Dịch giả: Tạ Thu Hà
Chương 15

    
  “ẽ tới và thứ Hai” bức điện thông báo. “Nhớ cháu nhiều. Chú Acker”.
Anna đã đọc đi đọc lại bức điện tới cả chục lần. Cô nóng lòng muốn gọi điện tới vùng Tây Nam cho chú nhưng cuối cùng lại thôi. Thôi cứ để chú ấy đến, Anna nghĩ vậy. Cô tin chắc rằng cha mẹ cô giờ vẫn còn đang ở nước ngoài đã nhờ chú Acker tới đây để xem cô sinh sống thế nào.
Sau bữa lối thất bại với Kurt Friedland, cô đã mua thêm hai cái ghế, một cái bàn ăn và một giường đơn ở chợ bán đồ cũ Malmesbury. Và vì không muốn gặp lại Kurt nữa nên cô tránh tới mua bán ở cửa hàng của ông Olivier.
Thực ra, Anna cũng phải miễn cưỡng bỏ tiền ra để mua sắm những thứ đó bởi vì cô đang muốn dành tiền mua thêm bốn nghìn con gà con. Thời gian qua quả là bận rộn, cô phải chuẩn bị lò ấp trứng và trồng thêm bốn thửa ruộng ngô để làm thức ăn cho gà.
Chú Acker không nói rõ sẽ tới đây như thế nào, bằng xe buýt hay bằng tàu hỏa. Cô tới ga hỏi thăm và được biết rằng một tuần chỉ có hai chuyến tàu tới đây vào ngày thứ Ba và thứ Năm. Vì vậy, Anna lại quay sang làm việc như thường lệ. Lau và phân loại trứng là một công việc đòi hỏi hầu hết thời gian của cô. Mặc dù vậy, bức điện cũng đã làm đảo lộn hết những thói quen hàng ngày của Anna. Cô vẫn nghĩ tới chú Acker và khó khăn lắm mới tập trung vào công việc. Những ngày nghỉ ở nhà chú Acker mới tuyệt làm sao. Mặc dù phải đi săn để kiếm sống nhưng chú ấy vẫn dành thời gian để dạy cô cách săn bắn, cách tìm dấu vết trong những bụi cây. Trên hết, cô rất thích được chăm sóc lũ thú hoang mà chú đã bẫy được và đang thuần hóa. Đó là những con chim, bầy hươu nai, mèo rừng và có lần là cả một con báo con nữa. Khi ở nhà mình hay ở trong rừng, trông chú thật thông minh lanh lợi. Sự rụt rè biến mất, nhường chỗ cho khả năng giao tiếp với thiên nhiên. Còn trong những chuyến viếng thăm hiếm hoi tới Fontainebleu, chú trở nên vụng về, ít nói, thường xuyên va vấp vào một thứ gì đó. Dù thế nào, Anna vẫn rất thích chú... Thế mà lúc này đây, lần đầu tiên trong đời, cô không muốn gặp chú.
Ngoài việc bảo Lena nướng một mẻ bánh sữa và quay một cái đùi cừu cô không có thêm một sự chuẩn bị đặc biệt nào để đón chú Acker cả. Mặc dù vậy, suốt cả ngày hôm đó cô ngóng đợi một tiếng xe và đã vài lần tưởng rằng mình nghe thấy, nhưng hóa ra đó chỉ là tiếng máy cày của Simon đang ngoan cố cày mảnh đất trồng lúa mì ở cách đó hai dặm. Anh ấy mới ngu ngốc, mới bướng bỉnh làm sao. Họ đã có một cuộc khẩu chiến gay gắt về việc năm nay có trồng lúa mì hay không. Anna thì kịch liệt phản đối. Giờ đã có nước rồi, họ có thể phát triển đàn bò sữa - như vậy hay hơn. Thế nhưng Simon vẫn tâm niệm muốn có một trang trại trồng lúa, và anh dồn toàn bộ tâm trí và sức lực vào việc đó.
Rồi cũng có tiếng một chiếc xe tiến lại gần. Anna nín thở vì sợ hãi; có quá nhiều suy nghĩ phức tạp đang nhảy nhót lộn xộn trong đầu cô. Liệu chú Acker đã nghe mẹ kể chuyện về mình chưa nhỉ? Họ nói thế nào về cô? Chắc chắn một điều là họ rất lo lắng rồi. Anna chưa bao giờ tha thứ cho cha mẹ vì đã bỏ rơi cô như vậy, và điều này lại chỉ càng khiến cô cay đắng hơn mà thôi.
Chiếc xe đỗ lại trong sân. Anna lao ra khỏi khu chuồng bò, chỉ nhìn thấy Kurt đang đứng ngoài cửa bếp. Cô cắn chặt môi lại vì thất vọng.
- Ồ, anh đó à. - Cô đi ngang qua sân về phía anh.
- Chính tôi đây, có vẻ như tôi được hưởng một sự tiếp đón chu đáo hơn lần trước thì phải.
- Xin lỗi, tôi cứ tưởng là chú tôi đến. Tôi không biết chính xác khi nào chú ấy tới cả. - Cô lo lắng nhìn sang phía những ngọn đồi bên cạnh rồi quay lại Kurt. - Chắc là anh không nhìn thấy chú ấy nhỉ?
