Dịch giả: Phan Quang
Chương 12 (B)
NGÀY 84, 85, 86, 87, 88

  NGÀY THỨ TÁM MƯƠI TƯ.
Giờ đây tôi không sống chạy theo lạc thú và phóng túng như ngày trước nữa, tôi quyết định nối nghiệp cha làm nghề buôn kim hoàn. Tôi cũng có ít nhiều hiểu biết về ngọc ngà châu báu, tin rằng mình có thể làm ăn thành đạt. Tôi tìm liên kết với hai thương nhân cũng chuyên nghề buôn kim hoàn ở thành phố Batđa. Hai người này xưa kia từng là bạn của thân sinh tôi. Họ đang chuẩn bị một chuyến đi buôn xa về mãi thành phố Ormut. Ba chúng tôi cùng nhau về thành phố cảng Basra. đấy, chúng tôi chung vốn mua một con tàu rồi lên đường tính chuyện sẽ cập bến ớ cái vịnh cũng mang tên Ormut.
Ba chúng tôi làm ăn rất hợp ý nhau. Con tàu gặp cơn gió thuận nhẹ nhàng lướt sóng. Chúng tôi sống những ngày thích thú trên tàu. Tàu sắp cập bến đúng như mong ước. Lúc này tôi mới nhận ra hai người bạn tôi liên kết không phải là những con người làm ăn đứng đắn như tôi hằng tưởng. Tàu sắp đến gần cái mũi ở đầu vịnh và chuẩn bị cập bến đất liền, điều làm cho mọi người trên tàu rất đỗi vui mừng. Trong niềm vui, chúng tôi không nề hà uống nhiều rượu ngon đã mua trừ sẵn trước khi rời bến cảng Basra. Hơi quá chén, tôi mặc nguyên cả áo quần và ngủ thiếp đi giữa đêm khuya trên chiếc sập.
Trong khi tôi đang thiêm thiếp giấc nồng, thì hai ông bạn liên kết mỗi người túm lấy một tay tôi, ném tung người tôi xuống biển cả qua một cửa sổ nhỏ của khoang tàu. Đáng ra tôi đã bỏ mình giữa biển cả. Cho đến lúc này, tôi vẫn không hiểu vì sao tôi sống sót sau chuyện không may ấy, vì hôm ấy biển động, gió lớn, sóng to. Dường như trời ngăn các ngọn sóng lớn không cho nhấn chìm tôi xuống đáy biển, lại hắt tôi lên mặt đất ở chân một ngọn núi phía bên kia mũi đất nhô ra ngoài vịnh. Tôi dạt lên bờ, người không hề bị thương tích. Tôi nghỉ qua đêm ở đấy và tạ ơn thượng đế đã giải thoát cho khỏi cái chết, ơn tái sinh tôi không bao giờ hết ngợi ca.
Khi trời rạng sáng, tôi vất vả lắm mới leo lên được đỉnh núi, vì sườn núi chỗ này rất hiểm trở. Tôi gặp nhiều người nông dân ở các vùng lân cận, họ đang đến đây khai thác pha lê mang về bán ở thành phố Ormut. Tôi thuật lại cho họ nghe tôi vừa trải qua một tai nạn suýt nữa mất mạng. Họ cũng như tôi đều cho tôi thoát chết là nhờ có chuyện thần kỳ. Những con người tốt bụng ấy thương hại thân phận của tôi, họ chia cho tôi một phần lương thực họ mang theo, gồm cơm nắm trộn lẫn hạt kê. Sau khi khai thác đủ số pha lê cần thiết, họ dẫn tôi cho cùng theo về Ormut, một thành phố lớn.
Tôi tìm đến trọ tại một nhà dành cho du khách lưu trú. Người đầu tiên tôi gặp là một trong hai người bạn thương nhân đã liên kết với mình.
Anh chàng ấy có vẻ ngạc nhiên thấy một người y đã ngỡ làm mồi cho cá rồi bỗng nhiên xuất hiện. Y vội chạy đi tìm người bạn kia bàn bạc cách làm hại tôi. Tôi thấy hai chúng nó thì thầm với nhau, rồi chúng cứ' thản nhiên đi vào cái sân nơi tôi đang đứng, phớt lờ làm ra vẻ chẳng biết tôi là ai. Tôi liền bảo chúng:
- Bọn tráo trở kia! Trời không cho các người phản trắc thành công đâu. Cho dù các người dã man đến thế ta vẫn còn sống đây. Các người hãy ngay lập tức giao lại số châu báu của ta cho ta, ta chẳng muốn làm ăn chung với những con người xấu xa độc ác như các người nữa.
Câu nói của tôi không làm chúng bối rối chút nào, ngược lại chúng còn dám cất lời la lớn:
- Thằng kẻ cướp? Thằng khốn nạn! Mày là ai, mày từ đâu đến? Mày nói đến số ngọc ngà đồ đạc nào thuộc sở hữu của mày?
Vừa nói chúng vừa vác gậy phang tôi. Tôi doạ sẽ đến kêu quan chánh án. Nhưng chúng nó đi trước nước cờ của tôi, khi tôi chưa kịp đến toà án. Sau khi chào lạy rất trọng thị, rồi dâng quan chánh án một số viên ngọc chúng mang theo người, có thể đấy là những viên ngọc của chính tôi, chúng thưa với quan chánh án:
- Thưa quan lớn, ngài là đuốc sáng của sự công bằng, ánh sáng của ngài từ trước tới nay vẫn xua đi bóng đen những lời dối trá. Chúng tôi đến đây cầu van sự cứu giúp ở cửa quan. Chúng tôi là những người nước ngoài không nơi nương tựa. Chúng tôi đến từ một xứ rất xa xôi đến đây buôn bán, có lẽ công bằng nào cho phép một tên ăn cướp thoá mạ chúng tôi? Lẽ nào quan lớn cho phép nó được cướp đoạt bằng lời dối trá số của cải mà chúng tôi đã tích cóp được sau bao nhiêu vất vả nhọc nhằn, thậm chí có khi suýt phải trả giá bằng mạng sống của mình?
Quan chánh án hỏi:
- Các ông muốn phàn nàn về người nào?
- Bẩm quan lớn,- chúng đáp- Chúng tôi đâu có biết nó là ai, chúng tôi chưa bao giờ trông thấy nó.
