi cảm thấy yên tâm.  Rất hiếu kỳ muốn biết người nằm nghỉ kia là ai, tôi hồi hộp tiến đến thảm cỏ, rồi lần vào trong lều.  Người nằm nghỉ ấy là một cụ già ước chừng một trăm hai mươi tuổi, trông hình dong tươi tốt tưởng như người vẫn còn sống, mặc dù cụ yên nghỉ đời đời nơi đây đã bao thế kỷ rồi.  Tôi đứng yên ngắm dung nhan cụ hồi lâu, rồi gỡ bàn tay cụ để lấy chiếc hộp bằng vàng.  Mở hộp ra, thấy bên trong xếp nhiều tấm thiếp ghi những dòng chữ như sau:
“Axep, con trai của Bakia, và là tể tướng của đại đế Xalomon, là cụ già nghỉ dưới cái lều này.  Vị đại thần ấy, khi cảm thấy sắp phải từ giã cõi trần, đã chọn hòn đảo hoang này để cho quàn thi hài của mình.  Ngài cho dựng lên cái lều chính giữa bãi cỏ tươi này, tự tay viết những dòng chữ ấy, cho vào cái hộp bằng vàng, sau đó nằm lên sạp và từ trần.  Những người nào sau này đặt chân được tới đây cần phải biết, họ sẽ chẳng bao giờ còn nhìn lại được gia đình và cố quốc và rồi sẽ bỏ mạng nơi đây, trừ phi những người ấy có đủ dũng khí để trải qua những gian nan thử thách ghê gớm.  Nếu những người ấy không biết sợ bất cứ điều gì, thì hãy mau mau đi về hướng tây.  Đến chân một quả núi, họ sẽ nhìn thấy một cái hang.  Hãy mạnh dạn đi sâu vào cái hang ấy, và chỉ dừng bước khi nào gặp một đồng cỏ non cực kỳ ngoạn mục.  Chỉ có đi đến tận nơi ấy, họ mới sẽ đạt được cực đỉnh của ước mong.”.
 NGÀY THỨ MỘT TRĂM TÁM MƯƠI HAI.
Sau khi đọc những dòng chữ trên, tôi kính cẩn hôn lên các tấm thiếp của ngài cố tể tướng Axep, rồi quỳ xuống, ngước mắt lên trời cầu nguyện:
“Lạy Thượng đế, Người không muốn cho con phải bỏ mạng ở hòn đảo chết chóc này, Người đã chỉ cho con nhìn thấy lối ra.  Lạy Đấng tiên tri của những người Hồi giáo, nhờ có Ngài nên con mới được Thượng đế đoái thương, xin Ngài hãy tiếp tục phù hộ cho con.  Ngài đã lôi con từ đấy cái giếng sâu của lão Hyzum lên, xin Ngài chớ từ bỏ con khi con dấn thân vào những hiểm nguy mới.”
Không để mất thời gian, tôi theo hướng tây bước tới.  Chẳng bao lâu đến chân một quả núi.  Tôi nhìn thấy quả có một miệng hang đen ngòm khiến bất kỳ ai trông thấy cũng không khỏi ngại ngần.  Nhưng tôi quá tin vào các thiếp chữ của ngài Axep đến nỗi chẳng còn biết lo sợ là gì.  Không ngần ngại, tôi mạnh dạn bước vào hang, nói là bước nhưng vừa đi vừa mò mẫm bởi trong hang tối đen như mực.
Lối đi trong hang theo chiều dốc đổ xuống, tôi cứ đi không nghỉ như vậy, sau chừng mườilăm, hai mươi tiếng đồng hồ cứ tục dốc hoài, tôi đồ chừng có lẽ mình đã đi sâu xuống tận âm phủ.  Cuối cùng, bóng tối tan dần.  Tôi lại nhìn thấy ánh sáng mà tôi ngỡ đã vĩnh viễn mất đi.  Trước mắt tôi là một đồng cỏ non, trong đồng mọc muôn loài hoa thơm trái quý chưa từng được nhìn thấy bao giờ.
