CHƯƠNG 12

     ắp tới Noel, tiệm Pizza của Kumar đột ngột đóng cửa. Ông chủ tiệm, lão Toni đã uống rượu khuya, tận say, rồi lại đi tắm, không may bị phải gió, hình như đứt mạch máu não. Lão đột tử.Vợ lão, bà Riona không thể điều hành tiệm đã sang phắt tiệm cho một người Thổ chuyên bán món bánh Doenerkebap bánh mỳ truyền thống. Doenerkebap là loại bánh mỳ truyền thống của người Thổ, giữa kẹp thịt cừu nướng. Nó có mùi vị đặc biệt thơm, bởi hương liệu ướp thịt được gia tẩm, chế biến rất cầu kì, đầy bí quyết.
Kumar không thể đứng bán bánh tại cửa hàng, vì công việc ấy chẳng dễ dàng gì khi người bán loại bánh mì này phải biết sử dụng con dao dài gần một mét, lia nghiêng, cắt chéo như múa trên cây thịt đứng, cho những lát thịt đã chín mỏng tang rơi lả tả xuống khay trong khi xóc thịt cứ quay tròn, tiếp tục cho giàn lửa đốt rộm chín phần hồng vừa lộ ra sau nhát cắt. Động tác của kẻ đứng bán nhanh thoăn thoắt, quá quen với từng thao tác, bởi vì họ, những người Thổ đã bao đời bán loại bánh rất riêng, độc nhất vô nhị trên thế giới.
Cửa hàng cũng chẳng cần người chạy xe đưa bánh đêm. Doenerkebap tuy có kẹp nhiều cải bắp, thái nhỏ như miến, sống, giòn tươi, giàu vitamin, nhưng thịt cừu nướng vốn lắm đạm và béo, gây khó tiêu, cho những chén mà lại không hoạt động, nằm dài, nghển cổ trên sa-lon mà dòm tivi. Những người Đức ăn uống rất kiêng cữ, tính toán chi ly, mấy ai cứ đêm khuya lại thích ăn thứ bánh có kẹp hơn lạng thịt khó tiêu này! Nó có thể gây đầy bụng hay béo phì.
Chính vì thế, tay người Thổ, chủ tiệm mới không cần tới Kumar nữa.
Kumar báo tin ấy cho Quyên ngay vào ngày anh bị sa thải. Nhưng anh không có biểu hiện buồn bã khi đáp lại câu hỏi của Quyên trong bữa ăn tối, quanh việc thất nghiệp. Dường như ở anh, quá trình sống ở Đức đã dạy cho anh hiểu, phải biết sống, sẵn sàng chấp nhận sự bếp bênh của thị trường lao động mà những kẻ như Kumar chỉ là công dân hạng ba.Nhất là việc đưa bánh, nặn bột, hoặc đứng bán bàn trong các quán ăn nhanh đều là loại lao động phổ thông, công việc đơn giản, rất dễ thay thế, thì sự mất việc phải chấp nhận như một lẽ thường tình. Có lần, một Angerstrlerin của Sở Lao động thành phố chẳng đã nói với anh rằng, ở Đức với hơn 5 triệu người thất nghiệp thì người lao động nào đã trên 35 tuổi đều được coi là già. Năm nay Kumar đã ba tám tuổi. “Anh già rồi. Ốm tha già thải!” Kumar vẫn có thể nói đùa như vậy với Quyên trong bữa ăn tối ấy, sau đó anh vẫn xắn tay áo lên, co bắp tay lại, co bắp tay lại, cho Thanh Vân nghịc sờ vào con chuột nổi cuộn, rắn cưng.
Nhưng Quyên biết, người lao động ở xứ này đều coi thất nghiệp là một tai họa. Không có việc làm, có nghĩa là không có tiền. Bởi vì số tiền trợ cấp thất nghiệp của những lao động đơn giản chi nhằm đủ sống, dư dật dăm đồng một tháng thì chả đáng là bao. Khi thất nghiệp, người ta chẳng có một cơ hội nào dư tiền để đi du lịch và các nhu cầu giải trí cũng sẽ hoàn toàn bị hạn chế. Sống không đi đâu đó, không vui chơi giải trí, quẩn quanh với một thời gian biểu diễn đều tăm tắp, ngày tiếp ngày lặp lại như khuôn đúc, tức là cuộc sống vô cùng nhàm chán, buồn tẻ. Và, đối với những người ưa hoạt động, còn sung mãn như Kumar, hẳn đó là sự “ăn không, ngồi rồi”, và chính là sự nhàn nhã ấy khác gì sự tra tấn âm thầm từng ngày mà Kumar cảm thấy. Hơn nữa, hàng ngày Kumar còn phải gửi tiền về cho mẹ. Anh sẽ tìm đâu ra khoản chi ấy, khi việc chi dùng cho Thanh Vân, nếu chỉ dựa vào trợ cấp của xã hội, Quyên cũng phải hết sức dè sẻn.
“Đã tới lúc mình phải tìm một việc nào đó mà làm thôi, dù có phải làm chui, làm lủi hay công việc chả ra sao ở cái xứ hiếm hoi việc làm chính thức này” – Quyên nghĩ ngay điều ấy khi biết tin Kumar thất nghiệp. Con người ta phải hiểu tình thế, phải biết thân, biết phận và không được lạm dụng, nương tựa thái quá, kể cả đối với bạn bè và người tốt bụng như Kumar, cho dù anh luôn thương Thanh Vân và cũng luôn luôn không muốn cô vất vả.
Tháng Noel, Quyên xin được một chân phụ giúp bán bánh tại tiệm bà Muzac. Công việc hơn ba giờ đồng hồ mang về cho cô hai mươi Euro mỗi ngày. Số tiền không đáng là bao, nhưng tích góp lại, dần từng ngày thành tấm, thành món, làm anh thật vui. Tháng đầu có tiền, cô mua một đôi tất dài cho Thanh Vân, mua cho Kumar một đôi quần lót và một chiếc áo sơ-mi trắng, một chiếc khăn Ả Rập. Chiếc khăn vải hình ca-rô đen trắng tương phản rất to, làm từ sợi bông gai mềm mại, quấn cổ những ngày gió tuyết rất ấm ngực. “Nom anh giống như chiến binh của ông Araphat”, Quyên cười nói khi quàng chiếc khăn lên vai Kumar.
Nhưng công việc của Quyên cũng không kéo dài quá mùa xuân năm sau.
Gần nửa tháng tiếp đó, cả hai người lại không có việc làm. Dù yêu nhau tới mấy, Quyên tự cảm thấy cuộc sống hàng ngày cứ lặp đi lặp lại vô cùng tẻ nhạt. Quyên hay đẩy con đi chơi cho khuây khỏa, đi lại nhẵn chân trên từng ngõ ngách… đến nỗi cả thành phố rộng lớn như thế mà nơi nào cũng trở nên quá quen thuộc.
Kumar hầu như thấu hiểu hết mọi suy nghĩ của Quyên. Anh thường lựa lời an ủi cô những ngày cô buồn. Anh nói rằng, rồi cả hai sẽ có việc làm. Phải kiên nhẫn. Anh còn bảo như một hiền triết, rằng người ta chẳng bao giờ buồn mãi, và cô quạnh mãi. Có hôm còn ví von một câu mà Quyên không ngờ, y như một người Việt già từng trải và am hiểu: “qua cơn bi kịch tới ngày thái lai”. Có những ngày mưa lê thê hay tuyết tràn ngập, Kumar ngồi bên Quyên suốt, hết sức kiên nhẫn, lắng nghe cô kể về quê hương, nỗi nhớ tràn ngập trong cô về thành phố, con đường, cơn mưa và ngôi nhà. Có nghĩa là, bất cứ điều gì ở cô trăn trở, lo âu hay phiền muộn đều có thể nói cho anh. Khi ấy, Kumar ngồi bên Quyên, nắm chặt lấy bàn tay cô trong lòng đôi bàn tay ấm áp mà lòng tay lại vàng, chẳng đen kịt như nước da của anh.
Thời gian cứ thế trôi đi như thế, trong một nhịp sống có nhiều khi tĩnh lặng, trên một căn hộ không rộng quá, làm cho Quyên có điều kiện quan sát, suy nghĩ, thậm trí so sánh Kumar với dăm người đàn ông khác để nhận rõ anh càng sâu sắc hơn. Cô chẳng còn ở cái tuổi để mà yêu hờn, yêu dỗi nữa. Cô cũng không phải là hạng người sau những sự cố đau đớn, khủng khiếp với giới đàn ông trong tình ái, trở nên mất hết niềm tin và hy vọng về tình yêu và hạnh phúc, để hoàn toàn thất vọng, coi đàn ông đơn thuần là giống đực, nhằm vào đó sự trả thù hoặc những sự mua bán, đổi chác, chỉ đơn thuần có lợi về vật chất. Ngay cả trong điều bất hạnh xảy ra với Hùng ở biên giới. Đôi khi phải nhớ lại vì một duyên cớ nào đó, cô vẫn giữ lại phần tử tế và tốt đẹp, nhất là trong thời gian cuối, khi cô có thai. Khi thật yên tĩnh, nhìn lại dĩ vãng, cô phân tích, nhận rõ từng nét khác biệt trong tình yêu của từng người đàn ông đã dành cho cô. Với Dũng chỉ là một tình yêu vị kỷ; ở Hùng, thứ tình yêu đầy bản năng; ở Phi, một thứ tình cảm không hội đủ bản chất đàn ông để hòa nhịp với tâm hồn của cô. Thứ tình cảm của anh ta định dành cho cô, cũng chỉ là nhu cầu bản năng bình thường, mong cầu một gia đình mà thôi.
Giờ đây, Quyên chẳng còn là Quyên của hôm qua, không phải là tuýp phụ nữ chỉ cần một người đàn ông, một tấm chồng. Cô không chỉ mong, chỉ ở tư cách làm vợ, sinh con, kể cả yêu cô biết mấy. Cô đã quá đau khổ, đã nếm trải, đã trở thành tuýp đàn bà không giản đơn và thụ động. Sự hy vọng không bao giờ chết đi, cô khao khát, đòi hỏi người đàn ông của cô đầy đủ phẩm chất, những tiêu chuẩn của riêng cô. Phải đến với cô, trước hết một tình yêu bản năng, nguyên sơ, mãnh liệt nhất của phái mạnh. Đấy là điều đầu tiên và cần thiết. Nhưng điều đầu tiên ấy vẫn chưa đủ để cho cô một tình yêu mãn nguyện. Cô nhận ra từ những thất bại và không may mắn của mình, rằng một người đàn ông chỉ bản năng yêu, dù cũng mãnh liệt tới mấy, không có thể gìn giữ, nuôi nấng một tình yêu bền vững mãi với thời gian. Sự gắn kết của hai tâm hồn, nhất là với cô, người đàn bà có dĩ vãng và tâm hồn chẳng hề giản đơn, còn cần ở tâm hồn con người khác giới kia, phải là một sự hiểu biết, từng trải, để có thể hiểu cô, chia sẻ và bao dung, trân trọng và thông cảm. Một tình yêu bản năng thôi, sao mà đủ sức mà gánh chịu một tâm hồn nhạy cảm dễ tổn thương như cô. Vâng cô nhận ra những vẻ đẹp, dù sắc nước, hương trời tới mấy, đều trở nên nhàm trán, khi con người ta quá quen thuộc với nó và, khi đó, khái niệm trung thủy trở nên phù phiễm và vô nghĩa.
Những suy cảm ấy cứ xoáy cuộn, chất chứa trong cô. Cô nhận ra, Kumar là người đàn ông có đầy đủ phẩm chất mà cô đòi hỏi mong chờ.
Suy nghĩ như vậy, Quyên cảm thấy yêu sống hơn, cảm giác buồn chán không phải là mất đi, mà cô đã được người bạn, người cô yêu – Kumar, cầm tay cùng đi, bên nhau vượt qua nó.
Tất nhiên Kumar cũng chịu khó lân la khắp nơi xin việc. Thành phố hơn hai mươi ngàn kẻ thất nghiệp và anh chỉ là con số lẻ đứng xếp hàng tận phía dưới.
Thời gian vùn vụt trôi. Rồi Kumar cũng xin được việc, dù chỉ là ba tháng trong một xưởng chế biến thịt nguội. Hàng ngày, anh xẻ vài tấn thịt lợn và bò các loại. Anh xay chúng nhỏ ra tùy theo việc chế biến các món ăn nguội cho xưởng. Công việc không tới nỗi nào và đang quen dần thì lại mất việc. Giá cả leo thang từng tuần, đồng bạc mất giá sau khi đổi tiền từ đồng D.mark sang Euro, và nạn thất nghiệp vẫn ở con số năm triệu người khiến cho việc tiêu thụ cũng chững lại. Người ta, những người đàn bà đi chợ búa, cơm nước đắn đo hơn, trước khi cầm một miếng xúc-xích hay giăm-bông đóng gói bỏ vào làn.