Kurt nhìn cô tò mò. Mắt cô mở lớn, khuôn mặt trắng bệch. Trông cô thật mệt mỏi và lo lắng.
- Không, nhưng tôi sẽ đi tìm nếu cô muốn.
- Chắc là chú ấy chưa đến rồi. - Cô lưỡng lự. - Anh có muốn uống một chút cà phê không? - Cô mời, nửa muốn anh từ chối. Sau buổi tối thảm hại cách đây một tháng, cô đã cầu xin Simon đừng mời anh ta tới chơi lần nào nữa. Cô nói rằngbốc cháy, và máu của cha anh đông lại trên những phiến đá vỉa hè. Anh đã phải bỏ trốn, đánh đổi cả xưởng sản xuất ổ bi của gia đình để lấy một chiếc vé một chiều. Cả châu Âu đang bị đọa đày, đang bại hoại với cái mẽ văn minh đang dần tan rã. Anh phải đi, đi càng xa khỏi châu Âu càng tốt. Anh muốn tới một hòn đảo hoang hay tới vùng Nam cực, nhưng cuối cùng sự lựa chọn của anh thu hẹp lại giữa châu Úc và châu Phi. Rồi anh phát hiện ra Cape Town ở Nam Phi là một thành phố sầm uất thịnh vượng. Điều này khiến anh ngã lòng nên anh chộp ngay lấy cơ hội việc làm đầu tiên ở một vùng quê để được rời khỏi thành phố. Ở đây, tại Vịnh Sadanha này, anh ít gặp tầng lớp cao sang hơn. Những con người vùng này giản dị, chân thật và tốt bụng. Họ nghĩ sao nói vậy và không bàn tán tới những sự kiện không liên quan tới họ. Họ chỉ quan tâm tới thời tiết và mùa màng mà thôi, nhưng sự đơn độc cũng giống như một ngọn gió đông ẩm ướt. Nó thấm tới tận xương tủy anh, nó tóm lấy các khớp xương của anh, nó làm tê liệt trí óc và khi anh định thần lại được trước lời đề nghị của Simon mà lúc đầu anh cho là sự quấy rầy thì anh nhận ra đó là cơ hội đầu tiên để anh hòa nhập với cộng đồng nơi này.
Vì vậy, anh đóng vào người bộ quần áo duy nhất và lên đường vào một buổi tối giá lạnh giữa tháng Năm. Phá vỡ thói quen thường ngày, anh mua một hộp sôcôla của cửa hàng, còn hoa thì có vẻ khó hơn một chút. Nhưng rồi anh cũng nghĩ ra một người nông dân chuyên trồng rau ở ngoại ô Malmesbury. Ông này cũng có trồng hoa để đem bán ngoài chợ. Anh lái xe lới đó, mua một bó hoa hồng cuống dài và để nó ở ghế ngồi trong chiếc xe xóc nảy lăn bánh trên con đường tệ hại của Simon.
Tới lúc chạng vạng tối, gió đột ngột chuyển sang hướng tây bắc tạo nên một lớp sương mù dày đặc trên biển và nó nhanh chóng lan ra khắp mặt đất khiến con đường lại càng khó đi hơn.
Vật lộn với con đường của Simon được khoảng hai mươi phút, chợt anh trông thấy trong ánh đèn pha ô tô một con báo đang kéo lê một con cừu trưởng thành ngang qua phía trước mặt. Trong vài giây, nó đứng yên trong thế phòng thủ, miệng gầm gừ vì bị lóa mắt bởi ánh đèn - một con vật to lớn, béo mượt và dũng mãnh. Rồi nó biến vào đám sương mù, bỏ con cừu ở lại.
Kurt cảm thấy choáng váng nhưng lại rất phấn khởi và thích thú. Anh chưa từng bao giờ được trông thấy một con thú hoang nào ở vườn bách thú cả, và dường như anh đã tìm thấy một nơi định cư heo hút mà anh vẫn hằng mong ước. Nơi này, những con thú ăn thịt với những bộ lông lốm đốm chỉ tấn công vào đàn cừu chứ không màng tới con người.
Nhưng làm gì bây giờ? Con cừu kia nằm vắt ngang qua đường, chạy xe chèn lên người nó thì không nỡ. Anh không thể không buồn cười trước tình trạng tiến thoái lưỡng nan này. Vả lại, anh nghĩ bụng, con cừu là một tài sản đáng kể dối với người nông dân. Vì vậy, anh xuống xe và vừa thở hổn hển vừa vác con vật lên vai, anh quẳng nó vào thùng xe phía sau. Mùi hôi thối của con báo vẫn phảng phất quanh đây và tiếng gầm gừ của nó vẫn vọng ra từ trong bóng tối.