 Vừa lúc ấy tôi bước chân đến toà án. Vừa trông thấy tôi, hai tên ấy kêu toáng lên:
- Bẩm quan lớn, chính hắn kia. Đích thị hắn là tên khốn nạn, tên trộm cướp bất nhân. Thậm chí hắn còn dám vác mặt đến trước mắt quan lớn. Xin quan chánh án công minh, ngài hãy đoái thương bảo vệ chúng tôi.
Đến lượt mình, tôi tiến đến gần quan chánh án định trình bày. Nhưng bởi tôi không có quà cáp nào lót tay quan, cho nên chẳng có cách nào làm cho vị quan toà ấy chịu lắng nghe. Thái độ bình tĩnh và kiên quyết của tôi càng làm cho viên quan cho rằng tôi hỗn láo. Không buồn nói năng thêm, quan ra lệnh cho mấy tên lính tống giam luôn. Trong khi bọn lính gông cổ tôi lại, lấy xiềng sắt xích chân tôi, thì hai tên buôn liên kết với tôi hớn hở trở về. Chúng tin chắc, lần này hẳn phải có một sự thần kỳ mới, may ra mới có thể giúp tôi thoát khỏi bàn tay quan án.
  NGÀY THỨ TÁM MƯƠI LĂM.
Có lẽ tôi đã không thể nào ra khỏi nhà tù nếu không có một sự kiện xảy ra. Lần này tôi được tai qua nạn khỏi cũng nhờ sự ngẫu nhiên may mắn như lần thoát chết trong vùng vịnh Ormut. Tôi nghĩ đây chắc cũng nhờ trời run rủi để cứu giúp người lành. Những người nông dân đã dẫn tôi về thành phố Ormut, tình cờ hay tin tôi bị tống giam. Đem lòng thương hại, họ cùng nhau đến gặp quan chánh án. Họ thuật lại chuyện đã bắt gặp tôi vừa thoát nạn trên biển như thế nào. Họ kể chi tiết tất cả những gì tôi đã nói cho họ nghe khi gặp nhau trên núi.
Sau khi nghe họ trình bày, viên chánh án sáng mắt ra. ông hối tiếc đã không chịu cho tôi trình bày, và quyết định đi sâu vào vụ việc này. ông sai người đi tìm hai thương nhân trọ tại quán lưu trú. Nhưng chúng không còn ở đấy nữa. Chúng đã vội lên tàu giong buồm ra khơi, biến mất. Mặc dù tôi đã bị quan toà tống giam, chúng vẫn chưa hết lo âu Một sự bỏ đi vội vã như vậy làm quan chánh án tin chắc tôi bị giam giữ bất công. Tôi được trả lại tự do. Và thế là chấm dứt vụ liên kết làm ăn giữa tôi với hai nhà buôn kinh hoàn kia.
Tôi thoát chết ngoài biển, tôi được thả ra khỏi trại giam, đáng ra tôi phải tự cho mình là người vô cùng chịu ơn trời đất Nhưng tình cảnh tôi lúc này có sống cũng chẳng sung sướng gì. Không tiền bạc, không bạn bè, không uy tín, tôi thấy mình đã lâm vào cảnh hoặc phải đi ăn xin hoặc chịu chết đói. Tôi lê chân ra khỏi thành phố Ormut mà chẳng hiểu rồi đây thân phận mình sẽ ra sao. Tôi cứ đưa chân bước về phía đồng cỏ vùng La- đồng cỏ này nằm vào giữa triền núi cao và bờ biển vùng vịnh Ba Tư. Đến cánh đồng, tôi gặp một đoàn lữ hành những thương nhân người Ấn Độ đang chuẩn bị nhổ trại đi tiếp về thành phố Sira. Tôi theo đoàn thương nhân ấy, làm giúp họ những việc lặt vặt dọc đường, nhờ vậy có thể kiếm sống qua ngày. Tôi cùng đoàn về đến thành phố Sira.
Tôi dừng lại ở thành phố này. Hồi bấy giờ đức vua Tamaspơ nước Ba Tư đang đặt kinh đô tại đây.
Một hôm, sau khi cầu nguyện tại đại thánh đường, tôi trở về lại nơi trọ, dọc đường chợt gặp một ông quan của triều đình vua Ba Tư. ông mặc áo quần rất sang trọng, dáng người oai vệ. ông chăm chú nhìn tôi rồi tiến đến gần và hỏi:
- Chàng trai trẻ kia, anh từ nước nào đến? Ta trông anh có vẻ một người nước ngoài, và dường như anh đang không phải là người dư dả lắm.
Tôi đáp tôi từ thành phố Batđa đến. Tình cảnh của tôi hiện nay quả đúng như lời ngài nói. Tiếp đấy tôi kể lại tóm tắt câu chuyện của tôi cho ông nghe. Có vẻ như ông lắng tai chú ý, còn tỏ ra thông cảm với nỗi bất hạnh cửa tôi.
- Anh năm nay bao nhiêu tuổi?- ông hỏi.
- Thưa, tôi mười chín tuổi.- Tôi đáp.
Ông truyền bảo tôi đi theo ông. Rồi ông cất bước, đi thẳng về phía hoàng cung. Tôi vẫn theo ông vào tận trong ấy ông đưa tôi vào một căn hộ khá đẹp và lại hỏi tiếp:
"Tên anh là gì?".Tôi đáp tôi tên là Haxan. ông ta còn hỏi tôi nhiều câu khác nữa, và đều tỏ ra hài lòng về những câu trả lời của tôi. Lúc này ông mới bảo:
- Cậu Haxan à, ta thương cho nỗi không may của cậu ta muốn coi cậu như một đứa con trai ta. Ta là quan chỉ huy các đội hầu cận đức vua nước Ba Tư ta. Hiện nay đang khuyết một chân hầu trong phòng riêng của vua. Ta định chọn cậu vào chân làm công việc ấy. Trông cậu đẹp trai, trẻ tuổi và có giáo dục, ta cho như vậy là được. Hiện chưa tìm được một tên hầu cận nào mặt mũi sáng sủa khôi ngô hơn cậu.
Tôi cảm tạ vị quan chỉ huy các đội hầu cận (Nguyên bản là capi-aga. ) về tấm lòng nhân hậu của ông. ông sai người mang cho tôi một bộ đồng phục người hầu cận. ông dạy tôi cách thực hành nhiệm vụ. Tôi làm bắt chước làm theo một cách tốt đẹp, chẳng bao lâu được cảm tình của viên quản trực tiếp đội của tôi, tức là đội hầu hạ ở phòng riêng nhà vua(zulilzi. Hầu cận mỗi đội có một tên riêng. Tất cả có mười hai đội.).