Tôi đến gần các cây ấy hái mấy quả ăn, rồi nằm xuống nghỉ trên thảm cỏ non.  Tôi ngủ thiếp đi một giấc ngủ rất sâu.  Khi tỉnh dậy, mở choàng mắt, tôi ngạc nhiên nhìn thấy chung quanh chó khoảng mười hai đến mười lăm vị hung thần đen đủi, thân xác gầy nhom, những đôi mắt đều nảy lửa.  Tôi nhìn thấy mặt họ gần giống mặt người, nhưng một số vị chính giữa trán lại mọc lên một cái sừng và bên dưới có một cái đuôi giống đuôi chó, một số vị khác từ thắt lưng trở xuống lại nhìn giống như phần đuôi những con tắc kè.  Một hung thần ồm ồm cất tiếng hỏi:
Hỡi anh chàng con người trần thế kia, tại sao mày có mặt ở chốn âm ti này?
Tôi thuật cho họ nghe đầu đuôi câu chuyện.  Một hung thần nói:
- Vậy mày hãy đến sống cùng bọn ta.  Chúng ta chẳng làm hại mày đâu.  Sau khi phục dịch chúng ta vài năm, để trả công, chúng ta sẽ mang mày đến bất kỳ nơi nào mày muốn đến.
Tôi vừa đáp tôi thuận tình, họ đã bảo luôn:
Mày biết điều đầy.  Mày không thuận tình, chúng ta cũng bắt mày phải đi theo.
Nói xong, các hung thần cắp tôi vào nách, bay lên không trung, vượt qua muôn ngàn núi rừng và biển cả mới đến được nơi nọ sống quây quần.  Ở đây có vô số hang động.  Cũng có những hung thần không sống trong hang mà chọn đầu ngọn suối hoặc dưới vực thẳm.
Tôi ở cả một năm trời cùng với các hung thần ấy, chỉ sống nhờ cây cỏ.  Đối với các hung thần ấy, bữa ăn thường ngày là các khúc xương người ta đã ăn hết phần thịt: đấy là những món ăn tuyệt vời của họ.  Tôi nhớ nhiều lần nghe họ vừa xuýt xoa thốt lên ngon quá, tuyệt quá.  Các hung thần ấy còn chê bai loài người ngu dốt, sao lại thích ăn thịt hơn gặm xương.  Để khỏi thiếu thực phẩm, một số trong bọn họ được giao việc chuyên đi mọi nơi lùng xục kiếm về cho đủ số xương dùng hằng ngày.  Những thần này tìm kiếm xương từ khắp nơi trên thế giới, đặc biệt được ưa chuộng là xương ngựa xứ Tartari, món họ rất ham thưởng thức.
Sự ăn uống kham khổ, cũng như nổi buồn phải làm nô lệ cho lũ hung thần không làm tôi đau khổ bằng khi thấy bọn chúng tỏ ý khinh miệt Thánh kinh Coran của Đấng Mahomêt nhà tiên tri chúng ta.  Chúng cấm tôi không được đọc kinh cầu nguyện cũng như thực hành các nghi lễ hằng ngày.  Biết mình không tuân lệnh chúng sẽ nguy hiểm lắm đấy, tôi vẫn tìm được cách thực hành lễ tiết tôn giáo trong vòng bí mật.
Một hôm, đang ngồi trong một cái hang mà tôi có nhiệm vụ phục dịch, trong lúc tôi âm thầm đọc nhẩm một vài vần thơ trong Kinh Coran, chợt nghe trên không trung có nhiều lời ca và tiếng hát khá rõ ngợi khen Thượng đế tối cao.  Ngạc nhiên sao có chuyện lạ lùng, tôi vội ra khỏi hang xem có điều gì đang xảy ra.  Tôi nhìn thấy có nhiều vị thần mặc đồ trắng và khoác bên ngoài các tấm áo choàng giống như áo tu sĩ thần học.  Những vị thần này to lớn béo tốt, chứ không còm nhom như các hung thần kia.  Hóa ra các hảo thần áo trắng vừa đánh nhau với các hung thần màu đen.  Các thần áo trắng toàn thắng, lên tiếng ngợi ca Thượng đế tôi thiêng liêng.  Một số hung thần đen đủi bị bắt trói, một số khác vội vàng cao chạy xa bay.
Không chỉ bằng lòng ngắm cảnh tưởng ấy, tôi hòa lời ngợi ca của mình vào lời các hảo thần.  Tôi cố gắng lấy hết hơi sức, gào thật to: “Trên đời này chẳng có thần linh nào ngoài Thượng đế, và Mahômêt là đấng tiên tri của Ngài.”
Một nhóm thần vừa chiến thắng nghe tôi xướng như vậy, liền xúm quanh lại:
“Mày là ai?” Một thần hỏi.  “Ai đã dạy cho mày lời ngợi ca ấy?  Chúng ta không ngờ có một tín đồ Hồi giáo ở chốn này.  Mày từ đâu đến, và làm sao mày đến được tận đây?”