Sau khi thôi việc ở xưởng chế biến thịt nguội một tuần, thật may sau khi đọc báo, Kumar tìm ngay được chân phụ bếp trong một tiệm ăn của người Trung Hoa.
Công việc phụ bếp đơn giản nhưng thật tồi tệ. Anh phải tới quán ăn rất sớm để phụ giúp chuẩn bị dụng cụ xoong chảo và rời quán sau cùng, khi đã làm sạch tất cả dụng cụ, bát đĩa cho ngày bán hàng hôm sau. Những bữa vào ngày nghỉ, buổi tối thực khách đông nườm nượp. Hơn mười bốn tiếng lao động một ngày. Mãi về sau này, mỗi khi đưa qua bất cứ một quán Tầu nào, anh vẫn không khỏi rùng mình. Anh lập tức nhớ lại cả quá trình lao động trong quán Tầu, từ cái biển hiệu màu đỏ chói lọi, thếp vàng kia. Sự nhớ từa tựa như khi người ta chợt nhìn thấy máu mà hồi tưởng tới chiến cuộc.
Kumar có lần kể với Quyên rằng, không thể tưởng tượng được khi đứng trước đống bát đĩa và dao, thìa, dĩa cao như núi, mà bất kỳ người phụ việc nào cũng phải cố tìm cách thao tác sao cho kịp với cả dây chuyền, từ khâu chuẩn bị và nấu nướng, tới việc bưng bê rồi dọn bàn cho khách. Anh kể, rửa thìa dĩa khó sạch, vì mỡ và thức ăn thừa luôn nhằng nhằng bám chặt các khe kẽ, cho dù nước rửa có đậm đặc chất tẩy bẩn tới làm bỏng tuột cả da tay. Sau này, anh nói, động tác phải thành thục tới mức, chỉ cần đưa tay nhấc thìa hay dĩa lên khỏi mặt chậu nước rửa, nó đã phải sạch, hết cáu bẩn và thức ăn dính vào, rồi phóng nó như ném phi tiêu một cách chính xác vào khay đựng cho ráo nước. Động tác như làm xiếc! Cái thìa, dao, dĩa chỉ cần tuốt một nhát bằng khăn mềm, rồi lập tức rút tuột khỏi khăn đã vút đi, chính xác không sai một ly, từng loại rơi chúng vào các ô đựng riêng biệt. Có như thế mới kịp cho cả một quán đông tới hàng vài trăm người mà thực khách lại rất khó tính, không thể chấp nhận một vệt chân tay trên một cái thìa, con dao ăn, hay một cái ly uống trong văn vắt.
Anh trở về nhà lúc nửa đêm khi thân thể đã rã rời. Quyên cũng nhận ra, bàn tay anh vì vầy quá nhiều trong nước rửa, nên từng mảnh da tróc ra. Cô mua cho anh những lọ kem dưỡng da hảo hạng nhất mà vẫn không chặn được sự hủy hoại của nước tẩy đậm đặc. Nhưng cũng chính thời gian phụ bếp tại đây, Kumar lóe lên ý nghĩ, tại sao anh không thể làm một ông chủ nhỏ, mở một quán ăn nhanh trong thành phố thoát khỏi tư cách người làm thuê bấp bênh.
Sớm hôm sau, trong bữa sáng, Kumar nói ý nghĩ ấy của mình cho Quyên nghe. Mắt Quyên sáng bừng lên khi nghe tỏ câu chuyện. Nhưng lấy đâu ra số tiền khoảng ba chục ngàn Euro mà mở quán bây giờ? Hóa ra mọi ý tưởng tốt đẹp, đầy hy vọng, vẫn phải dựa trên nền tảng: đồng tiền. Thế mà tổng cộng toàn bộ số tiền họ có cũng chỉ vẻn vẹn chưa đầy chục ngàn Euro. Chừng nấy tiền có được, mà muốn mở quán? – Đó chỉ là một ước mơ xa vời.
– Chúng ta phải tiết kiệm để có tiền mở quán. – Kumar đập tay xuống bàn nói với Quyên tối hôm ấy.
Thời gian vẫn như con thoi, hết xuân tới hè rồi sang thu. Thấm thoát mùa đông lại về. Những đợt tuyết, băng chẳng mong đợi từ biển Bắc tràn vào lục địa, làm đất đai khô đi, cứng đanh và mọi vật cứ teo tóp, hanh hao dần, rồi chính thức mùa đông lại về, phủ lên toàn thành phố một màu trắng xóa.
Thanh Vân cũng đã lớn. Để có thời gian rảnh rỗi mà kiếm bất cứ việc gì làm thêm. Quyên bàn với Kumar gửi nó tới nhà trẻ. Cứ ba giờ chiều, không có Quyên thì Kumar tới đón Thanh Vân. Phải xa con như vậy, Quyên xót xa lắm, nhưng Kumar lại hoàn toàn khẳng định rằng, trẻ con nếu sống ở nhà trẻ, người mẹ hoàn toàn yên tâm và đứa trẻ sẽ được dạy dỗ một cách cẩn thận hơn. Hơn nữa, Kumar nói, phải cho nó tới nhà trẻ, ở đó nó được học tiếng Đức cơ bản một cách cẩn thận và nhanh chóng nhất. Quyên cũng không an tâm mấy, mặc dù được Kumar chấn an, phân tích như vậy.
Cô thường tới rất sớm có đủ thời gian để ngắm nhìn bé Thanh Vân của cô sống như thế nào. Chỉ hai tuần quan sát con, Quyên mới hoàn toàn yên tâm và công nhận quyết định của họ là đúng. Thanh Vân chơi với trẻ Đức. Quyên nhận ra nhà trẻ với con cô, thứ không khí mà tại bất kỳ gia đình người Việt nào cũng chẳng thể mang lại được, dù cho là gia đình có yêu thương trẻ tới mấy, khi trong nhà chỉ toàn người lớn, con trẻ chẳng thể chơi theo kiểu riêng theo thế giới của chúng. “Việc chăm lo thật là tuyệt hảo. Hai cô giáo chăm sóc có mấy đứa bé. Họ dạy cho nó nói đúng ngữ điệu tiếng Đức. Và quan trọng nhất họ dạy cho con lòng từ tin khi chơi, khi ăn và cả khi vệ sinh bằng phương pháp sư phạm đầy tin yêu và bài bản”. Cô nói với Kumar như vậy.
Nhờ việc cho Thanh Vân đi nhà trẻ, Kumar và Quyên có nhiều thời gian rỗi. Họ bắt đầu như đôi ong cần cù, thu va hà vén, vừa chăm sóc Thanh Vân, vừa nhặt từng đồng bạc kiếm được trong các vụ thu hoạch sản vật nông nghiệp, như thu măng tây, hái dâu và hái táo… ở các vùng quanh thành phố. Hết mùa thu hoạch họ lại chịu khó tìm đọc báo, nhận việc vệ sinh hành lang hay lau dọn, giặt giũ cho những người Đức, những người già tàn tật cần trợ giúp trong vài buổi, để có thể vài chục tới trăm Euro bỏ dần vào tài khoản tiết kiệm.
Trước Noel dăm hôm Quyên thấy bồn chồn lạ. Cô có cảm giác ai đó đang nhắc tới mình. Tối thứ bảy, Quyên đón Thanh Vân về nhà, rồi đi chợ mua đồ ăn thức uống cho hai ngày nghỉ. Cô dặn Kumar ở nhà đặt nồi cơm điện và giặt đống quần áo cả tuần đầy ngồn ngộn hai thùng.
Kumar vừa nấu xong cơm thì có tiếng chuông gọi cửa. Anh cứ đinh ninh Quyên đi mua thức ăn cho hai ngày nghỉ đã về, nên cũng chẳng nhắc phôn hỏi ai gọi chuông, cứ bấm nút cho cửa bật ra. Dăm phút sau, Kumar thật ngỡ ngàng, bàng hoàng, khi nhận ra Phi đứng trước cửa nhà vừa mở.
Phi, đúng là Phi, chứ không ai khác: “Có lẽ anh ta đã mãn hạn tù”- Kumar thoáng nghĩ.
Cửa bật mở. Nhìn thấy người đón mình không phải là Quyên, Phi lúng túng giây lát.
Suốt ba tuần vừa ra khỏi tù đã đi khắp nơi tìm Quyên. Những người ở trại tị nạn có mách rằng, Quyên đang ở đâu đó trong thành phố này với gã Sri Lanka nào đấy, gã cũng chẳng tin. Gã dò hỏi khắp các tiệm bánh, quần nát cả thành phố tìm mẹ con Quyên. Cuối cùng, thật vô tình, một người đưa báo có mách rằng, ở thành phố Anne Frank có một gia đình, người chồng gia đen, còn người vợ và đứa con là người châu á. Gã thuê xe taxi chạy thẳng tới đây.

*

– Anh đã trải qua gần sáu trăm ngày trong tù. Một người đã ở tù, ít nhiều hiểu sự tự do trong đời sống con người quý hiếm như thế nào. Anh đi tìm em mãi suốt hai tháng nay, vì anh rất yêu em, muốn lấy em làm vợ. Em hãy tin anh anh. – Đôi mắt của Phi đầy xúc động, không nhìn thẳng vào mắt Quyên, khi họ ngồi đối diện bên nhau. – Không ngày nào trong tù mà anh không nghĩ tới em, trong mơ cũng thấy em. Anh ra tù. Việc đầu tiên anh nghĩ tới là đi tìm em. Anh bây giờ hoàn toàn tự do và đầy đủ điều kiện để đảm bảo cuộc sống cho một gia đình. Cả em và con không phải lo lắng gì cả. – Phi định nói gì đó nữa, bỗng nhiên im bặt. Đôi mắt gã tha thiết đắm nhìn Quyên như cầu khẩn, van lơn.
– Quyên, anh yêu em! – Gã thốt lên.
Quyên không đủ sức nghe lời gã. Trước mắt cô là Phi. Tai cô nghe rõ từng lời của anh ta. Những lời nói của Phi, cô tin rằng nó không giả dối. Nó là tiếng kêu não ruột, chân thành và thẳng đuột cất lên từ đáy lòng của người đau khổ. Cô nhìn ra ban-công.
Tiếng Thanh Vân gọi “papa” từ phòng bên vọng sang. Cô biết, Kumar đang chơi với Thanh Vân. Chính Kumar đã gọi điện cho cô về. Cũng chính anh đã chủ động để cô và Phi nói chuyện riêng. Chắc nhìn vẻ mặt căng thẳng của Phi nói chuyện riêng. Chắc nhìn vẻ mặt căng thẳng của Phi khi anh ta ngồi chờ cô, hình như Kumar đã đoán được vì sao anh ta lại tới đây. Cô tưởng tượng Kumar đang chống hai tay xuống đất, bò lổm ngổm làm ngựa cho Thanh Vân cưỡi. Tiếng bé Vân khanh khách cười và tiếng Kumar giả làm ngựa hí vang lên.
Cô tin ở lời Phi nói. Hai năm trong tù, giờ nom Phi có vẻ già giặn đi nhiều. Đôi mắt anh mệt mỏi, đuôi mắt đầy những nếp nhăn. Cô thoáng nhớ lại cảnh cảnh cái đêm ấy, hôm tại quán của Phi và rùng mình. Cô không yêu Phi, không một lần yêu anh. Không yêu anh thì không thể là vợ chồng, dù mỗi khi nghĩ tới anh và hiện tại cô vẫn thấy thương Phi vô cùng. Cũng là cảnh xa quê cả, lại chung một đêm như thế, một đêm mà dù có chết cô cũng không bao giờ quên được. Thực ra hậu quả của việc Phi mang án, cũng xuất phát từ tình yêu gã dành cho cô. Sự hy sinh tới dũng cảm không ngờ khiến Phi trỗi dậy giải thoát cho cô đêm ấy, kể cả việc ban đầu anh tự nhận tất cả tội lỗi và không khai ra cô, tránh cho cô khỏi bị phiền lụy. Cuộc đời oái oăm thế, cô yêu người chồng cũ, thì chồng không thể che chở, khoan dung cho cô. Cô không yêu Phi mà anh ta chung tình tới thế. Nhưng giờ đây, cô đã có Kumar với bé Thanh Vân, khi Kumar đã hoàn toàn choán trọn trong trái tim cô, điều rõ như ngày ấy làm Quyên lúng túng. Sự lúng túng không phải là băn khoăn chọn lựa giữa Kumar và Phi, mà chỉ là việc trả lời Phi sao bây giờ anh khỏi tổn thương mà vẫn không lừa dối anh?
– Anh Phi này. Tới giờ ăn rồi. Em dọn cơm và anh cùng ăn với gia đình em nhé.