Theo luật pháp ở đây, cấm tất cả những người hầu cận mười hai phòng trong cung . của vua, cũng như cấm tất cả các võ quan và lính tráng thuộc đội cấm vệ trong cung, ban đêm sau một giờ đã định, không được lai vãng trong các vườn ngư uyển. Ai không tuân sẽ bị tội chết, bởi thỉnh thoảng các bà hoàng hậu và công chúa dạo chơi trong vườn. Một đêm, tôi thơ thẩn trong vườn một mình, mải mê suy nghĩ về những nỗi bất hạnh của cuộc đời. Chắc quá chìm đắm trong trầm tư, tôi không để ý đã qua giờ quy định buộc đàn ông phải ra hết khỏi vườn. Bừng tỉnh, tôi giật mình nghĩ lúc này còn có thể kịp ra khỏi vườn, tôi vội vã quay trở về nơi ở của mình, chợt gặp một phu nhân xuất hiện đột ngột trước mặt tôi ở một khúc đường rẽ. Phu nhân có vẻ duyên dáng và đường bệ, mặc dù đêm tối tôi vẫn có thể nhận ra nàng còn trẻ và rất xinh. Nàng hỏi tôi:
- Cậu đi nhanh thế. Có việc gì buộc cậu phải chạy vội chạy vàng như vậy?
- Tôi có lý do để vội vàng,- tôi đáp.- Nếu bà là người trong hoàng cung, hẳn bà phải biết tại sao tôi hối hả. Hẳn bà hẳn rõ cấm đàn ông có mặt trong các khu vườn ngư uyển ban đêm, sau một giờ nào đó, ai trái lệnh phải tội chết.
- Bây giờ thì cũng hơi quá chậm cho anh kịp ra khỏi vườn rồi đấy,- người phụ nữ ấy lại nói- giờ quy định qua đã lâu rồi. Nhưng anh hãy cảm ơn ngôi sao chiếu mệnh anh, nếu không anh đã không may mắn được gặp ta.
- Khốn khổ thân tôi!- Tôi kêu lên không quan tâm đến bất kỳ điều gì khác hơn lo sợ mình mất mạng.- Tại sao tôi lại lãng quên giờ giấc, để đến nỗi muộn màng thế này?
- Anh chớ có buồn,- người đàn bà ấy lại nói.- Anh buồn rầu là xúc phạm đến ta đấy. Anh không thấy được gặp ta đủ là niềm an ủi cho điều bất hạnh của anh rồi sao? Anh hãy nhìn kỹ ta đây, ta đâu phải là người không xinh đẹp, ta mới mười tám tuổi, và về khuôn mặt thì ta tự cho mình cũng dễ coi.
- Thưa phu nhân xinh đẹp,- tôi đáp- cho dù đêm tối, mắt tôi không nhìn được tường tận mọi vẻ đẹp của bà, tôi vẫn thấy những nét duyên dáng làm tôi say mê. Nhưng, xin bà hãy đặt mình vào tình cảnh của tôi lúc này, bà hẳn thấy tình cảnh ấy lúc này cũng đáng buồn lắm chứ.
Tôi không quen làm công việc tu hành như  các anh – tôi đáp – tôi e rồi chẳng đâu vào đâu.
Anh quá lo xa – anh chàng ngắt lời tôi, và nói tiếp – chẳng có khó khăn gì việc tu hành của chúng tôi. Như tôi vừa nói, cánh này chẳng phải những bậc fakia thật sự, tóm lại, chúng tôi chỉ ăn vận áo quần của fakia thôi.
Cho dù anh chàng fakia ấy như đã hứa, giới thiệu với tôi y và hai anh đồng nghiệp y đều sống phóng đãng, tôi vẫn không từ chối kết bạn với họ. Trước hết bởi tôi đang trong tình cảnh thảm thương, hơn nữa, khi còn làm việc hầu cận cho nhà vua, cũng chẳng ai ngăn cấm tôi trong việc kết giao bè bạn. Tôi vừa ngỏ lời tôi chấp nhận điều anh gợi ý, anh chàng fakia dẫn tôi đi luôn về Bost, dọc đường vừa đi vừa xin ăn. Mỗi khi chúng tôi đi qua các thị trấn và làng mạc, dân chúng tự mang ra cho nào quả chà là, nào cơm bánh cùng nhiều loại thức ăn khác nữa. Hễ bắt đầu nghe tiếng lục lạc những người fakia rung lên cùng với tiếng ngỏ lời xin chúng sinh làm phúc, thì những người ngoan đạo vội mang nhiều thức ăn đến dâng các thầy.
Bằng cách kiếm sống ấy, chúng tôi ung dung tới được thành phố Bost. Hai chúng tôi đến một ngôi nhà nhỏ ở ngoại ô, ở đấy đã có hai anh chàng fakia kia đang ở. Họ rộng mở đôi tay nồng nhiệt đón chúng tôi, ai nấy tỏ ra thích thú về việc tôi quyết định sẽ chia xẻ lối sống cùng với họ. Họ bắt đầu dạy tôi vài đường  về các bí quyết của họ, nghĩa là cách làm bộ làm tịch sao cho người ta kính trọng và thương hại. Khi tôi đã thành thạo trong nghệ thuật lừa dối dân chúng, họ cho tôi mặc trang phục y như họ, và ép tôi đi vào các phố đưa những bông hoa hoặc cành lá tươi tặng những người trung hậu, rồi đọc đôi vần thơ và xin của làm phúc. Lần nào, sau mỗi ngày trở về ngôi nhà chung tôi cũng có ít nhiều đồng bạc, nhờ vậy chúng tôi vẫn có thứ chè chén ngon lành.
Hồi ấy tôi còn quá trẻ, và bản chất tôi vốn thích chè chén vui chơi, tôi không có cách nào ngăn mình không làm theo gương xấu của những anh chàng fakia ấy, và thế là bất giác dần dần tôi quên đi hình ảnh nàng công chúa nước Ba Tư. Thật ra thỉnh thoảng hình ảnh của nàng cũng có hiện lên trong đầu óc tôi, khiến tôi buông ra đôi tiếng thở dài. Nhưng đã không nuo6i dưỡng những ký ức buồn thương ấy, tôi lại còn tìm cách huỷ hoại chúng đi. Thỉnh thoảng tôi tự bảo mình “Tại sao cứ nghĩ đến Zêlica, trong khi Zêlica không còn nữa? Cho dù ta có than khóc nàng suốt đời, thì những lời than khóc của ta phỏng được ích gì?”
  NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI MỐT.