Tôi đáp ứng sự hiếu kỳ của các vị thần ấy, họ dẫn tôi đến gặp vị có vẻ như là nhà vua của tất cả bọn họ.  Vị thần này lại hỏi tôi những câu tương tự vừa rồi, tôi lại trả lời y chang như cũ.  Thần hỏi tôi theo tôn giáo nào.  Tôi vừa đáp tôi là người Hồi giáo, vị thần linh ấy đã thốt lên: “Hạnh phúc thay cho ai là tín đồ của Mahômêt.”  Rồi thần lại hỏi tôi tên họ là chi.  Sau đó, thần ấy bảo:
“Anh Abunphuauri này, ta rất hài lòng đã giải thoát anh khỏi bàn tay hung thần vô đạo.  Nếu không, một ngày nào đó bọn chúng sẽ hãm hại anh.  Lúc này anh có thể tha hồ mừng vui, bởi anh đang được sống cùng các vị thần linh tất cả đều đã quy theo Hồi giáo, giống như anh.”
  NGÀY MỘT TRĂM THỨ TÁM MƯƠI BA.
Nhà vua của các vị hảo thần ấy tự nhiên có cảm tình với tôi.  Thấy tôi am hiểu tường tận nhiều điều thuộc về giáo lý, cả những việc cần làm cũng như những điều cấm kỵ trong đạo Hồi, vua lập tôi làm giáo chủ.  Như vậy, tôi trở thành người chăm lo mọi công việc thuộc về tôn giáo cho các thần.  Những ngày tôi nhịn ăn, các vị thần cùng nhịn như tôi.  Hằng ngày, tôi đọc Kinh Coran cho họ nghe và thuyết giảng giáo lý cho họ.  Dần dần tôi gây được lòng kính trọng của mọi thần, tôi có uy tín đến mức chẳng bao giờ họ làm việc gì không tham khảo ý kiến của tôi.  Tất cả đều kính trọng các fatua (quyết định của giới tu sĩ. ND) tôi ban ra.
Một đêm, tôi nằm mơ thấy mình đang ở trong vườn thiêng razua  ở thánh địa Mêđin, chợt nàng Canzat bước vào vườn.  Bộ dạng nàng như người sắp chết đến nơi.  Nàng tiến đến bên lăng mộ của đấng tiên tri và cất lời cầu nguyện như sau:
“Hỡi Đấng tiên tri Mahômêt!  Vì Người, con đã từ bỏ ma giáo của con để quy theo đạo của Người.  Xin Người hãy rủ lòng thương một nữ tín đồ vốn thực hành đầy đủ mọi lời người răn dạy.  Xin Người hãy trả về cho con người chồng của con, con không sao chịu đựng sự thiếu vắng quá lâu ngày của chàng.  Xin Người hãy cho chồng con được trở về Basra để bảo vệ trái tim người vợ đã hiến dâng trọn vẹn cho chàng, và đang bị một kẻ tình địch rắp tâm chiếm đoạt.”
Những lời cầu nguyện ấy làm tôi choàng tỉnh giấc, lòng vô cùng băn khoăn.  Tôi cảm thấy ở giấc mơ này một điềm chẳng lành.  Tôi hình dung vợ tôi đang chống chọi trước một âm mưu buộc nàng phải mất tiết hạnh.  Tôi không sao dứt khỏi đầu óc ý nghĩ ám ảnh ấy, và tự nhiên trở nên buồn rầu không thể nào tả xiết.  Nhà vua các thần linh nhận thấy nỗi buồn lộ trên vẻ mặt tôi, liền hỏi:
“Ngài giáo chủ, ngài có việc gì không vui?  Từ nhiều ngày nay, ta nhìn thấy đôi mắt ngài đầy vẻ u sầu.  Phải chăng ngài buồn chán phải ở lâu chốn này?”
“Tâu đức vua vĩ đại,” tôi đáp, “tôi chịu ân huệ quá sâu của ngài.  Tôi quá quý tình thân hữu các vị hảo thần tín đồ Hồi giáo dành cho tôi.  Tôi không đến nỗi bất nghĩa để xin từ biệt ngài cùng các vị thần linh ấy.  Nhưng tôi không dám giấu giếm ngài một nguyên nhân khác khiến cho cuộc sống của tôi không được bình yên.”