– Gia đình nào? Phi rướn lên.
– Thì anh thấy đấy. Kumar là chồng em! – Cô nói dối và tự thấy nóng mặt. Quyên cúi mặt xuống.
– Kumar đã là chồng em? Không, tôi không thể tin. Ngày xưa, cô sợ anh ta lắm cơ mà. Cô đã chứng kể… Quyên xua tay. Cô nhìn sang phòng bên: “Chuyện dài lắm. Ngày xưa khác anh ạ. Kumar là ân nhân mãi mãi của em và Thanh Vân. Xin anh hiểu cho!”. Quyên ngập ngừng một lát, rồi nhìn thẳng vào Phi nói: “Anh phi, em biết là anh yêu em thật lòng. Nhưng như anh biết đấy, câu chuyện của chúng ta đã để cho em một vết thương khá lớn. Đôi khi nghĩ lại, em vẫn chưa hết bàng hoàng. Người ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông. Nữa là, hiện nay, em đã có Kumar. Bây giờ dù thế nào ba người chúng em không thể chia tách được, xin anh hãy hiểu cho!“
Phi ngồi như câm lặng tới dăm phút, rồi gã đứng dậy. Đôi mắt gã khi ấy buồn thật buồn. “Thế là rõ cả rồi! Tôi thật là bát hạnh”. Gã xô ghế đứng dậy, nhìn quanh nhà một lượt rồi đăm đăm nhìn Quyên. Có lẽ phải tới dăm bảy phút sau, Phi mới cất lên lời. Quả thật, trong lòng gã khi ấy thật đau đớn. Có lẽ đời không còn từ nào có thể tả hết nỗi đau của một kẻ như Phi trong giờ phút ấy. Gã nói:
– Tôi thật không ngờ. Tôi chẳng thể nói thế nào cho em hiểu lòng tôi bây giờ. Thôi, tôi cầu cho em hạnh phúc mãi mãi!
Phi đứng dậy, chầm chậm đi ra khỏi nhà. Quyên cũng đứng dậy: “Anh Phi, anh không ở lại xơi cơm với mẹ con em một bữa cơm?”. Nói vậy nhưng trong lòng Quyên khi đó thật sự không muốn giữ Phi ở lại. Quyên bước theo, tiễn chân Phi ra tận cửa dưới tầng một.

*

Bữa cơm tối ấy diễn ra như thường nhật, nhưng dường như Quyên và Kumar đều không muốn nhắc tới Phi, dù rằng Quyên, lòng dạ cô vẫn ngổn ngang vô cùng. Sự việc Phi vừa xuất hiện đã gây cho Quyên bao suy nghĩ. Rõ ràng, cô chưa khi nào yêu Phi, nhưng thời gian cô ở với anh ta chẳng đã có biết bao vui buồn, bao ân tình mà Phi đã dành cho mẹ con cô. Con người ta, mấy ai có thể thờ ơ, lạnh lùng, vô cảm để không nhớ tới một con người như anh ta. Bây giờ mới ra tù, anh ta sẽ sống ra sao? Anh ấy yêu mình, lại thất vọng vì sự khước từ của mình? Ở chốn tha hương này, anh ta sẽ bấu víu vào đâu? Bao nhiêu câu hỏi tương tự đặt ra như vậy thì làm sao Quyên có thể yên lòng?
Quyên vào giường nhưng không sao ngủ được. Hình ảnh của Phi cứ lởn vởn trong cô. Con người như Quyên làm sao có thể thờ ơ được với nỗi đau của người khác, hơn nữa đó lại là Phi, người đã chở che cho mẹ con cô một thời gian dài. Anh ta thật đau khổ. Không biết bây giờ anh ấy sẽ sống ra sao. Mình không yêu anh ấy, không thể gá tạm mà thương hại nhau được. Rõ cả rồi, nhưng lòng cô vẫn áy náy không yên, cứ nhắm mắt là đôi mắt đầy đau khổ của Phi khi tay lại hiện lên.
Nửa tiếng sau, Kumar vào phòng, nằm xuống bên cô.
– Em vẫn chưa ngủ? Em mệt hả?
– Không. À, vâng, em hơi mệt.
– Em mệt vì đang suy nghĩ gì phải không?
– Vâng. Em nghĩ về anh Phi.
Họ im lặng dăm phút, Kumar xoay người về phía Quyên. Anh choàng ôm lấy cô.
– Anh Kumar này. Anh Phi sẽ sống ra sao? Anh ấy vừa ra tù. Một người vừa ra tù, không họ hàng, không bạn thân, không vợ con. Anh ấy hoàn toàn cô độc. Người như anh ấy, khi đã mất tất cả, liệu sẽ sống ra sao? Ở nước Đức này, người có án thực khó mà có một cơ hội để có công ăn việc làm tử tế. Anh ấy đang cần chúng ta, như ngày nào em cần ai đó giúp đỡ. Ngày mai chúng ta tới thăm Phi anh ạ.
Kumar ôm chặt Quyên vào lòng. Anh hiểu hơn ai hết con người Quyên. Quyên yêu anh, cô không vô ơn và đầy thương sót cho Phi, dù rằng anh dự đoán và tự tin rằng, tình yêu của Quyên chỉ dành cho anh.
– Ừ, ngày mai chúng ta sẽ tới thăm Phi.

*

Cũng không khó lắm để tìm ra địa chỉ của Phi. Một kẻ vừa ra tù trong cái cộng đồng nhỏ xíu bằng bàn tay, nhưng lại lắm kẻ ngồi lê mách lẻo.
Kumar bấm chuông. Cửa tự động rè rè mở. Phi ở tầng năm. Căn hộ có ban-công vừa nhìn ra cánh đồng và con sông, lại có thể nhìn thẳng xuống cửa cầu thang căn nhà.
Phi thật bất ngờ khi Quyên và Kumar cùng cả Thanh Vân tới thăm gã. Gã xăng xái chạy đi pha nước. Lấy gói chíp và hộp đựng những viên kẹo socola hiệu Merci giòn tan cho Thanh Vân.
Câu chuyện ban đầu ấp úng tẻ nhạt. Họ nói với nhau về thời tiết tuần qua, về việc Thanh Vân đi nhà trẻ, về nạn thất nghiệp. Quyên chỉ im lặng. Cô im lặng quan sát phòng khách. Hình như tất cả vật dụng đều mua mới. Cô không biết, cửa hàng cũ, nơi cô từng ở, sau khi Phi đi tù thì ai quản lý, nhưng cô không dám hỏi Phi điều ấy.
Để phá tan sự buồn tẻ của cuộc gặp gỡ, Kumar rụt rè hỏi, sao Phi lại ở khuất nẻo thế này. Theo anh, những người Việt xưa nay vốn hay quần tụ Phi rướn mắt nhìn Kumar. Gã hiểu câu hỏi của anh chàng da đen. Gã không trả lời ngay mà vào tủ bếp lôi ra chai rượu Goldweien ra đặt kịch trê bàn. Phi rót ra ba cốc lớn. Gã nhìn Quyên vẫn đăm đắm và lịch sự nâng ly nói rất sến, y như diễn viên phim: – Xin mừng sắc đẹp và hạnh phúc của em!
Cả ba người nhâm nhi rượu mà không ai muốn nói gì trước. Uống tới hai cốc, khuôn mặt Phi ửng lên, rồi tái đi.
Gã phá tan cái trầm lắng của buổi gặp gõ và nói một hơi không nghỉ:
– Tại sao tôi chọn khu nhà tận cuối thành phố đặc dân Đức xung quanh này ư? Tôi chẳng giấy gì Kumar và Quyên cả. Bây giờ tôi đã là một người giàu có. Một kẻ có tiền như tôi hôm nay, so với người Đức chẳng bõ bèn gì, nhưng với cộng đồng Việt thì tôi hẳn là miếng mồi cho bất cứ kẻ thảo khấu nào muốn dòm ngó, thòm thèm. – Phi dừng nói. Gã nhìn cả Kumar và Quyên vài giây như muốn chờ đợi cả hai phản ứng gì đó. Nhưng Quyên và Kumar đều im lặng. Thấy vậy, gã lại rót thêm cho riêng mình một cốc nữa và nhẩn nha nói tiếp:
– Nhiều người Việt khác, họ không như tôi, họ quần tụ như một nhóm, giống một thôn, một cái làng nho nhỏ của người Việt đã hình thành ở bao nhiêu nơi trên cái nước Đức này. Không! Tôi chọn cách của tôi. Đó là cách tốt nhất để bảo vệ mình. Hai năm ở trong tù, ngẫm ngĩ lại nhiều điều xảy ra ở nước Đức, tôi quyết định sống theo cái cách của riêng tôi. – Phi hắng giọng, nhìn Quyên vài giây, nói tiếp:
– Người Việt trước nạn cướp phách từ những năm 90 tới 98, hay co cụm và sống trong cùng một khu chung cư. ở thành phố nào bên phía Đông Đức cũ cũng vậy. Nhưng sự co cụm ấy hoàn toàn không có nghĩa để tạo nên một sức sống mạnh tự vệ mà chỉ tạo được tâm lý đỡ sợ hãi, hay giảm đi tâm lý sợ hãi, lo bị sợ hãi, bị cướp, chứ khi co cụm như vậy, hiếm ai để tâm xây dựng cho quần thể ấy có ý thức tổ chức và kỷ luật, nhằm tạo thành một cộng đồng có đủ sức mạnh. Anh cứ để ý mà xem, những người trung hoa lại khác. Họ quần tụ vì kinh doanh và buôn bán. Trong mối quan hệ làm ăn ấy, có những quy ước không văn tự mà chúng ta chẳng hiểu nổi. Song họ luôn là một quần thể đoàn kết, bao bọc và thống nhất hơn chúng ta. Người Việt mình, – gã quay sang nói với Quyên, – dầu có ở chung vài chục gia đình với nhau, vẫn mạnh ai nấy sống. Có trận cuồng phong nào, chúng ta xô dạt, tan dã. Co cụm nhưng chẳng ai nghe ai cả là sự tập hợp bầy đàn vô ý thức. Sống ở Đức lâu, Kumar chắc biết rõ điều đó.
Kumar gật gù:
– Tớ sống ở trại, thấy các bạn hay tụ tập uống rượu đánh bài. Đồng hương đồng khói!
Màn hình vô tuyến đã tắt tiếng, bỗng chớp chớp. Kênh ZDF đang chiếu phim về những cánh rừng châu Phi. Phi cầm lấu bản điều khiển ấn nút tắt máy. Màn hình vừa trôi qua hình ảnh những bầy thú nháo nhào vượt sông. Chúng hốt hoảng chạy tung toé trong lòng sông ngầu bùn, khi có con sấu lớn lao tới, há toác mõm cắn vào đùi một con thú, rồi quằn mình vật vã dìm con mồi đến chết ngạt.
Quyên loé lên một ý nghĩ, nhưng cô lặng yên.
Ơ hay, người Việt như cô thấy ở đây vốn làm cô sợ hãi mà xa lánh cũng là biểu hiện như Kumar và Phi nhận xét. Vậy sự ly tán, chia rẽ bởi cái gì mà ra? phải chăng đó là hệ quả của một cuộc sống mạnh về bầy đàn, địa phương, phe nhóm?
Cô nhìn Phi, khích lệ; – Anh nói tiếp đi! Anh nói hay lắm!
Phi lại rót rượu, lần này cho cả chén của Kumar: Gã nâng ly uống cạn hết chén rượu sóng sánh và đặt mạnh cái ly đã cạn sạch rượu xuống bàn:
– Người mình ở đâu cũng không đoàn kết, manh mún và chia rẽ. Quyên mà sống lâu ở Đức thì khắc rõ. Khi vào trại ít bữa, nhiều nhóm thành viên trại hình thành. Những nhóm bạn, cánh hẩu, đồng hương chỉ vài ba, dăm người co cụm lại thì rất dễ. Nhưng trở thành một trại thống nhất, biết đoàn kết tương trợ nhau thì hoàn toàn không có thể. Một trại còn khó vậy, nói chi tới người Việt toàn thành phố, toàn nước Đức này. Đi nhiều, ở càng lâu càng nhận ra, người mình cam chịu thân phận kẻ tị nạn hay rộng hơn là thân phận người ly quê một cách hết sức thản nhiên. Mạnh ai nấy sống! Có một lão học ở Ba Lan, rồi làm ăn, vướng vào vụ trục trặc gì đó ở Đức, bị bắt vì tham gia buôn thuốc xuyên quốc gia, có lần lão bảo: “Cách sống bản năng ấy như các hạt cát rời, không tạo nên sức mạnh của một dân tộc!“
– Các dân tộc khác như thế nào?- Quyên tò mò.
Phi nhìn Quyên có vẻ ngạc nhiên:
– Em không thấy các dân tộc khác ư? – Phi tỏ vẻ ngạc nhiên.