Haxan à, tớ bắt đầu chán cái thành phố này, tớ đang muốn rong ruổi khắp đất nước. Tớ nghe nói ở thành phố Canđaha có nhiều điều thú vị lắm. Nếu cậu thích thì hẵng đi cùng tớ, rồi chúng ta sẽ tự mắt thấy người ta đồn đại có đúng hay không.
Tôi đồng ý, phần bởi tò mò muốn được nhìn những xứ sở mới, hay nói cho đúng hơn, có lẽ bởi tôi bị lôi cuốn bởi một sức mạnh thần bí nào đấy vẫn xui khiến chúng ta làm mọi việc trên đời.
Vậy là hai chúng tôi giã từ thành phố Bost và lên đường. Sau khi đi qua nhiều thành phố và thị trấn thuộc nước Segestan mà không dừng lại, cuối cùng tôi đến được thành phố Canđaha đẹp đẽ, chung quanh bao bọc bởi những tường thành rất vững chắc. Chúng tôi vào trọ tại một nhà dàng cho khách lưu trú. Mọi người đón tiếp chúng tôi khá thân hậu, nhờ ở bộ áo quần chúng tôi mặc, đấy là tất cả những thứ làm cho chúng tôi trở thành người sáng giá.
Khi vừa đến nơi, chúng tôi thấy quang cảnh dân chúng thành phố đang rất nhộn nhịp, bởi vì ngày hôm sau sè là dịp khánh chúc kỷ niệm ngày nhà vua đăng quang. Chúng tôi cũng được biết ngay mọi người trong triều đình thời gian này cũng hết sức bận rộn. Các vị đại thần ai cũng muốn bày tỏ lòng nhiệt thành của mình đối với quốc vương Firousat, mà mọi người đều tôn quý bởi sự anh minh của người, hơn là sợ hãi trước luật pháp khắt khe ngài trị nước.
Với bộ trang phục fakia thì đi đến đâu chẳng được, chẳng ai ngăn cấm các fakia bao giờ. Ngày hôm sau hai chúng tôi vào tận trong triều đình để xem hội. Quả thực, ai chưa từng xem hội mừng ngày đăng quang của nhà vua Ba Tư thì thật đáng nên xem lắm. Trong khi hai chúng tôi mải mê nhìn cảnh hội hè, tôi thấy có người kéo cánh tay, tôi quay lại, thấy bên cạnh viên hoạn nô trước đây phục vụ trong cung quốc vương Tamaspơ, người từng trao cho tôi mảnh giấy của nàng Calê Cairi, đúng hơn là của công chúa Zêlica. Y bảo tôi:
Thưa ngài Haxan, tôi vẫn nhận ra ngài cho dù ngài đang vận bộ quần áo kỳ cục này. Cho dù tôi nghĩ chắc không thể nhầm, tôi vẫn không tin được ở mắt mình. Có lẽ nào tôi lại gặp ngài nơi đây?
Còn anh – tôi đáp – anh làm gì ở thành phố Canđaha này? Tại sao anh giã từ triều đình nước Ba Tư? Có phải việc công chúa Zêlica qua đời khiến anh cũng xa rời thành phố ấy giống như tôi?
Lúc này đây tôi không thể nào trả lời ngài điều đó – anh ta đáp – nhưng nếu ngày mai ngài lại có mặt chỉ mình thôi ở đúng chỗ này tôi sẽ thoả mãn sự hiếu kỳ của ngài. Tôi sẽ cho ngài biết những điều làm cho ngài vô cùng kinh ngạc. Vả chăng tôi muốn báo trước, những chuyện ấy đều liên quan đến ngài đấy.
Tôi hứa với anh ta ngày hôm sau tôi sẽ có mặt đúng chỗ này, và tôi giữ đúng lời. Viên hoạn nô lại xuất hiện, đến gần và bảo nhỏ:
Chúng ta hãy đi ra ngoài hoàng cung, tìm một nơi thuận tiện hơn để chuyện trò.
Chúng tôi vào thành phố, đi qua nhiều đường, cuối cùng dừng lại trước cổng một ngôi nhà khá lớn mà an hta có chìa khóa cổng. Vào bên trong, tôi thấy các phòng đều được bày biện đồ đạc khá sang, có những tấm thảm đẹp trải sàn, nhiều chiếc sập trang trọng. Sau nhà là một khu vườn cây cối um tùm, chính giữa vườn có một cái bẻ chứa đầy nước trong veo, thành bể xây bằng đá vân thạch. Viên họan nô hỏi tôi:
Thưa ngài Haxan, ngài thấy ngôi nhà này sống được chứ?
Được lắm – tôi đáp.
Như vậy tôi rất hài lòng – viên hoạn nô lại nói – bởi vì chính tôi hôm qua đã tìm thuê ngôi nhà này cho ngài đấy. Giờ cần có thêm vài tên nô lệ để hầu hạ ngài. Trong khi ngài đi tắm nước nóng, tôi sẽ ra chợ tìm mua mấy đứa.
Vừa nói anh ta vừa dẫn tôi đến một căn phòng, ở đấy đã chuẩn bị bồn tắm. Tôi nói:
Nhân danh Thượng Đế, anh hãy nói cho ta hay tại sao anh dẫn ta đến ngôi nhà này, và có những điều gì anh định cho ta rõ.
Rồi có người sẽ nói hết cho ngài nghe đúng nơi đúng lúc – anh ta đáp – Lúc này ngài chỉ cần biết số phận ngài đã thay đổi hẳn rồi, kể từ ngày ngài gặp tôi. Tôi được lệhh phải xử sự như ngài vừa trông thấy đấy.
Cùng lúc ấy viên hoạn quan giúp tôi cởi bỏ trang phục. Khi tôi vào buồng tắm, viên hoạn nô xin tôi chớ nên sốt ruột đi ra khỏi nhà.
Điều bí ẩn này khiến tôi suy nghĩ rất lung. Nhưng có vật đầu vật óc tự làm mệt mình đến bao nhiêu đi nữa cũng vô ích thôi. Viên hoạn quan ấy – tên là Sapua – để tôi nằm khá lâu trong bôn bước. Tôi đã bắt đầu mất hết kiên nhẫn thì anh ta trở lại theo sau có bốn tên nô lệ. Hai tên mang theo áo quần và các loại khăn, còn hai tên khác thì đủ thứ thức ăn nước uống. Viên hoạn nô nói:
Xin ngài thứ lỗi, tôi tự trách mình để ngài chờ đợi quá lâu.