Tôi thuật lại nhà vua nghe giấc mơ, và thú thật đấy là nguyên nhân đích thực khiến tôi luôn ưu phiền.  Nhà vua đáp:
“Ta làm  sao nỡ chê trách ngài về việc ngài có được một phu nhân ngài hằng quý yêu, hằng tưởng nhớ, hằng ước mong gần gũi.  Ngài có biết từ đây về thành phố Basra quê hương của ngài mất bao nhiêu thời gian đi đường không?  Chín mươi năm trời ròng rã, xin ngài hiểu cho.  Nhưng Thượng đế đã cho phép chúng ta đủ phép thần thông coi những xứ sở xa xôi nhất cũng trở nên gần gũi.  Bởi vậy, cho dù vô cùng xa ngái, ta sẽ giao cho một thần linh nhiệm vụ đưa ngài trở về thành phố sinh quán của ngài, và rồi ngài sẽ được nhìn thấy tận mắt trên thực tế nàng Canzat ngài đã nhìn thấy trong giấc mơ.”
Nói xong, nhà vua cầm tay dắt tôi đến bên bờ một biển, nước biển màu đỏ rực, chỉ cho tôi nhìn thấy một hòn đảo ngoài khơi, và hỏi:
“Ngài có nhìn rõ hòn đảo, trên đó có một ngọn núi đá đỉnh cao chạm tới mây xanh?”
Tâu bệ hạ, tôi có nhìn thấy.Tôi đáp.
Ngọn núi cao giống hệt một pháo đài ấy, rỗng ở bên trong.  Đó là nơi giam cầm các thần linh theo tà giáo sa vào tay ta, hoặc những kẻ nào không chịu khuất phục ý chí của ta.
Vua nhấc bổng tôi và bay đến hòn đảo ấy.  Đến chân núi thấy một cửa dày bằng thép khóa chặc.  Vua ra lệnh mở cửa.  Tôi theo vua bước vào trong, nhìn hấy vô vàn hung thần đang bị xiềng bằng xích sắt, trong đó tôi nhận ra có cả tên từng bắt tôi làm nô lệ cho nó.
Trong số tù nhân, có một hung thần tà giáo hết sức cao lớn, bộ mặt xấu xí khủng khiếp.  Y không mang xiềng sắt như những hung thần khác.  Tay chân y bị những chiếc vòng thép níu chặt vào vách đá, khiến y không thể cử động chút nào.  Nhà vua thần linh hỏi y:
Tên khốn kiếp, mày có nhớ mày đội ơn tao bao nhiêu lần không?
Tâu đức vua vĩ đại,”hung thần đáp, tôi không quên tôi đội ơn ngài nhiều lần lắm lắm.  Tôi một nghìn lần đáng xử tội thật nặng nề thật đau đớn, thế nhưng ngài đều ân xá cho tôi.
“Vậy lúc này đây, ta sẵn sàng cho mày được tự do lần nữa,” nhà vua nói.
“Tâu bệ hạ, phúc đức của bệ hạ lần này không phải là lần đầu.  Ngài đã nhiều lần cho kẻ này được tự do.”
“Giờ ta cho mày được tự do lần nữa,” nhà vua nói, “nhưng với điều kiện.  Trước hết mày phải quy theo đạo Hồi, hai nữa, mày đưa vị tín đồ Hồi giáo này đến thành phố Basra.  Ta muốn mày làm việc ấy trong thời gian ngắn nhất.” 
“Tâu bệ hạ, tôi sẽ đưa vị ấy đến tận nơi nội trong ba tiếng đồng hồ,” hung thần đáp, “và tôi xin hứa sẽ nhất nhất tuân thủ mọi mệnh lệnh bệ hạ truyền.” 
Nhà vua quay lại nói với tôi: 
“Ngài cần luôn luôn ghi nhớ trong lòng: hung thần này là một tên độc ác, xảo quyệt, phản trắc, đểu cáng.  Ta không dám tin vào các lời hứa hẹn của nó.  Ta lại sợ rồi đây nó sẽ dở trò ra với ngài.  Bởi vậy, ta truyền cho ngài một câu thần chú, khi ngài cưỡi trên lưng lão hung thần ấy, ngài phải luôn miệng niệm thần chú, ngài có thể tin chắc nó không dám dở trò gì ra hãm hại ngài.” 
Nói đến đây, nhà vua hạ giọng truyền cho tôi câu thần chú. 