– Năm nào ở Berlin thiếu rau ăn, các cửa hàng rau trong siêu thị lớn thì mở cửa, còn các quán rau trên các phố của người Thổ thì cửa đóng then cài. Em biết tại sao không? Người Thổ hầu như nắm đường dây cung cấp rau tại Berlin. Có việc gì đó mâu thuẫn, không rõ lắm xảy ra giữa người Thổ với việc quản lý thành phố của người Đức, thế là người thổ bảo nhau đồng thanh bãi chợ rau. Đấy, họ bảo nhau được như vậy. Vậy những người buôn bán Việt Nam có thể ngừng bán hàng toàn thành phố, để đấu tranh cho ai trong quyền cư trú được không?
Quyên im lặng, Phi nhìn cô rồi quay sang nhìn Kumar. Gã có vẻ đắc thắng, lại tự rót cho mình thêm một chén, rồi thảm nhiên uống cạn. Cạn cốc rượu, gã nói tiếp như một lý luận gia chuyên nghiệp:
– Khác với chúng ta, bọn Thổ, bọn Tầu và cả bọn Hàn hay Nhật đều đoàn kết, tạo nên một cộng đồng dân tộc khi họ rời khỏi cố hương. Ở tù hai năm, tôi đã nhận ra điều ấy khi được mục kích việc chăm sóc đồng bào, thăm hỏi đồng hương của họ trong tù. Kumar cứ xem đi, ở Đức này, mỗi tỉnh có một Hội người Việt. Thậm chí có một tỉnh như thành phố của bọn ta ở vài nơi, có tới vài Hội người Việt. Nhưng ở phạm vi cả nước Đức, hơn hai chục năm nay, không thể nào tập hợp được một Hội người Việt Nam trên toàn lãnh thổ Cộng hoà Liên bang Đức, đại diện cho dân đầu đen chúng ta. Nhận thức rằng, chúng ta quan tâm lý manh mún, chia rẽ, dầu có tập trung sống đông đúc ở một khu phố nào đó, như Rihn hay Mazahn trên Berlin, nơi hàng ngàn người Việt quần tụ trong vài cái Block, cũng chỉ là con số cộng vô nghĩa, tránh đi cái tâm lý cô độc thôi, còn thực sự vẫn là chia rẽ, đèn nhà ai nhà nấy rạng. Chính vì vậy, khi ra tù, tôi chọn cách là ở chung với người Đức. – Phi chỉ tay ra ngoài cửa sổ. – Dường như cái khoát tay của anh vẽ ngay trước mắt hai người bạn quang cảnh bên ngoài nơi anh ở:
– Cứ chịu khó quan sát từng ngày mà xem, cửa sổ nào cũng có một cảnh sát canh chừng cho nhà tôi. Đó là các bà già Đức, luôn bỏ rèm quan sát đường phố. Họ là những thanh tra cảnh sát hình sự tốt nhất không phải trả tiền. Còn các khu đầy người Việt ư? Chính bọn chấn lột từ Nga tràn sang, cùng trong tù, từng nói với tôi rằng, khu nào đông cộng ở, có tới cả ngàn vẫn không sợ, vì có ai cứu ai đâu. Chúng sẽ làm thịt hết, lần lượt từng nhà, Phi cười hà hà và đưa tay chỉ vào Kumar- Kumar cứ thử xem. Tí nữa anh đứng ở cửa cầu thang, ngó nghiêng một lát thôi. Chỉ như vậy đủ lọt vào tầm ngắm của hàng xóm tôi rồi. Người ta bảo, quân tử phòng bị gậy. Tôi bây giờ có tiền. Khi nào cũng là mục tiêu của bọn “bộ đội” chuyên làm thịt chính những người đồng hương mình.
Kumar và Quyên hết sức ngạc nhiên. Họ có nghe nhầm không khi Phi nói, anh là kẻ có tiền. Tất nhiên cả Kumar và Quyên, chẳng có ai dám hỏi rõ có thật là Phi có tiền hay không. Chính cái nhìn ngạc nhiên của họ là Phi hiểu ra ngay. Phi ngồi im một lát, rồi thật thà kể, gã đã có tiền như thế nào.
Thì ra, khi ra tù, nhờ Luật sư can thiệp, Phi đã được nhận lại toàn bộ bất động sản và tiền trong các tài khoản của Thị. Gã điềm nhiên kể, thật ra số tiền ấy chẳng phải của tôi. Nhưng đương nhiên, khi vẫn còn là chồng, tôi có quyền hưởng tài sản của vợ để lại. Tại sao tôi lại không nhận số tiền ấy và sử dụng nó theo sự suy tính của tôi?
Khuôn mặt Phi khi ấy thực sự nom rất căng thăng. Quyên tự nhiên buột miệng:
– Tự dưng có nhiều tiền dễ hư hỏng lắm. Em đọc báo thấy, hầu hết những người trúng số độc đắc ở Đức, bao năm nay, số phận sau đó chẳng ra sao. Anh Phi… Phi nghe Quyên nói chưa dứt câu đã xua tay:
– Tôi không ăn tàn phá hại. Một kẻ như tôi, chịu đựng biết bao nhục nhã, tôi có quyền được sống cho ra trò, dù chỉ dăm năm nữa, và cái chính là tôi cũng biết sợ.
Phi đứng dậy, xoay người, chạy ra kéo tấm rèm ngang, chỉ cho Quyên và Kumar chiếc bàn thờ trên bức tường có tấm rèn che đi và nói:
– Bà ấy khi sống, thực chẳng ra gì với tôi. Nhưng bà ấy đã mất rồi. Dầu sao tôi cũng đã có tội, dù là tội không cố sát. Tôi đã mời thầy chùa về đây lập bàn thờ cho bà ấy. Làm lễ giải oan cho bà ấy. Chẳng giấu gì, tôi rất sợ vợ tôi khi sống và cả khi bà ấy đã chết.
Phi im lặng. Quyên cảm thấy, không khí giữa họ đột nhiên căng lên như sợi dây đàn. Phi cúi đầu xuống. Điệu bộ ủ rũ.
Phải tới hơn một phút sau gã mới nói tiếp:
– Tháng đầu tiê, tôi treo ảnh bà ta trên ban thờ. Nhưng lạ lắm, mỗi tối khi nằm xuống, nhắm mắt lại tôi vẫn cảm thấy nhưng mình nhìn rõ tấm ảnh. Đôi mắt bà ấy cứ xoay xoáy nhìn tôi không chớp. Tôi đã mấy lần định bỏ tấm ảnh đi, nhưng không thể. Cái bát hương kia, tôi mang từ chùa về, để thờ bà ấy. Linh hồn bà ấy vẫn quân quanh đâu đây. Hình như vậy.
Phi nói thật! Quyên tin như vậy khi nghe anh vừa nhắc tới Thị mà trên trán anh ta mồ hôi đã túa ra lấm tấm và bàn tay cầm cốc rượu bỗng ru rẩy lạ lùng.
Trong mắt Quyên khi đó, con người Phi thật mâu thuẫn. Nói về kinh nghiệm để sống sau khi ra tù, anh ta tỏ ra từng trải, khá hơn nhiều so với Phi ngày xưa ở quán ăn, lệ thuộc nhiều vào vợ. Cũng đúng thôi, con người ta, khi đã trả qua tù ngục, hẳn đủ thời gian và đặc biệt là sự yên tĩnh để suy ngẫm. Sự yên tĩnh là điều kiện quan trọng để nghiền ngẫm, suy nghĩ, truy xét mọi việc một cách thấu đáo. Sự yên tĩnh giúp cho con người ta tĩnh trí, nhìn kỹ hơn những gì còn khuất lấp trong quá khứ, mà xưa kia, cuộc sống hối hả, gấp gáp cứ ào ào chuyển động, trào qua như sóng, nhấn chìm người ta xuống, không cho ai một cơ hội nhận rõ đâu là trái, đâu là phải. Thời gian hai năm trong tù hẳn giúp anh ta mở mắt ra, khôn hơn nhiều so với trước đây. Nhưng khi chẳng còn trẻ nữa, tức là khi toàn bộ nếp nghĩ, thói quen, lối ống… vốn đã bắt rễ quá sâu trong tâm hồn anh ta thì dầu có cố gắng nhận thức cuộc sống nơi đây, gột bỏ, rũ đi được bao nhiêu phần cái cũ trong con người anh? Không, sự hình thành bản ngã không bao giờ là điều đơn giản như ta thay một cái áo, vì gốc rễ của người ta bao giờ cũng có sức sống lâu bền hơn. Rõ ràng, những điều anh ta bộc lộ, chứng tỏ ở anh ta không hề có sự lột xác, mà chỉ là một sự pha trộn nào đó, chắp vá nên con người anh ta hôm nay. Biểu hiện lớn nhất là sống giữa xã hội phương Tây này, cái phần bị ám ảnh bởi một sức mạnh vô hình nào đó – như tấm ảnh của Thị kia nào có mất đi? Ngay cả sự tỏ ra khôn ngoan, tính toán trong sắp xếp chỗ của anh ta, một phần kỹ năng sống, cũng chỉ là những mẹo vặt để tự vệ. Cái sự khôn ngoan trong Phi bây giờ giống như là sự tháu cáy vốn dĩ luôn tàng ẩn trong mỗi người mà Quyên gặp nhan nhản ở mọi nơi chăng? Còn cái tâm trạng luôn bị ám ảnh bởi người vợ cũ, lại phản ánh rất rõ cái phần mềm oặt trong Phi, cái phần mà nhiều người Việt, dù đi Đông về Tây, khi đã từng có thời gian sống thời thanh niên ở trong nước, cũng khó lòng tẩy sạch.
– Anh cứ kể tiếp đi? – Quyên bồn chồn nói.
– Tôi đã gửi về nhà cho gia đình Thị một số tiền để mẹ cô ấy mua một nhôi nhà đàng hoàng ở thị xã. Sắp tới tôi sẽ mua một cửa hàng ăn ở đây. Sống ở đây đã thật buồn chán! Không làm gì, ăn không ngồi rồi thì còn buồn chán gấp bội. Tôi đã cúng một số tiền vào nhà thờ để giúp đỡ những người đói khổ. Người ta có câu: “Của mình ăn no, của người ăn đẹt”. Của nả, tiền bạc không phải của mình làm ra, chắc chắn chẳng lâu bền, thậm trí nhiều tiền quá, ở đất người, thân cô thế cô có khi lại tai hoạ. Sống trong tù hai năm, nghe dăm kẻ tội phạm kể chuyện, tôi nhận ra, người ta mắc vào tội lỗi đều do tham lam quá.
Câu chuyện lại diễn ra theo chiều hướng hoàn toàn khác. Kumar và Quyên đã lo lắng cho Phi mà tới thăm gã, nhưng gã lại quan tâm và lo lắng cho cảnh thất nghiệp của hai người. Gã gợi ý, tại sao Kumar và Quyên không dựng một cửa hàng Imbiss ở phố G.Schwiterscholl, nơi chưa có một người Việt Nam nào mở quán mì xào.
– Chúng em đào đâu ra tiền mà mở quá? Anh cho em vay nhé. – Quyên cười nói. Nghe vậy lập tức Phi bảo, giọng rất nghiêm túc:
– Quyên đừng lo về chuyện tiền bạc. Tôi có thể cho hai người mượn ngay năm mươi ngàn Euro.
Kumar và Quyên lại nhìn nhau. Thực ra Quyên chỉ đùa với gã mà nói vậy. Sự thể thật bất ngờ. Cô thật ngạc nhiên khi Phi có thể rộng rãi tới như vậy.
Hai ngày sau, Phi tới nhà họ. Anh mang theo đúng năm chục ngàn thật. Nhưng Kumar nhất định từ chối, dù chỉ là vay mượn. Quyên suốt bữa đó chỉ im lặng. Hai tiếng không thuyết phục được Kumar, Phi ra về. Trước khi đi, anh còn bảo, Kumar và Quyên cứ tính kỹ. Khi nào cần tiền mở quán, cứ gọi tôi một câu, tôi sẽ mang tới ngay. Tôi cho vay, chứ có cho không mà ngại!
Tối hôm đó và tận mấy ngày sau, chuyện Phi mang tiền đến tận nhà cho họ vay vẫn là một đề tài buộc Quyên và Kumar phải cân nhắc và suy nghĩ.
Chủ nhật sau, Phi lại tới chỗ họ. Gã lái chiếc BMV giống y hệt chiếc xe như năm nào Y cầm lái, chở Thị đi kiểm tra quán. Gã tỏ ra thật bụng, không hề vụ lợi, hay mua chuộc gì Quyên, khi trình bày thẳng với Kumar rằng, đó cũng là cách làm phúc để chuộc lại bao lỗi lầm của gã.
Phi về rồi, Kumar và Quyên bàn với nhau một lần nữa. Cuối cùng họ vẫn quyết định không vay số tiền ấy của Phi.