Mấy người nô lệ đặt các gói đồ của họ lên trên chiếc sập rồi vội vã hầu hạ tôi. Họ dùng những chiếc khăn vải mịn màng và mới toanh, lau khô người và xoa bóp cho tôi, sau đó mặc cho tôi một chiếc áo ngắn sang trọng, một chiếc áo dài lộng lẫy cùng một cái khăn đội đầu. Tôi tự hỏi “Những chuyện này rồi sẽ dẫn ta đi đến đâu nhỉ? Viên hoạn nô này đối xử với ta như vậy theo lệnh của ai?” Tôi vô cùng sốt ruột được hiểu rõ tất cả mọi điều, không làm sao chịu nổi nữa.
  NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI HAI.
Sapua nhận ra điều đó. Y nói:
Tôi rất tiếc thấy ngài đang hết sức băn khoăn, nhưng tôi không thể nào giúp ngài giảm nhẹ nỗi băn khoăn ấy. Nếu giả sử tôi không được lệnh tuyệt đối không nói ra bất cứ điều gì, giả sử tôi được quyền tuâng theo ý muốn của ngài mà nói ra lúc này thì cũng chẳng làm cho ngài thanh thản hơn. Ngược lại, có khi ngài lại còn thêm nôn nóng. Xin gắng chờ đến tối hôm nay, ngài sẽ biết rõ tất cả những gì ngài muốn biết.
Cho dù qua lời nói của viên hoạn nô, tôi thấy đây là một điềm lành, suốt cả ngày hôm ấy tôi vẫn ở trong một tâm trạng nôn nao khó chịu. Hoá ra chờ đợi một điều không hay sắp xảy đến, ít làm cho chúng ta đau khổ hơn chờ đợi một nỗi vui sắp thành hiện thực. Đến tối, đèn nến được đốt lên. Người ta chú ý đặc biệt chiếu thật sáng căn phòng đẹp nhất trong nhà. Tôi ngồi chờ ở đấy cùng với Sapua. Để làm dịu bớt nỗi phấp phỏng của tôi, thỉnh thoảng anh ta bảo: “Xin ngài kiên nhẫn cho chút nữa, lát nữa thôi, có người sắp đến rồi đấy”. Cuối cùng có tiếng gõ cửa. Viên hoạn nô thân hành ra mở cửa, và quay trở vào cùng với một người phụ nữ. Người ấy vừa cất tấm mạng che mặt, tôi nhận ra ngay nàng Calê Cairi. Tôi kinh ngạc đến cùng cực, bởi tôi vẫn ngỡ nàng lúc này đang ở kinh đô Siara. Nàng nói với tôi:
Thưa ngài Haxan, ngài ngạc nhiên lắm khi nhìn thấy em, nhưng ngài sẽ còn ngạc nhiên nhiều hơn nữa sau khi ngài nghe những điều em sắp kể.
Viên hoạn nô Sapua cùng  với hai người giúp việc đi ra khỏi phòng, để lại mình tôi với nàng Calê Cairi. Chúng tôi ngồi lên cùng một chiếc sập. Và nàng bắt đầu kể với tôi như sau:
Hẳn ngài còn nhớ, thưa ngài Haxan, cái đêm hôm khi công chúa Zêlica bày tỏ tâm sự với ngài. Lúc chia tay công chúa nói, xin ngài hãy nhớ nàng có lời hứa. Sáng hôm sau, em hỏi công chúa nàng định tính sao, khi ngỏ lời hứa chắc như đinh đóng cột với ngài. Công chúa đáp nàng muốn làm sao cho ngài được hạnh phúc. Nàng muốn rồi đây sẽ có nhiều buổi gặp gỡ trò chuyện riêng với ngài không để cho ai biết. cho dù phải trải qua nhiều hiểm nguy. Hôm nay em không muốn dối ngài, ngay hôm ấy em đã không đồng tình với công chúa. Em đã tìm đủ mọi cách để nàng công chúa kiềm chế những hành động thái quá. Em thưa với nàng, thật kỳ cục sao một công chúa địa vị cao sang như nàng lại nghĩ tới chuyện dấn thân vào hiểm nghèo, thậm chí có thể vì thế mà mất mạng, chỉ vì một viên hầu cận.  Tóm lại, em tìm mọi cách để công chúa chấm dứt tình yêu bột phát đối với ngài.  Mong ngài tha thứ cho em. Tất cả mọi lý lẽ ccem nêu lên chỉ càng làm mạnh hơn nỗi đam mê của công chúa. Khi thấy không thể nào thuyết phục công chúa nghe lời mình, em liền hiến kế như sau:
Thưa công chúa, em không thể không rùng mình kinh sợ khi nghĩ đến những hiểm nguy bà sắp lao thân vào. Nhưng bởi không còn cách nào khiến bà thôi nghĩ tới người yêu, chúng ta cần tìm phương sách để hai người tự do gặp nhau mà không làm nguy hại cuộc sống của bà cũng như của ngài Haxan. Em vừa nghĩ ra một phương sách may ra thực hiện được, nhưng nó khá tế nhị, em chẳng dám ngỏ lời thưa với bà.
Công chúa vội đáp:
Em Calê Cairi, em hãy nói đi, cho dù phương sách ấy có gì xúc phạm chăng nữa, em cũng đừng giấu ta.
Chỉ còn có cách – em đáp – Công chúa quyết định giã biệt cuộc sống đầy quyền uy và trên nhung lụa giữa hoàng triều để sống cuộc đời một người dân bình thường như tất cả mọi người bình thường khác trong xã hội. Bà phải khước từ tất cả mọi vinh quang bà đáng được hưởng do địa vị của mình. Bà có đủ yêu đương chàng Haxan tới mức dám có một sự hy sinh to lớn như vậy?
Em hỏi ta có đủ yêu chàng không ư? – công chúa thở dài buồn bã đáp lời em – Ôi! Nếu thân phận ta là thân phận một con người không ai hay biết đến tên tuổi mà được tự do yêu chàng Haxan thì ta còn thích thú hơn ngàn lần tất cả mọi vàng son snag trọng, hào hoa mà ta đang hưởng thụ trong cuộc sống hàng ngày. Em hãy nói ta rõ, ta cần làm gì để được tự do thoải mái gặp người yêu, ta sẽ thực hiện ngay không chút do dự.