Mười phút sau anh đỗ xe vào trong sân, tự thấy rằng mình xứng đáng được hưởng một ly rượu mạnh, một ngọn lửa ấm áp và một bữa ăn ngon. Nhưng rồi một lần nữa, tâm hồn anh lại bị xáo động khi anh nhìn thấy Anna tiến lại gần. Một thiếu phụ lạ lùng với một vẻ đẹp hoàn hảo. Anh không thể dứt mắt khỏi sống mũi thẳng tắp như người Hy Lạp, cặp mắt xanh mở lớn và mái tóc mượt mà của cô mặc dầu cô đã bện mái tóc ấy lại và quấn lên quanh đầu trông chả hợp tẹo nào. Thậm chí cả bộ quần áo đàn ông mà cô đang mặc cũng không ngăn nổi một luồng điện chạy dọc người anh trong khi anh nhìn cô chăm chú. Đây chắc chắn là một người đàn bà căm ghét vẻ đẹp và thân phận nữ nhi của mình. Nhưng điều đó có quan trọng gì đâu bởi anh đã hoàn toàn bị cô hút mất hồn.
- Cám ơn anh chị vì đã mời tôi tới chơi. - Anh ta lên tiếng và đưa cho cô bó hoa rồi thận trọng dừng lại bên một thân cây vì dường như đó sẽ là ghế ngồi của anh thì phải.
Về phần Anna. tự dưng cô cảm thấy như bị líu lưỡi. Kurt Friedland là một típ người mà cô không thể hình dung ra được là lại đến làm công cho cửa hàng nhà Olivier. Thật may Simon tới kịp và vỗ vào vai Kurt:
- Xin chào Kurt. Anh đã sẵn sàng để nhậu chưa?
Kurl quay lại.
- Ồ, xin chào anh Smit. Xe của tôi bị dừng lại giữa đường vì một con báo. Tôi e rằng nó đã giết chết một con cừu của anh đấy.
Một sự im lặng đáng ngại bao trùm, rồi Simon cười phá lên một cách thô thiển và lại vỗ vào vai Kurt:
- Không thể thế được, Kurt ạ, anh say rượu hay sao đấy?
Kurl nhún vai, có vẻ hơi phật ý:
- Tôi cam đoan với anh...
- Có lẽ đó chỉ là một con linh miêu thôi mà. - Anna xen vào. - Trông chúng khá giống nhau, tuy nhiên linh miêu nhỏ hơn báo. Trong sương đêm, dưới ánh đèn pha ô tô thì ai cũng có thể bị nhầm lẫn. Chúng tôi vẫn hay bị bọn linh miêu ấy gây tai họa.
- Thế linh miêu có thể giết chết một con cừu trưởng thành được hay không?
- Ồ không, tôi nghĩ rằng chúng cũng có thể giết được cừu trưởng thành nhưng chúng không làm thế. Chúng chỉ săn lũ cừu non thôi.
Kurt nhún vai.
- Vậy thì con gì đã ngậm một con cừu trưởng thành trong miệng và tha đi dễ dàng như tha một con thỏ?
Simon lại cười phá lên.
- Trời ơi, nếu anh không phân biệt nổi đâu là một con cừu trưởng thành và đâu là một con cừu non thì làm sao anh làm dịch vụ bán buôn cho được? - Vừa nói, anh vừa cười khùng khục.
- Có lẽ vậy - Kurt lạnh lùng nói. - Tuy nhiên con cừu trưởng thành hay con cừu non gì đó của anh vẫn còn đang ở sau xe của tôi kia kìa, hãy cho người ra lấy xuống đi.
Simon đi vòng ra sau xe, nụ cười nhạt dần. Rồi anh la lên:
- Lạy Chúa, nhìn này!
Jan chạy lại và kéo mạnh cái xác con vật xuống. Bốn người chụm vào xem xét những vết thương nham nhở.
- Tôi nghĩ rằng Simon nợ anh một lời xin lỗi, anh Friedland ạ - Anna lên tiếng. - Anh thấy đấy, từ nhiều năm nay không thấy báo xuất hiện ở vùng này. Tôi còn được biết rằng chúng đã gần như tuyệt chủng rồi cơ.
- Thật là kinh khủng! - Simon đế vào. Anh lao đi lấy súng và chẳng bao lâu biến mất tăm vào trong bóng đêm cùng với Jan và Wagter bám sau lưng.
- Thế còn braai thì sao? - Anna gọi với theo vào trong bóng tối.
Một sự im lặng bao trùm hồi lâu, và không biết làm gì nữa. Anna nhặt que cời lên và cời vào đống lửa. Làm sao mà Simon lại có thể ngu ngốc như vậy được nhỉ? Giờ anh ta lại còn bỏ mặc cô ở lại đây một mình nữa chứ. Nhỡ Kurt hỏi chỗ đi vệ sinh thì làm sao nhỉ? Họ chỉ có một cái hố đào sâu xuống đất, rắc vôi bột và được che bởi một túp lều bằng gỗ di động. Khi nào mùi hôi thối bốc lên tới mức không chịu nổi thì Jan được gọi lới để lấp nó đi rồi đào một cái hố khác và dời túp lều đến đó. Cô nhớ rằng lúc này cũng đã đến thời kỳ lấp hố rồi. Và cô lại nghĩ nếu trời mưa thì sao? Dường như để đáp lại nỗi lo sợ của cô, những hạt mưa đầu tiên bắt đầu rơi xuống cháy xèo xèo trên những phiến đá nóng quanh đống lửa. Anna rùng mình.