Kumar bảo:
– Chúng ta không thể dám chắc việc kinh doanh ra sao, nếu như thất bại thì việc hoàn trả tiền nợ quá lớn, năm mươi ngàn Euro của Phi, sẽ không bao giờ thực hiện được.
Đó là lý do duy nhất để họ khéo léo từ chối ý kiến đầy thiện chí của Phi vào thứ ba tuần sau.
Nhìn sắc thái bên ngoài và cách cư xử, trò chuyện của Phi ở cái buổi Quyên và Kumar gặp gã, ai cũng có thể hoàn toàn tin rằng, Phi đang có cuộc sống bình thường. Quyên cũng nghĩ như thế và cô có cảm giác an lòng sau buổi tới thăm Phi.
Nhưng thật bất ngờ, khi trong đêm, sau cuộc gặp mặt của ba người hai ba tuần gì đó, Kumar nhận được cú điện của đồn cảnh sát địa phương gọi đến. Quyên và Kumar tất tưởi tới đồn. Hóa ra những người Đức hay ngồi sau bức rèm trong cửa sổ đã phát hiện, nhiều đêm rồi có một gã châu Á hay “rình mò bên ngôi nhà của môt cặp vợ chồng người nước ngoài”. Cảnh sát theo dõi, phát hiện ra đó chính là người vừa mãn hạn tù trở về.
Quyên hoàn toàn sững sờ nhìn thấy bộ mặt thiểu não, đôi mắt vô hồn của Phi, khi gã bị một cảnh sát dẫn ra trước mặt cô và Kumar.
Phi thực sự biến thành một kẻ khác. Nom gã rõ thảm hại. Khuy áo sơ mi cuối cùng đứt tung. Cái áo khoác nhàu và xộc xệch. Mái tóc hôm nào vẫn chải sóng sánh, phun keo, giờ đây rối tung, mất hết nếp, y như gã vừa đội mưa về, hay vừa uống quá say ở tiệm rượu bước ra. Phi đã trải qua điều gì mà mất hết cả sức lực, phong độ mọi khi thế kia? – Quyên nghĩ.
– Ông bà có quen biết người này? Viên cảnh sát mặc bộ quần áo rất vừa nheo mắt hỏi.
Dường như có ai đó bắt nhịp để Quyên và Kumar cùng trả lời:
– Vâng!
– Có việc gì xảy ra vậy, thưa ông cảnh sát? – Quyên quay mặt sang hỏi viên sỹ quan trực ban.
Phi được ngồi xuống cái ghế tựa, gã im lặng quay mặt đi. Gã bỗng thấy đau đớn vô cùng, khi sự sợ hãi vô cớ đã biến mất ở giây phút đầu tiên chợt trông thấy Quyên xuất hiện. Cái trạng thái nửa u mê, nửa tỉnh táo, của con người đó trong gã, đã đẩy gã nhiều đêm bỏ nhà ra đi lúc nửa đêm đến rình mò dưới nhà của Kumar và Quyên. Gã cũng không tự trả lời rành rọt các câu hỏi của cảnh sát Đức. Làm sao có thể hiểu được những kẻ tị nạn mà văn hóa và phong tục khác hẳn người Đức! Những điều Phi kể với họ, nếu có mạch lạc đi nữa, cũng không thể cắt nghĩa từ đâu mà gã châu Á này cứ tin là chiếc ảnh của người đàn bà xấu xa kia có một sức mạnh ghê gớm có thể làm gã hoảng loạn tới vậy! Không, gã không có một âm mưu nào hắc ám. Cảnh sát đã thẩm vấn, vặn vẹo, tra hỏi gã vài tiếng, gã chỉ một mực khai rằng, gã thân gia đình Quyên, yêu đứa bé con tên Thanh Vân, nhưng không muốn làm phiền họ, nên chỉ tới đó để nhìn nó tí thôi. Có vậy! Cảnh sát không tin điều đó rồi. Người ta đặt ra nhiều tình huống để lý giải sự có mặt của gã dưới ngôi nhà ấy. Nhưng nếu đúng là gã thân với gia đình này và không có hiềm khích gì với họ, thì có thể coi trạng thái tâm thần của gã có vấn đề. Lập tức, sau dự đoán ấy, họ đã gọi điện cho Quyên để xác nhận mối quan hệ của gã với gia đình cô.
Chuyện chỉ có vậy, bởi vì khoong thể giam giữ quá lâu một người chưa có hành bi phạm tội, ngoài cái lý do nghi ngờ gã đứng trước ngôi nhà có một người đồng hướng quá lâu và nhiều lần trong đêm tối. “Ông ta có vẻ mệt và nhờ cậy ông bà tới bảo lãnh”. – Viên cảnh sát nói, rồi nhờ Quyên dẫn Phi ra ô-tô và giữ Kumar ở lại vài phút.
– Chúng tôi mong ông bà giúp đỡ anh ta. Dù không tìm thấy một tấc vũ khí nào trong người nhưng anh ta không có giấy tờ, nên chúng tôi buộc phải giữ vài giờ để xác minh, nhằm đảm bảo an toàn trong khu vực chúng tôi quản lý. Bây giờ thì rõ rồi! – Viên cảnh sát lễ độ trả lại hai cuốn hộ chiếu của Kumar và Quyên. – Là người quen thân của anh ta, xin ông bà hãy đưa anh ta đi bệnh viện để bác sĩ xem xét lại trạng thái sức khỏe. Tôi nghĩ, có vấn đề nào đó chăng?
Rõ ràng là Phi có vấn đề! Hai giờ đêm, Kumar và Quyên mới thấy Phi hoàn toàn thoát ra khỏi trạng thái đờ đẫn, trở lại vẻ bình thường như hôm nào mới gặp lại.
Trong yên tĩnh, tiếng Phi rành rọt, chậm chạp, đều đều kể về những gì đã xảy ra cho Quyên và Kumar nghe.
Thì ra, đêm nào Phi cũng rơi vào trạng thái mê mê, tỉnh tỉnh, khi bất ngờ chợt nhìn thấy mắt của Thị cứ nhìn gã “xoay xoáy từ trên ban thờ”. “Tôi đã hạ ngay cái ảnh ấy một tháng nay rồi”. Nhưng khổ quá, đêm nào, dù không còn ảnh bà ấy trên ban thờ nữa, tôi vẫn thấy đôi mắt của bà ta. Mà đôi mắt ấy muôn trạng lắm. Đôi khi nó rất tha thiết và không hề đau đớn giống như hồi tụi tôi còn hạnh phúc bên nhau ở Việt Nam”. – Phi vò mãi mái đầu đã rối tung càng rối thêm và đập lòng tay xuống bàn. – “Có lúc lại nhìn rõ trong bóng tối, mắt bà ta cứ long lên, y như những khi bà tức giận. Tôi sợ nhất khi bà ấy nhìn tôi, rồi đôi mắt cứ trợn ngược, dại đi. Có lúc toàn lòng trắng. Nó hệt như đôi mắt tôi đã nhìn thấy, sau lúc bà ấy tự lao vào tôi, cắm ngập trong lưỡi dao đêm ấy, rồi ngã ra trước mắt tôi! Trời ơi! Sao bà ấy ghê gớm vậy? Sống cũng hành hạ tôi, mà tới khi chết vẫn trở về tra tấn tôi như vậy!”. Gã ôm đầu và rên rỉ. “Tôi bỏ chạy khỏi nhà mỗi khi sự thể như muốn làm tôi vỡ tung đầu ra. Sự ấy cứ lặp đi lặp lại từng đêm, chỉ vào gần nửa đêm, khi thân thể tôi đã mỏi dừ sau một ngày làm việc. Lao ra đường phô, tôi chỉ còn mỗi cách ấy. – Gã thở gấp. Dường như khi kể lại, Phi buộc sống lại trong sự sợ hãi mà Quyên và Kumar không sao tưởng tượng ra. – Một bận lang thang không hiểu sao tôi đến được trước cửa nhà em. Tự nhiên, khi đứng vài giây ở gốc cây nhìn lên căn hộ, tôi thấy an lòng lạ. Tôi như nhìn rõ tất cả. Thấy rõ hình ảnh của em và Kumar cùng Thanh Vân chơi đùa, sinh hoạt, đi lại trong phòng và cơn sợ hãi bỗng tan đi. Từ đó, mỗi khi bà ấy xuất hiện. Tôi lập tức đến đây cho tới khi bình tâm lại. Tôi không hiểu được, vì sao? Vì sao chỉ sau khi tới bên ngôi nhà của em, tôi mới có thể trở về ngủ được bình thường và không thấy bà ấy quay lại”.
Kumar và cả Quyên lắng nghe những lời Phi kể. Câu chuyện thật hoang đường! Nhưng rõ ràng mọi cảm xúc của Phi, qua giọng kể tới khuôn mặt khi thuật lại sự việc đều cho Quyên cảm giác rằng gã rất thật. Làm sao gã có thể dối trá khi đôi mắt của Quyên nhìn thẳng vào đôi mắt của gã. Trong lòng của Quyên khi đó trào dâng lòng thương xót Phi ghê gớm. Tại sao anh ta lại có thể rơi vào những trạng thái sống trớ trêu, đầy đau đớn, khổ sở như thế? Rất tự nhiên, hai bàn cô nắm chặt đôi bàn tay Phi. Con người ta, sự thông cảm, chia rẽ với đồng loại, phải mọc lên, bắt rễ từ chính môi trường sống đã trải qua, chung một hoàn cảnh như nhau. Chính sự trải nghiệm của Quyên, khi nếm trải sự tha hương, từng sống cảnh bị ruồng bỏ, cô độc, cho cô dễ nhận thấy đến tận cùng nỗi đau khôn xiết của Phi. Sự nhận cảm này, ở ai đó dù nhạy cảm đến mấy, dù tử tế tới mấy, nếu không chung một hoàn cảnh sống cụ thể như Phi, từng đau đớn cô độc như Phi, khó có thể có cái cầm tay ấm áp và thật lòng như đôi bàn tay Quyên đêm nay.
“Thôi, khuya lắm rồi. Anh đừng về nhà nữa. Đêm nay anh ngủ ở đây!”. Kumar cũng nói y như Quyên. Họ mau chóng trải tấm drap xanh lên đi-văng phòng khách và lấy cho gã tấm chăn mỏng. May quá, cô nhớ, vẫn còn vài viên thuốc an thần hoạt huyết dưỡng não mẹ cô gửi sang cho, vì có những ngày trước đây Quyên đau đầu và mất ngủ. Cô bưng một ly nước nóng cho Phi và lấy thuốc cho gã uống.
Nửa tiếng sau, căn nhà yên ắng như chẳng có chuyện gì xảy ra. Khi đó Kumar mới rón rén từ phòng ngủ bước ra. Phi ngủ rồi! Trong đêm tối, dưới ánh sáng lờ mờ của đèn ngủ, hình như Phi hơi mỉm cười, mắt anh nhắm lại và Kumar nghe rất rõ tiếng Phi thở nhẹ, đều đặn. Kumar mỉn cười trong đêm tối.
Quyên lại không ngủ. Cô thao thức tới hơn giờ nữa. Trời ơi, Phi tới đây trong trạng thái ấy, lại điều khiển chiếc xe với tốc độ 50 cây số giờ thì việc gì sẽ xảy ra, nếu anh ta đâm vào một vật nào đó chuyển động trên đường. Trong đầu cô, hiện lên hình ảnh hôm nào về tai nạn của Hùng. Chiếc xe lộn nhao và chiếc cáng đẫm máu.
Có thực có một thế giới tâm linh không? Nếu có thì người nào sống ác mà chết đi cũng sẽ làm ma ác ư? Hay là con người ta, khi giết người, vô tình hay cố ý, mỗi nước có thể có những luật lệ khác nhau để tòa án xử phạt, nhưng dù luật lệ có xử mức độ ra sao thì không có tòa án nào bằng tòa án của lương tâm! Phải chăng chính điều đó dẫn Phi tới hoang tưởng như vậy? Lương tâm mỗi người ở đâu? Phải chăng nó là một quá trình nhận thức trong một xã hội nhất định để ý thức rằng, có tội hay không có tội và, mức độ của tội ác ra sao để kẻ phạm tội tự suy nghĩa mà phán xét chính mình? Vậy Phi có tội không? Phi có tội thì cô có tội trong cái chết của Thị không? Dù sao chăng nữa, cô cũng có liên quan tới Phi và phải có trách nhiệm với anh. Quyên quay sang Kumar: “Này anh đã ngủ chưa? Mai ta đưa Phi đi khám bệnh, anh nhé!”… Gió ngoài giờ vẫn thổi. Những đám lá rụng trải qua suốt mùa đông, từ tháng Mười tới tháng Hai đã khô ơi là khô, khi bay trên mặt đường đêm tạo ra những thanh âm nghe cũng khô xác và cũng theo độ lớn, nặng nhẹ mà quần tụ với nhau, bên các vật cản trên đường phố. Có tiếng lách tách nổ hay nứt của vỏ cây. Có lẽ sang xuân, những vết nứt sinh ra bởi mùa đông khắc nghiệt ấy là nơi dễ nhất để các mắt cât nhú ra, vụt biến thành những chồi xanh.