Em đáp:
Bởi vì không còn cách nào để công chúa thay đổi ý kiến, em xin hiến phương sách sau đây. Em biết có một loài thảo dược có đặc tính hết sức kỳ lạ. Nếu công chúa bỏ vào tai chỉ một ngọn lá ấy thôi, thì sau một tiếng đồng hồ bà sẽ trở nên mê man bất tỉnh, coi như một người đã chết thật. Người ta sẽ làm tang lễ cho công chúa nội trong ngày, và đến đêm em sẽ đưa công chúa đã tỉnh lại ra khỏi nhà mồ.
Nghe đến đấy, tôi vội ngắt lời nàng Calê Cairi:
Trời đất ơi! Vậy ra nàng  công chúa Zêlica chưa chết? Nàng hiện ra sao?
Thưa ngài – Calê đáp – công chúa hiện đang sống bình yên. Nhưng xin hãy lắng nghe em kể tiếp, ngài sẽ rõ tất cả những gì ngài muốn biết. Công chúa chủ nhân của em, mới nghe vậy đã mừng rỡ ôm hôn em, bà cho cái kế ấy thật tuyệt diệu. Nhưng  bà nghĩ rất khó thực hiện, bởi lễ tang của bà chắc kéo dài nhiều ngày. Công chúa nói luôn với em suy nghĩ ấy. Em thưa, có cách vượt qua trở ngại. Sau đây là cung cách chúng em đã làm để thực hiện mưu đồ mạo hiểm.
Ngay hôm  ấy công chúa Zêlica kêu đau đầu, và đi nghỉ. Sáng hôm sau, em cho đồn đại công chúa vừa đổ bệnh, một căn bệnh cực kỳ nguy cấp. Quan ngự y của chính đức vua được vời đến, ông cũng bị mắc lừa. Ông kê ra đơn rất nhiều lọai thuốc, em có đưa công chúa dùng thuốc nào đâu. Những ngày tiếp đó đồn đại bệnh tình càng nặng hơn. Khi em nhận thấy rằng bây giờ đã đến lúc mọi người tin công chúa ốm nặng lắm rồi, em liền bỏ vào tai nàng một ngọn lá thần dược em vừa nói ở trên. Rồi ngay lập tức sau đó em chạy bổ đến cấp báo với đức vua có lẽ công chúa Zêlica chỉ còn sống được trong chốc lát nữa thôi, bà tỏ ý mong được gặp quốc vương. Nhà vua vội vàng đến. Nhìn thấy do tác động của loại độc dược khuôn mặt nàng biến sắc rất nhanh, vua xúc động khôn cùng và tuôn rơi nước mắt. Lúc này, công chúa mới thưa với đức vua “Tâu bệ hạ, con xin phụ vương, vì tình thương yêu cha luôn luôn dành cho con, xin cha hãy truyền lệnh để những lời giối giăng của con đây sẽ được thực hiện đúng đắn. Con muốn sau khi con qua đời, không để cho bất cứ một cung nữ nào khác ngoài em Calê Cairi được lau rửa thi thể và xức nước hoa cho con. Con không muốn các cung nữ khác được chia xẻ vinh dự ấy cu1ng với Calê Cairi. Con xin cha chỉ cho phép riêng mình em ấy thôi thức canh bên cạnh thi hài con đêm đầu tiên, không để bất kỳ một người nào khác ngoài em Calê Cairi đến than khóc bên mộ của con đêm đầu tiên. Con muốn cô cung nữ trung thành ấy sẽ là người cầu nguyện Đấng Tiên tri cứu giúp, ngăn ngừa những thần linh độc ác đến quấy rầy con sau khi qua đời”.
 
  NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI BA.
 
Quốc vương Tamaspơ vừa khóc vừa hứa với con gái sẽ cho thực hiện tang lễ theo đúng như lời nàng giối giăng. Công chúa nói tiếp:
Không phải chỉ có thế thôi, thưa phụ vương. Con xin ngài, ngay khi con qua đời, cho em Calê Cairi được trở thành người tự do. Cùng với việc cho phép em được tự chọn muốn sống ở đâu thì sống, xin cha hãy ban cho em khá nhiều của cải, xứng đáng với lòng hào hiệp vốn có của cha, và đền đáp sự quyến luyến tận tuỵ của em đối với con suốt cả đời, khi con còn sống.
Con gái ta ơi – vua Tamaspơ đáp – con hãy yên tâm về tất cả người điều con vừa dặn cha thực hiện. Nếu chẳng may cha không còn có con trên đời này nữa, cha thề với con, cô cung nữ tâm phúc nhất của con sẽ được tự do, nó muốn đi đến đâu tuỳ ý nó, cùng với rất nhiều của cải cha sẽ ban cho.
Quốc vương vừa nói xong mấy lời ấy, thì chất độc thảo dược gây đầy đủ hiệu quả. Công chúa Zêlica lịm đi, và nhà vua tưởng nàng mất rồi, vừa khóc vừa quay trở về cung riêng của mình. Vua truyền lệnh chỉ cho phép tôi được lau rửa thân thể và xức hương cho nàng công chúa. Làm xong công việc ấy, tôi cuộn nàng công chúa vào một tấm vải trắng đặt vào trong quan tài. Quan tài sau đó được đưa vào lăng mộ. Vẫn theo lệnh vua, người ta để cho tôi một mình trong mộ của công chúa. Tôi quan sát khắp nơi để nhìn xem có ai nấp ở đâu đấy theo dõi mình hay không. Không thấy có ai tôi đưa bà chủ của tôi ra khỏi quan tài và chờ bà tỉnh hẳn. Tôi trao cho bà một chiếc áo dài cùng tấm mạng che mặt mà tôi đã mang theo giấu trong vạt áo. Hai chúng tôi đi đến một nơi anh Sapua đang chờ sẵn. Viên hoạn nô trung thành ấy đưa công chúa vào nghỉ tạm ở một ngôi nhà anh đã thuê trước, trong khi tôi trở lại bên mồ, thức canh cho hết đêm. Tôi dùng vải độn thành hình dáng một thi hài, liệm bằng chính tấm vải trắng tôi đã dùng để cuộn thân thể nàng Zêlica, rồi đặt trở lại vào trong quan tài.
Sáng sớm hôm sau, khi những cung nữ khác của công chúa đến đổi phiên cho tôi, tôi làm ra bộ khóc lóc thảm thiết, đau đớn vô cùng trước khi đi ra khỏii ngôi mộ. Người ta trình với quốc vương, tôi hết sức buồn thương công chúa, càng khiến người sai ban cho tôi rất nhiều của cải. Vua cho lấy từ kho tàng ra mười nghìn đồng xơcanh trao cho tôi, rồi chấp nhận lời tôi xin cho viên hoạn nô Sapua được cùng ra khỏi hoàng cung. Sau đấy, tôi đến tìm bà chủ, cùng chung vui với nhau về thành công trót lọt của mưu đồ.