Sau khi tôi thuộc lòng câu thần chú, nhà vua ra lệnh tháo các vòng thép cho tên hung thần.  Rồi tự tay nhà vua thần linh đặt tôi lên lưng nó, sau khi đã lấy vải bịt mắt tôi, bảo như vậy cho tôi đỡ sợ hãi khi sẽ nhìn thấy những gì trên đường đi.  Tiếp đó, vua dặn dò tôi như sau: 
“Abunphauari, để ngài đền đáp những việc tôi đã làm cho ngài, tôi chỉ yêu cầu ngài có một việc.  Sau khi đã gặp gỡ gia đình ngài ở thành phố Basra, nhờ ngài nhân danh ta đến yết kiến Đấng Thống lĩnh các tín đồ, hoàng đế Oma và Aly Ben Aly Talep, con rể của đức Mahômêt.  Ngài hãy trình với các vị ấy, dưới âm ti cũng có một quốc gia gồm các tín đồ Hồi giáo.  Họ không bao giờ quên không đọc kinh bismila trước mỗi bữa ăn, không quên làm lễ tắm gội cũng như đọc các kinh khác của mọi tín đồ; và họ đang ngày đêm chiến đấu chống lại các hung thần vốn bài xích đạo Hồi.”
Tôi thề sẽ thực hiện đầy đủ việc nhà vua thần linh yêu
cầu. Rồi tôi ra khỏi cái hang đá, chễm chệ trên lưng lão hung thần. Nhà vua gọi với dặn dò:
- Này chàng trai trẻ, chàng đừng chớ quên niệm câu thần chú. Tên hung thần này chỉ chịu phục chàng khi chàng niệm câu thần chú, nếu chàng quên không thực hiện lời ta dặn, thì ngài khắc gặp nguy cơ phải bỏ mình.
  NGÀY THỨ MỘT TRĂM TÁM MƯƠI TƯ.
 
Nhà vua thần linh dặn đi dặn lại tôi điều ấy không phải không có lý do. Chẳng bao lâu tôi đã nhận ra hệ quả. Khi tôi vừa ngừng câu niện thần thú trong chốc lát, tên hung thần liền gào lên những tiếng khủng khiếp, khi tôi niệm chú lão im ngày. Tôi nhận thấy hung thần khi khi bốc lên cao khi thì sà xuống thấp, miệng lầu bầu thốt ra những điều kinh khủng, tưởng như vậy sẽ làm cho tôi sợ hoặc ngã lộn nhào. Nhưng mặc cho lão làm gì thì làm, tôi vẫn ngồi vững chãi trên lưng lão.
Tuy nhiên dù luôn để tâm vào việc niệm thần chú nhằm đảm bảo an toàn cho mình, tôi vẫn không thể tự ngăn mình chú ý đến một mớ lời lẽ hỗn độn phát ra từ trên không trung. Hơn thế, tôi còn tháo tấm khăn bịt mắt để thỏa mãm tính hiếu kỳ. Nhìn thấy rất nhiều thần linh, mỗi vị mang một dáng vẻ đặc biệt, đánh nhau loạn xạ giữa trời. Mải nghe tiếng họ thét, mãi xem các đón họ choảng nhau, tôi quên không niệm chú, lão hung lợi dụng cơ hội ấy, hắt tung tôi xuống biển rồi xông vào tham gia cuộc chiến bát nháo với các thần linh kia.
May lúc ấy rơi gần bờ, và vốn giỏi bơi lội, tôi vào được trong đất liền. Tôi hôm vào mặt đất ở đấy nhiều lần, hết lòng tạ ơn trời đất đã cứu nạn cho. Tuy nhiên, nếu được cái vui không phải bỏ mạng trong sóng dữ, thì lại phải chịu cảnh một thân một mình giữa sa mạc; và đau đớn hơn tất thảy mọi điều, là không bao giờ con có hy vọng gặp lại người vợ thân yêu cùng quê  hương xứ sở.
Trong khi đang âu sầu như vậy, tôi bắt đầu oán trách vị cố tể tướng của đại đế Xalomon, có lẽ tại những tấm thiếp của ông nên mình lâm vào cảnh ngộ này. Bỗng nhìn thấy từ ngoài biển một con chim nhỏ đang bay về phía tôi. Tôi chưa bao giờ thấy một con chim kì là như thế này: đầu máu xanh lam, đôi mắt đỏ, đôi cánh vàng và cái đuôi màu là cây. Con chim sải cánh bay đến tận miệng tôi, và ghe mỏ xinh xinh của nó nhả vào mồm tôi một thứ nước mát rượi và ngọt ngào. Tiếp đó con chim nói với tôi:
- Hỡi chàng tín đồ trẻ tuổi, chớ nên nản chí. Chàng được chọn để nêu gương cho nhưng người cùng theo đạo với chàng. Chàng phải sống để sau này còn kể lại cho họ nghe câu chuyện phiêu lưu của chàng để mọn người lấy đó làm bài học.