Ngay sớm hôm sau Quyên thuyết phục Phi để Kumar đưa đi khám bệnh và bác sĩ lập tức quyết định buộc Phi nhập viện. Người ta cũng chẳng khó khăn lắm khi phát hiện ra những tổn thương khá lớn trong tâm hồn con người tóc đen nhỏ thó này. Bác sĩ trưởng Khoa tâm thần của bệnh viện dự kiến, nếu gia đình kết hợp, chi hai tháng sau anh chàng này sẽ ra viện. Dự đoán ấy làm Quyên thấy nhẹ cả lòng.
Vì thế, rảnh ra là Quyên giục Kumar ghé thăm Phi cho anh bớt cô quạnh. Chủ nhật nào cũng vậy, bé Thanh Vân lại cùng cả nhà tới thăm Phi. Nó hát và múa cho Phi xem. Nó khoe những bức tranh nhiều màu vẽ chú Phi ngộ nghĩnh, rồi nhảy lên cổ Phi mà đong đưa.
Sức mạnh của thôi miên cũng thực kỳ diệu khi kết hợp với những liệu pháp khác của y học tiên tiến nhanh chóng giúp Phi thoát khỏi trạng thái trầm cảm, hoang mang. Anh ra viện nhanh hơn dự kiến ban đầu.
Buổi trưa ngày đón Phi về, họ tới một nhà hàng ven hồ Thuesse vui vẻ tới tận chiều. Bất ngờ quá, trong lúc phấn khởi Phi lục túi sách lấy ra một tập vở, rồi đọc tới dăm bài mà anh gọi là thơ. Kumar thì gật gù tỏ vẻ tán thưởng, song thực ra anh cũng chẳng biết hay hay dở. Ừ nghe cũng vần ra phết! Hay quá! Quyên vỗ tay đôm đốp làm Thanh Vân cũng tới bên Phi đập bàn tay nhỏ xíu vào bàn tay Phi tỏ ra cùng phe với Phi. Quyên cười rạng rỡ. Trong thâm tâm cô, điều vui mừng lớn nhất là Phi đã khỏi bệnh. Thực chất bấy nay, bởi cuộc sống con cái, công việc kiếm ăn bận bịu, cô cũng chẳng quan tâm nhiều tới thơ. Quyên lắng nghe, nhưng bài thơ của Phi rõ ràng có nhiều câu thật thà lắm, nhưng cô vẫn nhận ra cảm xúc thực, không giả dối của một tâm hồn đau khổ. Quyên thầm nghĩ, Phi có tâm hồn thi sỹ, Quyên bảo, thơ của anh Phi hay nhưng buồn. Nếu anh chịu khó rèn giũa. Thơ Phi sẽ hay nữa. Ai có ngờ rằng, lời khen ấy lại làm Phi vui vô cùng. Và niềm vui ấy cứ âm ỉ sống với anh suốt thời gian sau đó. Nó giúp Phi kiên nhẫn và hứng khởi từng đêm viết nhiều bài thơ khác, như một nhà thơ chính hiệu.
Cuối năm, trong buổi lễ liên hoan Tết âm lịch của cộng đồng tít tận thành phố Hanover, Phi đã làm nhiều người Việt ngạc nhiên, kể cả mấy nhà thơ cộng đồng quen thuộc, khi anh dõng dạc đọc tới ba bài thơ liến. Phi chẳng e dè khi trần tình sự xuất xứ của thơ anh. Rằng, những bài thơ ấy là những đứa con của gã sinh ra trong bệnh viện tâm thần, giữa những cơn mê tỉnh tựa như điên cuồng.
Những người Việt, đủ mọi tầng lớp sang đây cốt kiếm sống, nghe thơ lục bát của Phi cũng ít nhiều hiểu ra Phi muốn nói gì. Tỉ như câu: Tôi hay đi chốn xa xôi/ khói quê hương cuốn bên tôi chẳng rời… thật dễ hiểu, nó giống tâm tư họ quáu đi thôi, ai mà chả biết. Nhưng khi Phi đọc: “Chốn xa hoa cỏ thơm đầy/ dẫu ngàn mây vẫn trời đầy biệt ly…” thì tiếng xầm xì cử tọa nổi lên. Lại bất ngờ có kẻ bảo, hoa cỏ quái gì… Có đứa vỗ thay rầm rầm và nói, đúng là ăn chơi, xa hoa lắm. Phi nó nói quá đúng.
Thôi thì thơ là thứ phù phiếm, lơ mơ, chẳng thể rõ ràng, như đếm “bốn cái quần bò hay ba cái áo phông”. Nó được hiểu như thứ ăn thêm, ai muốn ăn thì ăn. Nhưng khi nghe gã đọc một bài thơ, rồi bảo là dòng thơ hiện đại, thì cử tọa im bặt “Chả hiểu cái ông Phi nghĩ bậy nghĩ bạ gì mà tụt quần ra đứng giữa đường như thế này. Có điên mới vậy, chứ bố bảo thằng phi bây giờ dám cởi truồng đi ra phố”… Có ai đó thì thào nói sau bài thơ Phi dõng dạc đọc. Một kẻ tò mò cầm lấy tờ giấy chép thơ của Phi.
Bài thơ viết.
Tôi trần truồng đi trên phố
Người xe xuôi ngược
Ai tay che mặt
Ai nhìn quay quắt
Vẫn tôi trần truồng thản nhiên đi
Tôi bước Từng bước chân tôi
Trong khoảng không
Thế giới của tôi trong vắt
Tôi muốn nghe tiếng muôn loài…
Ôi, giản đơn tôi yêu
như yêu ngày và đêm và sợ tuyết lửng lơ đang thật
Những buổi đọc thơ của Phi dầu sao cũng trôi đi trong tất bật và vội vã của đời sống cộng đồng, nó chỉ bất ngờ khi có một ngày Phi đọc thơ xong, dõng dạc công bố, tớ sẽ in một tập thơ Thơ lên đồng.
Nói là làm. Quả thật, mùa thu năm ấy, Phi bỏ tiền in một tập thơ, in bằng giấy trắng tinh, úp bìa dầy cứng, gáy mạ vàng chóe. Chết cha, cái việc nhỏ ấy mà kết quả bất ngờ, bởi sau khi tập thơ ra đời, Phi làm nhiều người Việt trong thành phố từ ngạc nhiên tới khâm phục, nhất là lúc được anh tặng sách. Tất nhiên không phải ai cũng hoan hỉ, khi trong cộng đồng của họ, xuất hiện một kẻ làm thơ và in một cuốn sách. Một kẻ nhận xét, thằng ấy bây giờ đúng là hâm nặng. Ừ có hâm nặng mới làm thơ chứ, khi mà ở cái xứ này, người ta sang đây cốt là để cơm no ấm cật, thơ là cái quái gì, không sinh ra được tiền. Với Euro thơ chẳng bằng cục c.! Nhưng có người lại bảo, đừng nói vậy, khi cả làng này có người hỳ hục kiếm ăn, đầu tắt mặt tối, thêm một người làm thơ – cũng lam lũ vất vả, chứ thằng Phi ở tù, chết vợ ấy có sung sướng, hạnh phúc cái chó gì đâu – thế mà nó lại làm được cả thơ thì hơn đứt chúng ta rồi. Được vài thằng như nó, thêm vài người đàn, ca, sáo, nhị nữa những buổi hội hè có họ, chẳng xôm xôm ra trò hẳn lên đấy thôi. Nó không ngẫn, nó là Phi nhà thơ xóm, thơ làng. Có người cười bảo, tại sao không thể coi những bài của Phi làm là thơ. Khi thơ của nó không làm quán bán hoa, quầy bán quần áo, quán mì xào của bọn mày hụt khách đi, thì bận gì đến ai? Ừ, nghe cũng lọt tai! Từ đó, hỗn danh Phi Ngẫn được người ta quên dần đi. Cách gọi Phi nhà thơ mỗi khi cánh lao động Việt Nam sum vầy, được cả vùng quen dần và, chả có văn tự gì cả, tự nhiên cái “làng Việt Nam” ở thành phố này trao cho gã một hỗn danh mới ăm ắp vinh dự: Phi Thơ.
Việc này Kumar không bàn ra tán vào. Anh biết gì về thơ Việt Nam mà bàn. Quyên thì bảo, cứ để cho anh ấy làm thơ. Người ta nhiều bức xúc, suy nghĩ, vui hay buồn quá, thì cứ để người ta xả. Mà lục bát thì cả nước Việt ai chẳng thấm nhuyễn, để có thể ứng khẩu, đọc ngay được dăm câu, nữa là con người giàu tình cảm như Phi.
Nhưng sự kiện Phi thi sỹ cũng chưa đặc biệt và bất ngờ lắm. Nửa năm sau đấy cả thành phố đồn ầm lên Phi sắp lấy vợ. Mà lại là cô vợ trẻ chỉ bằng non nửa tuổi gã. Quyên không tin. Kumar cũng không tin. Phi bấy nay mở quán, làm ăn phát đạt, bận bịu lắm, không có thời gian la cà đâu cả, dù có ai manh mối cũng đâu nhanh như vậy? Hơn nữa, cô cũng tin rằng, việc trọng đại như vậy làm sao Phi không tới báo cho cô và Kumar biết.
Một bữa, có hai người tị nạn ở trại Goldberg tới nhà giúp Kumar dán lại giấy tường gian bếp và sửa chữa một số vật dụng trong nhà. Công việc mãi đến sẩm tối mới xong. Quyên lấy tiền trả công cho hai người đồng hương. Lúc trao tiền một người cứ nhìn cô đăm đăm và buột miệng nói:
– Chị nom giống vợ sắp cưới của thằng Phi thơ quá.
Quyên ngạc nhiên tới không ngờ:
– Anh nói sao? Ai giống tôi?
– Vợ thằng Phi chứ ai? Cả thành phố này đều biết, riêng chị không biết? Một cô gái Nghệ Tĩnh mới 18 xuân son, nom sinh đẹp giống chị lắm. Chỉ khác là cô ấy nhuộm tóc vàng ươm, mốt lắm chứ không để tóc ngang vai như chị.
– Các anh nói đùa. – Quyên gặng – Làm như lấy vợ dễ lắm. Phi bốn mươi. Có đứa nào trẻ vậy mà chịu lấy người vênh tuổi thế làm vơ?
– Ối giời ơi! – Này, bà chị cứ thả ông anh em ra! – Gã gầy gò, hàm răng vổ như bàn cuốc cười nhăn nhở nói với Quyên – Vào trại mà xem! Tháng trước nhiều thiếu nữ, đàn bà, cả đàn từ trại trên berlin chuyển xuống. Toàn các em xinh trẻ. Ông anh nhà chị có pát-si-po rồi, có giấy cư trú vô thời hạn rồi, lại có quán sá thế này nữa, tha hồ vào đấy chọn. Hàng tá các em giơ tay lấy ngay. Em chỉ e bà chị! – Gã lại toang hoác cười vô tư.
Lại thế nữa! Tại sao Phi có thể dễ dàng quyết định một sự việc hệ trọng của một đời người như thế, nhất là anh cũng đã trải qua một lần đầy bất hạnh với đời vợ trước. Không thể kiên nhẫn chờ đợi. Quyên cầm lấy máy điện thoại, bấm số gọi cho Phi.

*

Phi có vẻ hơi ngượng, gã đỏ mặt ngồi xuống khi Quyên đưa cho cốc trà mật ong thơm nghi ngút khói.
– Bây giờ chỉ có hai người, anh nói đi! Sự thể ra sao? Sao anh có thể lấy vợ như chọn cái áo vậy!
Quyên cất tiếng, giọng nhỏ nhẹ nhưng Phi vẫn cảm thấy câu hỏi ấy đầy trách móc.
Phi yên lặng. Gã cầm ly trà rồi lại đặt xuống bàn và nhìn ra ngoài cửa sổ. Quyên cất tiếng:
– Nói đi, anh Phi! Ở thành phố này, em coi anh là bạn thân nhất, chẳng nhẽ anh không thể chia sẻ với em ư?