Nhìn sang nét mặt nghiêng nghiêng của Anna, Kurt hiểu rằng anh không được chào đón ở đây. Nhưng lạy Chúa, tại sao họ lại phải ngồi ngoài trời trong một buổi tối mùa thu ẩm ướt và lạnh lẽo như thế này? Một ý nghĩ chợt thoáng qua óc anh: liệu cô ấy có loạn trí hay không nhỉ? Anh đã được nghe nhiều câu chuyện về cô bàn tán trong làng. Anna van Achtenburgh từ vùng Stellenbosch, người đã từ bỏ cả một gia tài kếch sù để đi theo một gã nông dân nghèo kiết xác để giờ đây mặc những bộ quần áo đàn ông và lái xe tải chạy vòng quanh khắp vùng khiến những bà vợ nông dân khác phát hãi. Người ta còn bảo là cô làm việc cả trong ngày Chúa nhật nữa, thật là một tội lỗi kinh khủng. Người anh đầy bụi bẩn vì con cừu, anh cần phải rửa ráy qua một chút.
Lũ gà tây cứ tao tác trên những cành cây phía trên đầu. Kurt nhảy sang một bên nhưng đã quá muộn. Một bãi phân trắng to tướng rơi bộp xuống tay áo. Anh lấy ra một chiếc khăn tay và chấm nhẹ lên vết bẩn hôi hám ấy.
- Gà tây đấy mà. - Anna nói dường như để xin lỗi cho tất cả mọi chuyện. - Lẽ ra anh không nên ăn mặc bảnh bao như vậy để đi dự một buổi tiệc braai.
Tự dưng Kurt thấy ân hận vì đã tới đây.
- Lửa sắp tàn rồi kìa. - Anh nói sau một hồi im lặng.
- Không đâu, nó sẽ lại cháy bùng lên đủ để cho ta nấu một bữa ăn đấy. - Cô miễn cưỡng đứng dậy. - Jan được giao nhiệm vụ nấu ăn nhưng có lẽ hai người ấy sẽ chẳng quay về sớm đâu. Tôi phải đi mang thức ăn tới thôi. - Cô ngượng ngùng nói và đi khỏi.
Khi quay trở lại, cô bận rộn với việc nướng thịt và xúc xích. Rồi cô nói:
- Thật là lạ nhưng thịt cừu không thể ngon được nếu không nướng.
- Hãy kể cho tôi nghe về trại gà đi. - Kurt bắt đầu gợi chuyện. - Năm nghìn con gà mái đẻ, cũng khá là vất đấy nhỉ?
- Ồ, tôi rất tiếc. - Anna ngắt lời. - Tôi định nói với anh sớm hơn rằng chuyến đi của anh tới đây là vô ích rồi. Tôi cần phải đem trứng tới Cape Town để bán được giá hơn. Tôi xin lỗi!
- Đừng nói vậy mà. - Kurt nghiêm trang nói. - Đây là lần đầu tiên tôi được mời tới một gia đình Nam Phi và là lần đầu tiên được dự một bữa tiệc braai. Tôi rất vui.
Anna tỏ ra lúng túng.
- Anh có muốn uống một chút rượu vang hay không? - Cô hỏi. - Rượu này được làm bằng nho ở vùng Stellenbosch, còn ở đây chúng tôi không có thứ đất để trồng nho.
Cô đổ một chút rượu vang của Jan vào chiếc ca bằng thiếc và ngượng ngùng đưa cho Kurt. Một hồi lâu, họ ngồi im không nói năng gì. Anna quá xấu hổ, còn Kurt thì không thể thoát ra khỏi trạng thái kỳ ảo. Rồi cả hai cùng chợt lên tiếng nên không ai nghe thấy  người kia nói gì.
Họ dừng lời và nhìn nhau thăm dò.
- Cô nói gì cơ? - Kurt hỏi.
- Hôm nay, chính xác là chiều nay, bọn khỉ đầu chó cứ làm loạn cả lên. Chắc con báo đã làm chúng hoảng sợ. Thật may là anh đã nhìn thấy nó.
- Tôi cũng nghĩ như vậy. - Trong cơn bốc đồng, anh đưa tay ra nắm lấy tay cô. - Anna, tôi có thể gọi cô là Anna được không? - Và không đợi cô trả lời, anh nói tiếp. - Và cũng xin gọi tôi là Kurt. Tôi muốn cô hiểu cho rằng tôi không có gì đáng phải sợ cả đâu. Cô đừng bối rối vì tôi nhé!
Anna cố gắng phân trần:
- Suốt ngày tôi chỉ ở đây có một mình. Simon thì cứ mải đi săn cá voi và khi trở về thì lại lụi hụi với chiếc máy cày. Chúng tôi chẳng mời ai tới nhà chơi bao giờ. - Cô nuốt một miếng thức ăn và mỉm cười bẽn lẽn. - Nhà chúng tôi nghèo lắm, chắc anh thấy.
Kurt ngả người ra sau, e ngại nhìn lên dãy đuôi gà ở phía trên đầu. Cho tới giờ thì bộ cánh của anh đã hoàn toàn bị vấy bẩn, vậy thì còn gì phải lo nữa chứ? Chuyện này không thể kéo dài mãi được.