Ngày hôm sau, chúng tôi bảo viên hoạn nô quay trở về phòng riêng của đức vua, mang theo mảnh giấy tôi yêu cầu ngài đến gặp tôi ở chỗ nọ. Nhưng một đồng nghiệp của ngài nói ngài đang ốm, không ai được phép gặp. Ba ngày sau nữa, chúng tôi lại cử Sapua đến, mới té ngửa ra ngài đã ra đi khỏi hoàng cung, bây giờ chẳng một ai hay biết ngài ở chỗ nào.
Nghe đến đây, tôi nóng nảy ngắt lời Calê:
Tại sao không báo trước cho tôi dự định của các cô? Tại sao không sai Sapua đến tin cho tôi hay ngay? Ôi! Giá được một mảnh giấy thì đã đỡ cho tôi biết bao vất vả nhọc nhằn.
Ngài hỏi tại sao chúng tôi giữ bí mật ư? – đến lượt Calê Cairi ngắt lời tôi – công chúa Zêlica lúc này hẳn đã có thể cùng sống với ngài ở một nơi nào đấy trên trái đất, nếu hôm ấy bà để cho tôi được quyền quyết định. Ngay sau khi thoả thuận mưu kế với nhau, tôi đã ngỏ ý nên báo cho ngài biết, nhưng bà chủ tôi không muốn vậy. Bà nói: “không nên. Hãy để cho chàng đau khổ vì việc ta qua đời đột ngột. Sau đấy, chàng sẽ xúc động hơn, hạnh phúc hơn khi gặp ta. Chàng càng đau khổ về việc ta chết bao nhiêu, thì sự bất ngờ khi gặp lại ta còn sống sẽ càng thú vị bấy nhiêu”. Tôi không đồng ý với dâu hiệu yêu đương tinh tế ấy của công chúa, như thể tôi linh cảm sẽ xảy ra những hậu quả đáng buồn, và thực tế sau đó bản thân công chúa Zêlica cũng vì điều ấy mà hối hận. Tôi không sao nói hết với ngài, công chúa buồn bã đến mức nào khi nghe tin ngài đã bỏ ra đi. Bà luôn luôn dập đầu bứt tóc: “Ôi khốn nạn thân tôi! Có ích gì việc tôi hy sinh mọi cao sang phú quý vì tình yêu, có ích gì tôi đã làm tất cả những chuyện ấy để rồi chẳng bao giờ gặp lại chàng Haxan!”. Chúng tôi đã nhờ tìm kiếm ngài khắp thành phố. Anh Sapua đã không tiếc sức để cố gặp ngài. Khi mất hết mọi hy vọng, chúng tôi giã từ thành phố Siara, tôi đi về phía sông Ấn độ bởi chúng tôi mường tượng hẳn ngài có thể cùng đưa chân đi về hướng ấy. Đến bất kỳ thành phố, thị trấn nào bên bờ con sông lớn ấy, chúng tôi đều dừng lại tìm kiếm ngài rất kỹ nhưng đều vô ích. Một hôm, đang đi từ một điểm cư dân này đến điểm khác, cho dù chúng tôi cẩn thận nhập chung cùng một đoàn lữ hành, bất ngờ vẫn gặp một toán cướp rất đông ập đến bao vây, đánh đập các thương nhân và cướp bóc hết hàng hoá của họ. Chúng cũng bắt luôn chúng tôi, tước đọat tất cả vàng bạc, ngọc ngà chúng tôi mang theo trên người. Sau đấy, toán cướp dẫn chúng tôi về thành phố Canđaha, bán cho một nhà buôn nô lệ có quan hệ với chúng từ trước.
Vị thương gia ấy vừa mua được nàng Zêlica thì quyết định đưa ngay nàng vào trình diện quốc vương. Vừa nhìn thấy, vua Fiarusat đã hết sức say mê vẻ đẹp của nàng. Vua hỏi nàng người quê ở đâu, công chúa đáp nàng sinh ra tại thành phố Ormut. Nàng cũng trả lời các câu hỏi khác của nhà vua một cách đúng mực. Vua xuất tiền mua cả hai chúng tôi, cho sang ở một ngôi nhà đẹp nhất trong phần hoàng cung dành riêng cho các bà hoàng, công chúa.
 
  NGÀY THỨ CHÍN MƯƠI TƯ.
 
Nói đến đây Calê ngừng lời, hay nói đúng hơn, nàng bị tôi ngắt lời:
Trời đất ơi! Làm sao bảo tôi có thể vui mừng sắp gặp lại nàng Zêlica? Sao có thể nói là gặp lại, khi đồng thời với tin nàng còn sống, tôi được biết nàng đang bị một quốc vương hùng mạnh giữ trong cung riêng của mình. Giả sử nàng dám cưỡng lại tình yêu của vua Fiarusat, thì những ngày của công chúa sống trong thời gia qua thật đầy chuyện đáng buồn phiền, và làm sao tôi không đau khổ khi biết nàng cũng đau khổ. Nhưng, giả sử nàng yên tâm và hài lòng về số phận của nàng, thì làm sao bảo tôi có thể hài lòng về số phận của tôi?
Tôi rất vui được nghe ngài biểu lộ những tình cảm tinh tế như vậy. – Calê Cairi nói tiếp – công chúa thật xứng đáng với tình cảm của ngài. Cho dù quốc vương kinh đô Canđaha yêu nàng tha thiết, nàng vẫn không sao quên được ngài, và chưa bao giờ tôi thấy nàng vui như hôm qua, khi anh Sapua báo cho biết anh vừa gặp ngài. Suốt cả buổi chiều, công chúa như người ngẩn ngơ vì mong nhớ. Lập tức bà sai viên hoạn nô đi tìm thuê một ngôi nhà lớn có sẵn đồ đạc, và hôm nay rước ngài đến ở, không được để cho ngài thiếu thốn thứ gì. Hôm nay, công chúa lại sai tôi đến đây trình bày cho ngài rõ tất cả mọi điều, như  tôi vừa nói. Ngài hãy sẵn sàng để tối mai gặp công chúa ở ngôi nhà này. Tối mai, chúng tôi sẽ ra khỏi hoàng thành qua một cổng nhỏ trong vườn mà chúng tôi đã sai đánh trước một chiếc chìa khóa phòng ngừa sử dụng khi cần.
Nói đến đấy, cô cung nhân sủng ái của công chúa nước Ba Tư đứng lên rồi cùng với Sapua vội vã trở về với bà chủ của mình.