Phi quay lại nhìn Quyên. Ừ, Quyên nói đúng bởi ở đây gã và Quyên đã từng gắn bó. Thực ra lòng gã vẫn thường nhớ Quyên, có lẽ chính vì thế mà khi gã quyết định lấy cô gái trẻ ấy, gã tự thấy có gì không phải. Sự không phải ở đây chỉ là với riêng Quyên thôi. Vì vậy, hơn tháng nay gã không muốn cô biết chuyện gã sẽ lấy cô gái kia. Sự thể bây giờ tới vậy rồi! Quyên đã phong thanh biết, sao không nói tuột cho cô rõ? Nghĩ vậy, nhưng Phi vẫn lúng túng, không biết bắt đấu từ đâu. Vài giây suy tính, gã móc ví ra lấy một tấm ảnh, trao cho Quyên và nói gọn lỏn: “Nó đấy“
Nó đấy là cô gái rất trẻ, đôi mắt đầy thách thức, đang nhìn Quyên không chớp. Quyên cầm tấm ảnh ngắm kỹ. Người đồng hương đã nói đúng! Quả thật người con gái trong ảnh có nhiều nét hao hao gống Quyên. Tấm ảnh chụp gái đang đứng trước lâu đài ở Schwerin. Chắc gã mới đưa cô đi chơi ở đó.
“Cũng giống em nhỉ, song hình như khuôn mặt cô ta dài hơn và gò má cao hơn!” Quyên buột miệng nhận xét. “Không đâu! Không hóa trang, nó giống em lắm. Đánh hai vệt son đậm dưới gò má, khuôn mặt hiện đại hơn. Bây giờ mốt, gò má phải cao lên.” Phi nói. “KO! Có lẽ như vậy thật, tụi trẻ hôm nay nhiều cô môi trầm, nâu, đen đủ cả. Gò má đánh vệt son cho cao, quần trễ hở hết rốn, áo lộ lõm ngực. Kiểu tóc thì ngoài cửa hàng thiếu gì thuốc nhuộm, thoát một cái là biến màu đúng theo mẫu các diễn viên thế giới đang hót” Quyên thầm nghĩ. Cô đặt tấm ảnh xuống bàn, nhìn Phi: “Nào! Làm thế nào mà anh quen được cô ta”?
– Có gì đâu! Trong trại Goldberg, hai tháng trước, nhận về hơn ba chục người, phần đông là các cô gái còn rất trẻ. Họ từ Leipsich, Cottbus tới. Người ta mau chóng sàng lọc và gửi trả ngay về Việt Nam dăm người được xác định là chẳng có lý do gì để tị nạn. Điều đó thì em chắc hiểu. Cô gái cũng tên Quyên này thuộc số người đang sàng lọc và cô ta rất lo lắng. Cô sinh ra trong một nhà có ba chị em. Cha mẹ cô ấy đều là dân buôn thúng bán mẹt ở thành phố Vinh và nghe ai đó bảo, đi Đức đổi đời ngay. Lại môi giới cho du lịch sang Nga rồi sang Tiệp và vượt biên sang đây. Tất cả chạy vạy, vay nợ, mất toi hai chục ngàn đô. “Sang tới đây em mới biết cái thời làm ăn hái ra tiền để nhanh chóng trả nợ hết rồi. Bây giờ mà bị tống về chắc bố mẹ em còn nước uống thuốc sâu tự tử!” Cô ấy nói vậy. Tháng trước, từ bảy giờ tối, cô ấy tới nhận dọn dẹp lau chùi trong quán. Thực ra, ban đầu tôi cũng chẳng để ý cô ta, nhưng hôm trả tiền công, biết cô cũng trùng tên với em, tôi giật mình. Mà kỳ lạ quá, tên giống, ngắm kỹ khuôn mặt cũng giống! Em nhìn ảnh xem có như hai chị em không?. – Phi ngừng kể, quay mặt đi.
Hoá ra gã “yêu” như vậy!
Quyên cũng im lặng. Bấy lâu cô cũng nghe đồn việc lấy chồng của cô dăm cô gái rất trẻ, trong số những kẻ tị nạn. Nhiều người sẵn sàng lấy bất kỳ người đàn ông nào, miễn là người ấy có giấy tờ định cư lâu dài ở Đức. Theo luật phát, nếu có chồng là được ăn theo chồng, nghiễm nhiên ở lại hợp pháp. Việc ấy thật dễ hiểu. Họ sang đây với bao mơ ước, trong khi nợ nần ở nhà của người thân lại chồng chất. Đổi cuộc đời đi bằng mọi giá, thực đáng thương chứ nào đáng giận. Nhưng tại sao Phi cũng nằm trong số những người đàn ông đón nhận “tình yêu” kiểu ấy? Lúc cô nghe người ta kể chuyện về Phi, Quyên không thể tin được. Hoá ra, sự thật lại đúng như lời đồn đại. Cô không thể đưa một lời khuyên nào cho Phi. Chẳng còn trẻ trung gì nữa, đã từng đau khổ và thất bại, Phi cũng khó có thể sống cô độc mãi Nhưng việc chọn lựa vợ của anh Phi như vậy, liệu rồi hạnh phúc một gia đình thật sự sẽ đi về đâu? Cho là anh thương cô ta, cho là anh lấy cô ấy vì nhớ ai mà lấy, thì liệu cái tình cảm vợ chồng thiêng liêng, rồi con cái sinh ra trong sự gá tạm ấy, sau sẽ ra sao?
Vài tháng sau, Phi tới báo tin anh đã đăng ký và phải chuyển vợ trẻ sang bên Hung để đón về Đức. “Luật của Đức gần đây là như vậy, tốn kém một tý nhưng bắt buộc cô ấy phải sang nước thứ ba”. Phi phân bua với Kumar và Quyên như thế.
Để xem sự thể ra sao. Nửa năm nữa, Phi báo tin đã đón được vợ sang Đức đoàn tụ. Bữa liên hoan ngay tại nhà hàng của vợ chồng Phi, gọi là cưới, quan khách cũng chỉ ba bốn chục người, đa phần là dân làm ăn với Phi. Cô vợ trẻ ăn mặc thật mốt, áo váy dài trắng muốt. Khuôn mặt Phi cũng vui, cũng cười nói, cũng hỷ hả. Song xem ra, trong tiệc cưới ấy, khi nhìn thấy Quyên, anh vẫn cứ có vẻ sượng sùng.
Vài ngày sau khi họ cưới, Quyên muốn hỏi về khai thuế nên rẽ quan quán của Phi và đã đụng phải cô vợ trẻ.
Ngắm kỹ, Quyên trẻ nom thật khác với cô. Chiếc quần bò trễ lòi cả rốn và chiếc áo rộng cổ, chẽn và ngắn phô lõm ngực trắng nõn, loại hàng hiệu đắt tiền vừa khít, nên nom cô ta cũng thật là gợi cảm. Chỉ có điều là nom thấy Quyên, cô ta – Quyên trẻ – có vẻ khinh khỉnh. Thôi không chấp làm gì! Cô ấy còn trẻ mà. Quyên nghĩ.
Không thấy Phi than phiền gì cuộc sống gia đình mới. Mấy bận khác, rẽ qua quán nhà Phi, nom anh ta không còn sượng sùng nữa, thậm trí tươi hơn, đỏ da thắm thịt hơn. Song có mấy người làm thuê cho Phi tới chơi, mách Quyên rằng, trời ơi, con nặc nô ấy sát tàn lắm. Bà chủ trẻ nắm quầy tính tiền. Hôm nọ vừa bắt con gà Phi sắm cho cái vòng bạch kim đính ba bốn hạt kim cương to vật. Chắc vài năm nữa đó, bà trẻ bòn hết thì ông Phi lại ra đê thôi!
Quyên và Kumar không dám bình luận gì. Thôi ván đã đóng thuyền. Vả lại Quyên chợt nghĩ, hạnh phúc trong sự chênh vênh hôm nay, vốn trơn nhẫn như lươn ấy, được một ngày có hạnh phúc trong tay, nên trân trọng nâng niu nó. Và, cô cũng nói với Phi đúng như vậy.

*

Mùa xuân tới, những người Đức qua lại siêu thị Rial mới mở, rộng hơn mười ngàn mét vuông, thấy bên kia đường, trên khoảnh đất đối diện trước cửa hàng bán đồ câu cá, có hai người ngoại quốc lúi húi dựng dăm cây cột sau bức rào mắt cáo. Vài ngày sau, một nhà tạm lợp mái nhựa mọc lên trước xe moóc container ấy, dăm hôm sau treo thêm một tấm biển màu da cam với hàng chữ đỏ chói: Asia Imbiss.
Quán ăn nhanh đó đăng ký kinh doanh tại Finanamt thành phố, mang tên Kumar.
Để có quán ăn nhanh này, phải kể tới công của Quyên. Số là đầu năm ấy, Quyên dọn dẹp, vệ sinh dăm buổi cho chủ quán bán đồ câu cá trước siêu thị. Là người sởi lởi mau chuyện, anh Stepan chủ đất, cũng là chủ quán bán đồ câu, thương người đàn bà châu Á xinh đẹp không có việc làm thường xuyên, đã đồng ý cho Quyên thuê khoảnh đất sát hè đường của anh. Stepan cho phép họ dựng tại đó một quán ăn đặt tên xe moóc. Giá thuê thật rẻ như cho, ba trăm Euro một tháng. Kumar tính, toàn bộ chi phí mua một cái Imbisswagen của một người Việt, cách đó hai trăm cây, hết ba ngàn Euro. Anh và Quyên sẽ tự sơn mới lại, sửa các thiết bị bên trong. Như vậy Quyên và anh không cần vay nợ ai.
Thật ra, để đi tới quyết định này, Quyên và Kumar cũng cãi nhau một trận ra trò, giận hờn tới hai ba ngày, chứ chả dễ dàng đồng thuận gì. Ấy là khi họ bàn tới việc nhân công lao động. Kumar cho rằng, không thể để Quyên vào cuộc khi bé Thanh Vân vẫn cần chăm sóc. Anh không muốn Quyên làm việc một giờ nào trong quán và anh muốn thuê một hai nhân công người Việt. Quyên lại không muốn như ý kiến Kumar. Cô muốn, cô sẽ là người bán hàng, bởi cô rất hào hứng và thú vị khi tưởng tưởng ra cảnh chính cô đứng trước quầy hàng thu tiền của khách và xào nấu nhanh thoăn thoắt như ai. Ừ, dù có vất vả đi nữa, cô cũng thực hiện sở cầu, không làm chủ to thì là chủ nhỏ. Giờ cũng là chủ nhỏ, không còn ở tư thế người làm thuê thụ động nữa. Nhưng Kumar lại cho là, Quyên chưa hề xào nấu, không thể đứng bếp. Cô có thể giúp đỡ anh nửa tiếng trong mỗi buổi chuẩn bị nguyên liệu ở nhà thì OK lắm. Chứ khi anh đi vắng, nếu không có một đầu bếp chuyên nghiệp, làm sao cô có thể đứng ở quầy? Anh cười nói: “Khách hàng ăn vài buổi sẽ bỏ quán chạy mất dép”. Cái cụm từ bỏ quán chạy mất dép mà Kumar nói ra rất Việt ấy làm Quyên đỏ mặt, đầy tự ái. Sao Kumar có thể coi thường khả năng của cô tới như vậy? Dù Quyên biết rằng, vì thương Thanh Vân và yêu cô, Kumar không muốn cô vất vả. Song còn khao khát của cô nữa chứ. Cái khao khát làm người phụ nữ độc lập mà cô không muốn nó toạc ra làm cô buồn bã. Cô dỗi Kumar tới hai ngày không nói, không cười, im như thóc, mặc cho Kumar tha hồ làm lành, tận tới khi có Phi tới. Gã nghe cô và Kumar trình bày xong, liền như trọng tài giải hoà xung đột đó: “Ừ, việc thuê nhân công cũng có thể được. Nhưng phải là người tin cậy, vì các bạn chưa từng quản lý. Mèo nhỏ bắt chuột nhỏ. Ban đầu chưa đông đâu. Cứ để cho Quyên vừa làm vừa học. Tôi sẽ tới trợ giúp một tháng. Còn hiện tại, các bạn không có ai tin cậy để giao phó, thì luôn phải có một trong hai người ở quán. Người mình cần cù chịu khó lắm. Đó là đặc tính rất ưu việt. Nhưng cứ sểnh không kiểm tra xem. Chẳng có ai tự giác mà làm việc, nếu của cải ấy, quán sá, cơ xưởng ấy không phải bỏ tiền ra, họ chẳng xót xa đâu”.
Đúng rồi! Quyên đế thêm và nghĩ, Phi nói có lý quá. Người Việt mình, vốn có câu thân lừa ưa nặng. Hồi nào còn làm công việc dọn vệ sinh, lau quét cửa hàng với ba người Việt khác, cô đã nhìn thấy người ta lao động ra sao, nếu người chủ không ở đó. Cô nhìn Kumar vẻ đắc thắng, trong khi Phi nói tiếp, cho rõ thêm những kinh nghiệm của anh trong nghề lắc chảo suốt ba năm:
– Sự tự giác đứng trong một bộ máy dủ nhỏ với người Việt ta là khó đấy. Vào dây chuyền của Tây, công nghệ nó buộc mình phải làm việc thôi. Hơn nữa, còn vấn đề nữa, mà chưa từng làm quản lý, các bạn khó nhận ra lắm. – Phi nói và kể, mắt anh long lanh sáng vì những gì thu lượm bấy lâu nay trong việc quản lý cái quán nhỏ và nay là một tiệm ăn lớn, vô tình đã giúp cho bạn bè của anh ở vai trò cố vấn mới oai chứ.