Xúc xích cháy xèo xèo, gà tây kêu ộp ộp, một con cú dõi mắt nhìn xuống. Anna đã uống hai cốc rượu vang to và bắt đầu chóng mặt.
Thịt chín, Anna xúc cho Kurt một đĩa sườn đầy có ngọn kèm với khoai tây nướng. Đám sương mù ngày càng trở nên dày đặc nhưng ngọn lửa đã không cho nó lại gần. Anna rùng mình và chất thêm củi vào đống lửa. Cô mỉm cười với vẻ xin lỗi:
- Kỳ quái quá phải không? Giống như trong hang động vậy.
Khi cô ấy cười trông cô ấy lại càng đáng yêu. Nếu cô ấy là vợ mình, Kurt nghĩ, thì cô ấy sẽ luôn được cười.
- Cô nói đúng! - Anh đứng dậy và bẻ gãy một cành cây. - Chúng ta là những người sống sót duy nhất của đoàn thám hiểm Nam cực. Đồ dự trữ của chúng ta đã cạn và đây là bữa ăn cuối cùng của chúng ta. Ngày mai chúng ta sẽ chết, nhưng chúng ta vẫn giương cao ngọn cờ. Tôi đặt tên cho nơi này là Modderfontein. - Anh cắm sâu cành cây xuống đất. Anna cười khúc khích. Trông cô mới trẻ làm sao. Anh cố gắng nghĩ thêm một điều gì đó để làm cô cười. - Chắc là cô lạnh lắm nhỉ? Tốt hơn hết là cô nên uống thêm một chút rượu vang. - Anh chìa cốc ra và Anna đổ đầy rượu vào đó.
- Vị của loại rượu này thật dễ sợ. Ngọt quá! Chỉ có mỗi già Jan là thích uống thôi.
Sương mù áp lại gần họ. Anna dùng chiếc xiên dài xiên nốt phần thịt còn lại và đặt vào chiếc đĩa gỗ.
- Anh ăn đi! - Cô nói.
- Cô không cảm thấy điều gì khi chúng ta ở gần nhau à? - Kurt hỏi sau khi họ ăn xong.
- Tôi chỉ cảm nhận được sự lạnh lẽo của sương mù và hơi ấm của lửa mà thôi.
- Thế mà tôi lại cứ hình dung ra rằng chúng ta đang ở trong một vòm hang băng giá, chờ tới lúc được tái sinh sang một thế giới mới. Tôi sẽ ôm chặt cô trong vòng tay mình... mãi mãi...
- Xin anh hãy nghiêm túc hơn, anh uống thêm rượu vang nữa nhé?
- Không, cảm ơn, tôi không uống rượu nữa đâu, nhưng tôi nói thật đấy. - Anh vươn tay về phía trước, cầm lên một ổ bánh mì, bẻ một miếng nhỏ và đưa cho Anna. - Đây là vật tượng trưng, Anna ạ. Hãy cầm lấy và ăn nó đi. Không hiểu sao tôi lại có một cảm giác rất lạ là cô và tôi đã cùng nhau chia sẻ một quãng thời gian rất dài rồi. - Anh mỉm cười lúng túng. - Hiện giờ tôi chả có gì cả, nhưng tôi có trí óc và có việc làm. - Anh ngừng lời, đưa mắt nhìn lên những cành cây lúc này đã chìm hẳn vào sương mù, nơi những giọt mưa lộp độp trên lá. - Lạy Chúa, cô có thể mời tôi vào nhà nếu trời mưa hay không?
- Ồ, ồ - Anna hơi bị bất ngờ. - Ở đây chẳng bao giờ có mưa đâu. - cô rên rỉ một cách giận dữ. - Ở mọi nơi mưa tới độ đất biến thành đầm lầy để cho cừu đầm mình, vậy mà ở đây chỉ có bụi bặm và hạn hán, không bao giờ có nổi lấy một hạt mưa. Năm ngoái chúng tôi cầu nguyện mãi... Vậy mà tối nay, đáng lẽ phảg. Anh rút hợp đồng ra khỏi túi áo, đặt nó lên mặt bàn và ra về.
Cố gắng rũ bỏ những ý nghĩ về Kurt ra khỏi đầu, Anna quay trở lại làm việc, mải mê tới mức lúc đầu cô không nghe thấy tiếng một chiếc xe tải hạng nặng đang lăn bánh về phía nhà mình. Chỉ tới khi nó chậm chạp bò qua con dốc cuối cùng và làm rung chuyển cả những quả trứng thì cô mới chú ý. Cô chạy ra ngoài, rất ngạc nhiên khi trông thấy chiếc ô tô to đùng của cha mình đang vụng về vòng qua chỗ rẽ cuối cùng. Rồi cô trông thấy chú Acker.
- Ôi, thật vui được gặp lại chú. - Cô la lên. - Chú khỏe không? Mọi người thế nào? - Khi Acker từ trên xe nhảy xuống, cô lao luôn vào vòng tay của ông. Ông là người cô yêu quý nhất, nhưng hình như đã có chuyện xảy ra.