- Hỡi chim con xinh xắn,- tôi ngạc nhiên thốt lên- hỡi chim con xinh xắn mang lại điều tốt lành, làm sao biết nói tiếng như người?
- Tôi là con chim của đấng tiên tri Isaac(1) [Isaac: Một vị giáo trưởng trong Kinh Thánh. Ismeal cũng là nhân vật trong Kinh Thánh tưởng truyền ông là tổ tiên của người Arập Béđuin(PQ).]
; tôi được trao sứ mệnh trông nom vùng biển này hòng cứu giúp những người lâm nạn, đặc biệt các tín đồ Hồi giáo. Bởi vậy, xin ngài chớ nên phiền não, xin tự khuây nguôi, xin hãy tin chắc Đấng tối cao vào giờ phán xét bao giờ cũng có tính đến những trần luân mà người trần thế trung hậu phải chịu đựng trong cuộc sống của mình.
Sau khi nói xong nhưng lời ấy, con chim chỉ đường cho tôi quả quyết rằng cứ theo đường ấy đi tiếp chẳng lo gặp phải những rùi ro.
Tôi cứ theo đường chim chỉ mà đi. Điều kỳ diệu hơn cả là tôi đi ròng rã bốm mươi ngày trời không cần ăn không cần uống; hẳn nhờ có nước thần com chim nhả vào mồm giúp cho tôi không cảm thấy đói khát. Cuối cùng, tới đặt chân một ngọn núi nắm chính giữa sa mạc. Leo lên tận đỉnh, tôi nhìn thấy ở đây có một tòa lâu đài khá đẹp xây bằng đá hộc. Tòa lâu đài tuyệt nhiên không có cửa sổ, chỉ có môt cái cổng bằng đồng, lại bị khóa chặt.
Tôi ngồi xuống nghỉ hóng mát cách cánh cổng chứng hai bước chân, chợt tai tôi nghe một gióng nói ồm ồm:
- Này con người trần thế kia, anh tới đây lúc này thật đúng lúc cho anh và cả cho tôi đấy.
Tôi quay mình về phía có giọng nói, thấy một hung thần ma giáo đang nằm trên mặt đất. Tên này còn cao lớn hơn, di dạng hơn tên hung thần phản trắc đã hắt tôi xuống biển. Nó có một cái vòi dài tựa vòi voi, mắt phải đỏ như lửa, trong phi mắt trái xanh lè. Nó nói tiếp:
- Hãy đến bên cạnh ta và chớ nên sợ hại.
Tôi phải vận dụng tất cả can đảm trong người để không co giò chạy trốn trước con quỷ sử khủng khiếp. Tuy nhiên, cho dù bộ mặt của nó đáng tớm, tôi vẫn đủ bình tĩnh bước tời gần và nằm xuống bên cạnh. Nó tỏ vẻ mừng rỡ. Nó hỏi tôi:
- Này chàng trai kia, anh theo đạo nào?
- Đạo của đấng tiên tri Mahômêt- tôi đáp.
- Càng tốt- nó nói tiếp- Ta đang cần một người đúng như anh. Ta đanh tính toán một công trình rất lớn ta không thể thực hiện một minh. Với sự cộng tác của anh, hy vọng có thể thành đạt. Anh có thể tin chắc, nếu ta đạt được điều ước mong, ta sẽ ban cho anh vô vàn quang vinh và của cải. Khi ta đã làm bá chủ tất cả mọi vương quốc trên trần gian, để tỏ lòng cảm ơn, ta sẽ làm cho anh một nước để làm vua.
- Tôi đồng ý giúp ông,- tôi đáp.- Tôi không đòi hỏi phải có một nước để làm vua, tất cả những gì tôi đòi hỏi, là nhờ ông sau khi đấy đưa tôi về thành phố Basra. Ông có hứa với tôi vậy không?
- Nhất trí- hung thần đáp.- Ta xin thề trước tất cả những gì thiêng liêng nhất của đạo giáo ta:
- Vậy giờ đây ông chi cần bảo trước cho ta biết càn phải làm những gì, tôi sẽ cố gắng thực hiện sao cho tốt nhất,- tôi bảo lão.