Suốt đêm hôm ấy, tôi chỉ nghĩ đến nàng Zêlica. Tg cảm thấy tất cả tình yêu nồng cháy đối với nàng trở lại hun đốt trong tâm can. Suốt đêm, tôi không hề chợp mắt. Và ngày hôm sau đối với tôi dài như cả một thế kỷ. Cuối cùng, sau một thời gian khôn cùng náo nức chờ đợi, tôi chợt nghe có tiếng gõ cửa. Những người giúp việc ra mở. Lát sau tôi thấy nàng công chúa của tôi bước vào phòng. Sự xuất hiện của người yêu làm cho tôi vừa bối rối  vừa thảng thốt mừng vui. Về phía nàng, nỗi vui lớn cũng lộ ra mặt. Tôi cúi xuống dưới chân nàng, ôm rất lâu trong vòng tay, chẳng nói nên lời. Nàng đỡ tôi đứng lên, mời tôi ngồi xuống bên cạnh nàng trên chiếc sập và nói:
chàng Haxan ơi, tạ ơn trời đất cho chúng ta tái ngộ. Chúng ta hãy cùng nhau hy vọng, phúc trời ban cho không chỉ dừng lại ở đấy. Rồi trời sẽ cho phép chúng ta vượt qua mọi trở lực để được chung sống với nhau. Trong khi chờ đợi giờ phút hạnh phúc ấy đến, chàng hãy sống ở đây thanh thản và phong lưu. Nếu chúng ta chẳng có được niềm vui thoải mái chuyện trò với nhau ngay, ít ra chúng ta cũng được an ửi bởi hàng ngày sẽ có thể nhận được tin tức của nhau, rồi thỉnh thoảng sẽ bí mật gặp nhau. Em Calê Cairi đã kể hết chàng nghe những việc từng xảy ra với em thời gian qua, giờ chàng hãy nói lại cho chúng em biết đã xảy ra những gì mấy năm qua đối với chàng.
Tôi thuật lại với nàng nỗi đau vô biên khi được tin nàng qua đời. Tôi nói tin buồn ấy làm tôi chán ngán mọi sự  trên đời, đến mức đi tu theo dòng fakia chuyên sống nhờ khất thực. Nàng thốt lên:
Ôi chàng Haxan quý mến! Vì tình yêu đối với em mà chàng đã phải sống một thời gian lâu như vậy cùng những người khổ hạnh hay sao? Hỡi ôi! Em đã gây nên cho chàng biết bao khổ ải.
Giá nàng biết thực tế tôi đã sống như thế nào dưới chiếc áo khất sĩ ấy, hẳn nàng đã bớt phàn nàn cho tôi. Nhưng tôi giữ kín, không nói gì về việc ấy, tôi chỉ một mực kể lể chuyện da diết nhớ thương.
Thời gian trò chuyện trôi qua mới nhanh làm sao! Gặp nhau dễ đã hơn ba tiếng đồng hồ, thế mà chúng tôi vẫn bực mình khi thấy Sapua và Calê Cairi bước vào, báo cho biết đến lúc nàng công chúa phải trở về “Quả thật những người không biết yêu đương, lúc nào đến là khó chịu! Hai ta mới ngồi với nhau được chốc lát, thế mà các người đã vào bảo chúng ta phải chia tay!” Nói vậy, nhưng nếu nấn ná trò chuyện thêm chốc nữa, thì ngày đã rạng, bởi công chúa vừa bước ra đi khỏi nhà chốc lát thôi thì trời đã sáng hẳn.
Mặc dù trong lòng đang hết sức khoái trá, tôi vẫn không quên anh chàng fakia đã đi cùng tôi đến thành phố Canđaha này. Tôi nghĩ anh ta chắc đang lo lắng không biết tôi ra sao, nên vội vã ra khỏi nhà định đi tìm anh bạn. Tình cờ tôi gặp anh chàng trong phố. Chúng tôi ôm hôn nhau. Tôi bảo:
Anh bạn ơi, tôi định đến nhà trọ báo cho anh biết việc gì vừa mới xảy ra với tôi mấy ngày qua, để anh yên tâm. Tôi nghĩ chắc tôi cũng có gây nên cho anh ít nhiều lo lắng.
Đúng vậy – anh chàng đáp – tôi đang lo cháy ruột cháy gan vì bạn. Nhưng làm sao anh thay đổi nhiều vậy? Anh mặc bộ quần áo đâu ra mà đẹp thế này? Có vẻ như anh đang giàu có lắm. Trong khi tôi lo vì anh gặp chuyện bất ổn, thì dường như anh đang sống rất thoải mái, phong lưu.
Tôi đáp:
Anh bạn thân thiết của tôi ơi, thú thật với bạn tôi còn nghìn lần hạnh phúc hơn những gì anh tưởng tượng. Tôi muốn anh là chứng nhân cho hạnh phúc của tôi và chia sẻ với tôi một phần hạnh phúc ấy. Hãy vứt cái quán trọ của bạn đi, và đến đây ở chung với tôi, anh bạn ạ.
Nói xong tôi dẫn anh ta về nhà, đưa đi xem tất cả các phòng. Anh ta thấy chỗ nào cũng đẹp cái gì cũng sang. Đến đâu anh cũng xuýt xoa “Trời đất ơi! Anh chàng Haxan này làm được gì hơn những người khác, mà bỗng dưng được trời ban cho bấy nhiêu của cải?”
Thế nào, hỡi anh bạn fakia, vậy ra anh muốn nhìn thấy tôi lúc này âu sầu buồn bã hay sao? Dường như sự giàu có của tôi không làm anh được vui?
Không, ngược lại – anh chàng đáp – tôi vui mừng lắm. Đời tôi không bao giờ tôi ganh tị với bạn bè, lúc nào tôi cũng hết sức mừng thấy bạn bè sống cảnh phồn vinh.
Nói đến đấy anh chàng đưa vòng tay ôm chặt cổ tôi để chứng tỏ anh nói thật lòng. Tôi ngỡ anh ta nói chân tình. Không ngờ tôi lại hết lòng tin cậy một con người hèn hạ nhất, ganh tị nhất, tráo trở nhất trần gian. Tôi bảo anh bạn:
Hôm nay chúng ta phải đánh chén với nhau một bữa ra trò.
Nói xong tôi cầm tay anh kéo sang phòng ăn, ở đấy những người giúp việc đã bày ra một cái bàn nhỏ cho hai người dùng bữa.