Chú Acker vốn là một người đàn ông cao lớn với ha sải tay dài hơn mức bình thường và đôi chân to khỏe. Ông nặng tới hai trăm pound. Giờ đây người ông teo tóp lại, cánh tay trở nên gầy guộc, không tương xứng với khổ người to lớn của ông. Mái tóc trước đây ông rất chăm cắt nay mọc dài lởm chởm và biến từ màu vàng hoe sang màu bạc trắng, bao quanh khuôn mặc hốc hác phờ phạc. Chỉ có cặp mắt là vẫn không thay đổi, xanh thẳm, ngập tràn ánh nhìn ấm áp và có vẻ ngượng ngùng.
- Chú của cháu, chú gầy quá! - Cô nói, bước lùi trở lại và ngước mắt lên ngắm nhìn chú. Ông mới có năm mươi tư tuổi nhưng trông như đã sáu mươi. - Dạo này chú thế nào? - Cô lo lắng hỏi.
- Ổn cả, ổn cả, cháu gái của chú à. - ông xoa hai bàn tay lên mặt, một cử chỉ quen thuộc. - Chỉ vì đường sá đi lại khó khăn quá. Cần phải làm lại đường cháu ạ. - ông cau mày. - Chú chỉ lo cho cái đàn pianô của cháu thôi.
- Đàn pianô à? - Cô nghi ngờ hỏi lại.
- Có vài thứ khác nữa mà mẹ cháu bảo chú mang tới cho cháu.
- Mẹ cháu về rồi à? - Anna suýt nhảy cẫng lên vì vui sướng.
- Chưa, chưa về. - Acker đáp. Niềm vui chợt tắt. - Mẹ cháu chỉ viết thư cho chú thôi.
Khuôn mặt của ông tối sầm lại khi trông thấy cái bàn bếp xù xì thô thiển, nhưng ông không bình luận gì về cảnh nghèo khổ của cô. Ông chỉ nói chuyện với cô về mười nghìn con cừu karakul và những thiệt hại mà ông phải chịu trong đợt hạn hán năm ngoái trong khi ăn một lát bánh sữa và uống một tách cà phê đen đặc mà Anna đem ra mời.
Hai đứa trẻ thức giấc, la hét ầm ĩ đòi ăn. Chúng đã được năm tháng tuổi nhưng cô vẫn chưa cai sữa cho chúng. Anna tự hào đem chúng tới khoe với chú Acker trước khi đưa chúng vào phòng trẻ cho bú.
Chú Acker tỏ vẻ rất hài lòng vì thấy cậu bé con được đặt theo tên mình, nhưng ông lại nói:
- Bọn trẻ không giống cháu lắm mặc dù ơn Chúa trông chúng cũng khỏe mạnh. Kể ra chúng lớn thêm vài tháng nữa thì thích hơn.
- Chú muốn nói chuyện với cháu một lát. - ông nói khi cô quay trở lại. - Chú muốn hít thở không khí trong lành. Cháu dẫn chú đi thăm trang trại của cháu nhé, có thể gặp luôn cả chồng cháu cũng hay.
Họ đi ra ngoài dưới trời mưa và bước đi hụt hẫng trên những triền đồi tới phía trại gà trong khi Anna kể cho ông nghe về cuộc bán đấu giá, về những hy vọng của cô đối với đàn gà và về nguồn nước mà cô đã tìm thấy. Rồi cô chỉ cho ông xem những đám cỏ linh lăng, lúa mạch và rau mà cô mới tưới nước. Cô chỉ tay về phía xa xa nơi Simon đang hì hụi cày đất để trồng lúa mì.
- Đất này không thích hợp cho việc trồng lúa mì đâu. - ông ái ngại nói với cô.
- Nhưng Simon vẫn nghĩ rằng với phân bón và nước anh ấy sẽ thành công. - Cô bực bội trả lời.
- Thế còn cháu, cháu nghĩ sao?
Cô nhún vai:
- Đây là trang trại của anh ấy mà.
Khi họ quay trở về, bếp lò đã cháy đượm và hơi ấm lan tỏa khắp căn bếp. Nhưng chú Acker ăn món cừu nướng, bí ngô và khoai tây ngọt không mấy ngon lành.
- Chú gầy đi nhiều quá. - Cô bảo ông. - Cháu nghĩ là chú ăn uống không đủ chất.
- Khi nào cháu già như chú thì cháu sẽ không ăn được nhiều đâu - ông nói. - Nhưng Simon đâu nhỉ? Tại sao nó không về ăn trưa với chú vợ của nó?
- Anh ấy vẫn còn giận. - Cô thừa nhận. - Phải làm lụng vất vả để nuôi cả nhà mà. Với lại chú biết không, cha cháu chả cho cháu lấy một chút của hồi môn.
- Điều đó đâu có bắt buộc, bây giờ có mấy ai cần đến của hồi môn nữa đâu.
- Cháu biết, nhưng anh ấy nghĩ cha cháu giàu thế, còn anh ấy chả có gì... Ồ, nhưng mà chắc chú cũng biết hết chuyện rồi, chú Acker nhỉ? Cháu sẽ không kể lể làm gì cho chú thêm buồn.
- Nhưng con người cũng cần phải có phép lễ độ.
- Cháu đã làm anh ấy thất vọng. Cháu không phải là một người vợ mà anh ấy mong muốn. Chú thấy đấy, cháu đang tự mình kiếm sống và đặt kế hoạch cho tương lai.
Khi họ ăn trưa xong, Anna không thể chờ thêm được nữa.
- Cháu có thư không hả chú? Mẹ cháu nói gì với chú vậy?
- Anna, chú tới đây để báo cho cháu một tin buồn. - ông nói. Mẹ cháu đã mất ở Thụy Sĩ rồi. Ba tuần trước, nhưng phải mất hai tuần thư mới tới được tay chú và chú vội vàng bay ngay sang đấy.
- Chết và chôn rồi sao? - Cô thẫn thờ hỏi lại, nhưng trong đầu cô lại đang nghĩ: Chính mình đã giết chết mẹ. Nếu mình không cư xử như vậy thì giờ đây chắc chắn mẹ vẫn còn sống.
Chú Acker bối rối nhìn Anna. Chẳng có một dấu hiệu tình cảm nào lộ ra trên gương mặt của cô cháu gái cả. Trông nó giờ đây như một bức tượng bằng đá, hoàn toàn vô cảm. Một số người là vậy, họ không thể hiện điều gì khi đón nhận một tin tức đau buồn. Họ chôn chặt nỗi đau ấy trong lòng. Nhưng nếu khóc ra được thì tốt hơn. ông thở dài và đưa cho Anna bức thư của mẹ cô.
- Mẹ cháu đã viết bức thư này cho cháu trước khi bà ấy mất, và cha cháu đã gửi nó tới chỗ chú.
- Cháu sẽ đọc sau, chú Acker ạ. - Anna nói.
- Anna này - ông bảo cô. - Đừng tự đổ lỗi cho mình như vậy! Maria mắc bệnh thấp khớp từ khi cháu còn bé cơ, và căn bệnh này đã làm quả tim của bà ấy yếu đi. Chính cháu cũng biết rằng sau đó rất nhiều lần Maria phải chịu đựng những cơn đau tim mà. Khi cháu rời đi bà ấy cũng bị một cơn đau tim như vậy và cha cháu đã quyết định đưa bà ấy sang Thụy Sĩ chữa bệnh. Mới đầu họ chỉ định ở bên đó mấy tháng thôi nhưng sau đó Maria vẫn còn yếu nên họ đã ở lại thêm.
Ông thở dài và nói tiếp:
- Mẹ cháu cũng đã viết thư cho chú cùng thời gian bà ấy viết bức thư này cho cháu. Bà ấy đã liệt kê ra một danh sách dài những thứ đồ chú phải mang đến cho cháu. Nhưng chú chưa đem con ngựa tới đâu, chú nghĩ nên hỏi ý kiến cháu trước đã.
- Josep thế nào ạ?
- Khỏe, nhưng béo lắm. Nó không được luyện tập thường xuyên, cần phải sớm uốn nắn.
- Cháu không có thời gian đâu chú ạ. Với lũ gà và hai đứa trẻ con thì cháu chẳng bao giờ có thì giờ rỗi cả. - Cô vẫn lạnh lùng.
- Chú hiểu. - Acker nói khẽ. Ông ra về sớm hơn dự định, trong lòng vẫn còn đang giận vì sự vắng mặt của Simon.
Anna buồn bã đứng trong sân nhìn theo chiếc xe tải đi xa dần. Không điều gì có thể tệ hơn được nữa, cô nghĩ thầm trong lúc chiếc xe tải dần khuất khỏi tầm nhìn.
Đêm hôm đó, khi Simon và hai đứa trẻ đã ngủ say, Anna mở bức thư của mẹ ra. Ngồi bên chiếc bàn trong bếp với chiếc đèn bão để bên cạnh, cô vuốt phẳng mảnh giấy nhỏ.
  “Anna thân yêu”, cô đọc, “Mẹ đã suy nghĩ rất nhiều về con trong thời gian qua và mẹ đã đi đến kết luận là cuộc đời này quá ngắn ngủi, chúng ta không nên nuôi dưỡng lòng hận thù. Con đã thiếu chín chắn và đã phạm phải một sai lầm đáng tiếc mà mẹ chắc rằng giờ đây con cũng đã có đủ thời gian để mà hối hận Mẹ quyết định tha thứ cho con trong lúc mẹ vẫn còn có thể làm như vậy.
Các bác sĩ bảo mẹ cần phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng nhưng làm sao có thể ngồi yên được trong một khung cảnh tuyệt diệu như thế này. Mẹ đi dạo rất nhiều và thường xuyên nhớ lại những kỷ niệm mà chúng ta đã có tại nơi đây.
Mẹ chưa bao giờ yên tâm được với bệnh tim quái ác nên mẹ đã dự định thế này: Con cũng biết ở Malmesbury mẹ sở hữu hai trang trại, một trong số đó có một ngôi nhà nhỏ nơi người đốc công đang sống. Và có một căn nhà nhỏ trong làng hiện đang cho một gia đình người Đức thuê. Những đứa con của gia đình ấy đã từng học cùng trường với con, chắc con vẫn nhớ? Và mẹ còn có một số cổ phần tại cửa hàng của hợp tác xã làng ta cùng với một cánh đồng ở gần Durbanville. Tất cả những thứ này mẹ sẽ để lại cho các con của con, con nên chia đều cho chúng khi chúng tới tuổi trưởng thành. Mẹ cũng hiểu là con cần tiền tới mức nào nhưng mẹ không thể tin tưởng vào Simon được và mẹ sợ là nó sẽ lấy mất từ tay con. Ít ra bằng cách này con cũng được yên tâm là các con của con sẽ được hưởng một tương lai tốt đẹp và lợi nhuận từ những thứ này cũng để để trang trải việc học hành cho chúng nên con sẽ bớt đi được phần nào gánh nặng gia đình.
Khi nào mẹ trở về, và mẹ hy vọng là điều ấy sẽ sớm đến, chúng ta sẽ lấy lại quãng thời họp ở phòng hội đồng, tôi thấy một đám đông lao ra ngoài đường. Chỉ là những con người bình thường thôi: nào thợ đóng giày, nào người bán cá, những người mà chúng tôi biết rất rõ. Họ đã biến thành những con thú dữ tợn.
Anh rùng mình khi hồi tưởng lại một xác người nằm bất động trên vỉa hè. Đột nhiên, anh vớ lấy bình rượu và đổ đầy vào cốc.
Anh ta say mất, Anna nghĩ thầm.
- Tôi đã có vợ. - Kurt tiếp tục. - Thực ra là đã từng có vợ. Giờ đây Madeleine đã ly dị tôi rồi. Mẹ cô ấy là người Do Thái nhưng cô ấy lại không bằng lòng với nguồn gốc Do Thái của mình. Cô ấy còn sợ hãi nữa. Vỏ bọc nứt ra và cô ấy đã đến với người đàn ông khác.
- Anh ăn nói khó hiểu quá. - Anna nói.
- Không, thực đấy. Mọi người ai cũng sống trong vỏ bọc cả. Họ tự nguyện sống như vậy để tránh sự sợ hãi về những điều mà họ không biết, để được an toàn trong ranh giới của niềm tin, của thói quen. Cho tới khi có chuyện xảy ra, những chuyện khủng khiếp chẳng hạn như một cơn bạo bệnh hay là một người Do Thái ở Đức ấy. Người ta lờ họ đi, mong cho họ biến mất, bịa đặt ra những cậu chuyện vớ vẩn và cố tin vào đó. Như vậy tốt hơn là đối diện với sự thật.
Anna mong anh ta sớm ra về. Cô thực sự hoảng sợ bởi sức hấp dẫn của anh và cái cảm giác rằng đã quen anh từ lâu lắm rồi. Cô đã mệt bã cả người, cô chỉ muốn bò thật nhanh vào giường và trốn ở đó thật lâu. Những tình cảm bột phát đã phá hỏng đời cô. Cô không muốn lặp lại điều đó một lần nữa. Cô hỏi:
- Anh có muốn uống thêm một chút cà phê không?
Anh mỉm cười:
- Thứ lỗi cho tôi, tôi đang cần được nói. Không, tôi không uống cà phê nữa đâu. - Rồi anh đứng dậy. - Tôi phải về đây, cảm ơn cô vì buổi tối dễ chịu. - Trông anh có vẻ bối rối như thể biết mình đã nói quá nhiều.
Cùng lúc này, Wagter trườn vào trong bếp, khắp người ướt sũng và vấy bùn lem luốc. Nó đứng giữa phòng rũ lông khiến những giọt nước bắn tung tóe vào họ.
- Ồ Wagter... Không! Con chó hư đốn! - Anna co rúm người lại và tóm lấy vòng cổ của nó trong khi Kurt đi ra xe. Có một đốm sáng nhỏ nhảy nhót ở mạn sườn đồi bên cạnh nhưng Kurt không muốn chờ Simon trở về. Anh lái xe về nhà, nghĩ rằng mình đã hiểu được Anna. Cô ấy là một phụ nữ hoang dã, cứng đầu và rất đẹp. Nhưng cô ấy lại quá phiền muộn, quá sợ hãi về những tình cảm tự nhiên trong con người mình. Lẽ ra Anna phải được chiều chuộng nâng niu chứ không phải nai lưng ra kiếm sống. Cô ấy chắc chắn sẽ thành đạt, nhưng cũng sẽ phải trả một giá đắt.
Anna đứng ở cửa bếp, nhìn theo chiếc xe của Kurt đi xa dần. Cảm giác xao xuyến lấp đầy trong cô khiến cô buồn bã. Cô quyết định là sẽ không gặp lại người đàn ông đó nữa.
Vài phút sau Simon về tới. Người anh ướt như chuột lột, bẩn thỉu và rõ ràng là đang rất bực bội.
- Nó lẩn vào các bụi cây rồi, - anh bảo cô, - cách đây tới hai chục dặm. Cần phải có một con chó săn tốt hơn. Con Wagter thật là vô dụng. Có lẽ con báo ấy sẽ còn quay trở lại. Anh sẽ rủ thêm vài người hàng xóm nữa tổ chức một đội săn.