– Này nhé! Hàng tháng người làm thuê cho quan lao động kiệt sức. Anh chỉ trả cho họ đúng với giá nhân công tại đây, họ nhận được một ngàn. Trong khi đó, nếu quán của các bạn bán mỗi ngày chỉ ba bốn trăm Euro, sẽ thu lời ba bốn ngàn một tháng và người làm thuê sẽ suy tính ngay. Họ không bao giờ nghĩ tới, điều kiện nào tạo nên chỗ làm cho họ, để biến toàn bộ thành số tiền trả trong từng thành viên trong quán? Người ta sẽ thấy khó chịu, khi hàng tháng các bạn bỏ túi ba tới năm ngàn dễ quá. Tớ cũng ăn cắp khi làm thuê cho vợ. Bạn tớ cũng có người hôm nay ăn cắp của tớ. Mèo nhỏ bắt chuột nhỏ. Phải có hai người chông nom quán. Kumar đi thì Quyên ở đấy. Không thể làm khác đi được đâu… Hôm ấy, qua ý kiến của Phi, Quyên đắc thắng khi được ủng hộ, vậy là cô sẽ trở thành người lao động chính chả kém gì Kumar. Ừ việc bé như vậy mà nếu không có Phi có lẽ cô còn giận dỗi Kumar dăm ngày nữa.
Ngày mang chiếc Imbisswagen về thật lúng túng, nếu không có Phi trợ giúp. Anh mượn ở đâu chiếc VW mười hai chỗ, mũi cá mập có sẵn móc kéo. Không có Phi kéo giúp chiếc quán cơ động ấy, Kumar và Quyên sẽ phải tốn năm trăm Euro thuê người ta kéo về. Kumar không thể tự làm điều đó được, bởi vì lái xe có moóc ấy lại có bao nhiêu dụng cụ, đồ lề nhà bếp, thật nguy hiểm ở đoạn cua trên đường đầy băng giá.
Trước khi khai trương một tuần, Phi đã mang tới tặng cho họ một chiếc tủ lạnh và một chiếc tủ đá đựng thức ăn. Hai thứ đó Phi mua ngay bên siêu thị Rial. Vài việc như vậy của Phi làm Kumar hết sức ngỡ ngàng, cảm động. Anh cũng chẳng nói được một lời cám ơn Phi, cứ nắm tay Phi lắc mãi. Trong thâm tâm, Kumar thực vô vàn biết ơn người bạn Việt Nam ấy, bởi anh thừa biết rằng, chẳng người đàn ông nào có thể vô tư, khi hàng ngày thấy người đàn bà mình yêu trước đó đang hạnh phúc bên người đàn ông khác. Hình như Phi vẫn yêu Quyên, không thương nhớ bóng hình Quyên, sao anh lại nhanh chóng lấy Quyên nhỏ, một người có cái tên và hình dáng giống Quyên? Những tình yêu thật sự bao giờ chẳng có sự hy sinh!
Hai tháng sau ngày khai trương cửa hàng, bao công việc nữa cứ tiếp nối dồn dập, làm Quyên có cảm giác quay cuồng như chong chóng. Rồi mọi sự cũng dần quen và qua đi, quán hàng bắt đầu hoạt động nhịp nhàng. Với Kumar, công việc chẳng bõ bèn, vất vả gì. Anh vốn đã từng quen trận mạc với nghề nặn bột, xào mì, lắc chảo, v.v… Sớm sớm anh dạy từ năm giờ, đạp xe ra quán và ngâm mì, thái hành, thái thịt, tay năm, tay mười cho tới tận tám giờ sáng mọi việc mới hòm hòm. Quyên ra muộn hơn, bảy giờ cô mới cho Thanh Vân ăn xong, cô tất tả đưa con đi gửi nhà trẻ và đạp xe ra tới quán đã gầm tám giờ. Với Quyên, phải đứng cả ngày trong quán bán hàng cô không sợ. Dù tuần lễ đầu tiên đôi chân cô mỏi nhừ, cứng đờ, tụ máu. Tuy nhiên trong vài tuần lễ đầu tiên, cô hay luống cuống, mất cả bình tĩnh khi giờ ăn trưa tới, khi trong quán người xếp hàng rồng rắn đứng đợi, gọi vài món ăn khác nhau là có thể làm cô lúng túng và nhầm lẫn.
Kumar xào mì rất thuần thục, anh lại nhanh nhẹn. Nhưng anh chỉ có hai bàn tay, hai con mắt nên không thể nổi lửa hai, ba chảo. Vả lại khi mà họ kiên quyết làm đúng lời Phi dạy, phải xào từng đĩa mì cho khách, không xào một chảo mì lớn. Để giữ chữ tín, Kumar vẫn kiên nhẫn, bình tĩnh thao tác sao cho có đĩa mì đậm đà, thịt gà trắng ngà, thơm phức mà chỉ quán của Kumar mới có. Chính vì thế, việc bán hàng lúc đông khách, đôi khi cứ rối tung cả lên. Cứ chứng kiến vài buổi trưa mà xem, lúc thương khác cả dãy sốt ruột xếp hàng, mà thời gian ăn trưa của họ chỉ cho phép trong vòng hơn một giờ đồng hồ. Người ta bảo rằng, tất cả các quán ăn nhanh của người Việt vào thời khắc buổi trưa, vợ chồng bán chung một quán là hay cãi nhau lắm cũng đúng. Này nhé, chỉ cần một trong hai người chậm chạp, nhầm một tẹo là như đứt mất dây chuyền. May là Kumar rất đằm tính. Anh không bao giờ cáu nhặng lên khi Quyên đưa nhầm món ăn cho khách. Quyên cũng cố gắng sao để thao tác ngày một thành thục. Cô cũng không nôn nóng, khi cô biết rằng, nếu chậm chạp quá, hoặc nhầm lẫn vài lần, khách hàng có thể giận dỗi bỏ đi. Quyên và Kumar cũng có khi bất đồng vài điểm nhỏ. Nhưng cả hai đều thống nhất tôn trọng một nguyên tắc, đó là sự bảo đảm tuyệt đối chất lượng, vệ sinh, sao cho các đĩa mì xào của họ đưa tới tay khách hàng không gây ấn tượng xấu. Dân Đức cũng hay rỉ tai nhau lắm! Cô biết điều ấy.
Thật ra công việc bán hàng mới mẻ quá, vất vả túi bụi đêm ngày Quyên không ngại. Cô chỉ buồn nhất là mái tóc từng ngày từng ngày bết vào bởi dầu ăn bốc lên khi đứng quán xào nấu cả ngày. Chẳng còn mớ tóc óng ả, mềm mại như xưa nữa. Mỗi chiều về gội đầu, cô hoảng sợ nhìn từng lọn tóc thi nhau rụng xuống sàn nhà tắm, dù ngày nào cô cũng chít một cái khăn và đội mũ bếp cẩn thận. Lại khốn khổ nữa, dính vào cái nghề lắc chảo, cực nhất là đang đứng bán hàng, lại phải chạy ra khỏi quán, vì một công việc đột xuất bất kỳ nào đó. Tỷ như mỗi lần vội về trường đón Thanh Vân, Quyên chẳng kịp thay quần áo, khi ấy mùi Imbiss trong người cô, từ tóc tai tới quần áo, cứ nồng nồng, hôi hôi toả ra, làm nhiều hành khách trên xe bus đôi khi nhìn cô tỏ ý khó chịu, tránh xa.
Họ thường đóng cửa tám giờ tối. Kumar dọn dẹp xong để trở về với Thanh Vân thì cũng chín giờ. May mà các buổi chiều thường vắng khách nên Quyên được về từ bốn giờ chiều để đón Thanh Vân. Chơi với nó một lát, rồi hai mẹ con tắm táp, giặt giũ, cũng như nấu bữa tối, rồi đợi Kumar trở về. Đó có lẽ là thời gian dù còn bận rộn, nhưng với Quyên nó vẫn có ý nghĩa nhất, như một sự thư giãn trong một ngày, khi cô được vừa làm bếp hay giặt là, vừa đùa chơi, nói chuyện với con. Có lẽ cũng chẳng có khi nào được thư giãn một cách tuyệt đối, vì ngay sau bữa ăn tối, sớm nhất bắt đầu từ chín giờ ba mươi tối, cả Kumar và Quyên đều đã mệt nhoài, vội lăn ra giường qua đêm. Và, sớm hôm sau họ lặp lại một ngày mới y nguyên như vậy.
Mấy tháng trôi đi, nhiều người làm việc trong các công sở quanh đó bắt đầu trở thành khách hàng ruột của quán Kumar. Điều đó thật quan trọng, bởi vì nó ổn định về doanh số bán ra từng ngày, ổn định tương đối về lãi ròng của cửa hàng, mang về cho họ đều đều số tiền có thể tiết kiệm hàng tháng hai, ba ngàn Euro.

*

Thời gian vùn vụt trôi đi.
Thanh Vân đã tám tuổi. Nó đi học lớp hai ở trường ngay gần nhà và có thể hát lau láu nhiều bài hát tiếng Đức và tiếng Anh.
Sáu năm rồi, Quyên đã có thể đứng bán hàng một mình, chẳng cần Kumar phụ giúp. Cô cũng nhận ra bao nhiêu điều mà nhiều khi ở Hà Nội có giàu tưởng tượng tới mấy cô cũng không thể hiểu rõ cuộc sống của những người Việt kiếm sống và sinh hoạt ở nước Đức như thế nào. Việc bán hàng ăn thì cô rành quá rồi! và sáu năm lăn lộn ấy, cô cũng biết thêm rằng, những người Việt, người Pakistan, người Thổ bán quần áo lang thang vất vả ra sao mới có thể có được đồng ra đồng vào.
Năm ngoái Hội chợ thành phố mở ngay cửa siêu thị Rial. Ba bốn người Việt đồng hương của cô từ thành phố nào đấy chạy về mua chỗ đựng lều bày bán cả trăm mặt hàng. Nào đồ lưu niệm, nào kính, bút, băng nhạc, giấy vở và quần áo treo phất pha phất phới. Cô làm quen với một thanh niên rất trẻ từ Nghệ Tĩnh chạy sang đây với bà chị của cậu và làm chân phụ bán hàng. Trời lạnh âm hai mươi độ. Cậu bé ăn mặc ấm, nhưng lại đi đôi giầy thể thao. Được dăm hôm cậu kêu đau chân. Cậu bảo, hôm nào cũng phải dậy từ 3 giờ sáng, chạy tới hội chợ đã bốn giờ, dựng ngay lều quán mới kịp đón khách vào lúc 8 giờ. Ăn trưa ở quán, cậu thanh niên hơ nhờ đôi chân lên lò sưởi gas của Quyên đặt trước quầy cho khách đỡ lạnh. Mải nói chuyện, đôi tất của cậu khô đi và bốc cháy trong chớp mắt mà cậu ta không biết. Hoá ra bàn chân cậu dằm trong băng tuyết từ bốn giờ sáng tới trưa trở nên quá tê cứng, mất hết cả cảm giác. Một thực khách người Đức có mặt hôm ấy, lão già Stepan, bảo với Quyên: “Những người Á châu không có kinh nghiệm sống chung với băng tuyết, cứ để chân lạnh sẽ làm thận hư đấy. Nếu nhẹ thì mắc bệnh thần kinh thực vật, sau này đau nhức khắp lưng”.
Gần một năm sau, rất tình cờ, trong Hội chợi thành phố nhân ngày Lễ trứng, Quyên gặp lại quầy bán quần áo của người chị. Không thấy người bạn trẻ, Quyên hỏi thăm chủ quầy. Hoá ra cậu ta đã về nước. Tâm, cậu thanh niên ấy bị liệt một chân, sau mùa làm ăn Noel dài bốn tháng, mỗi ngày dầm chân trong băng giá tới mười hai tiếng. “Nó được chữa trị gần năm tháng. Bác sỹ bảo, tới viện quá muộn, nó bị cắt một bàn chân và về Việ Nam rồi”. Ngay khi đó, Quyên không hề hiểu vì sao người ta có thể vô trách nhiệm với chính bản thân như vậy. Mãi cho tới khi gặp Phi ở bữa ăn trưa trong hội chợ, cô mới vỡ ra rằng, nhiều người Việt, chứ chẳng riêng gì cậu thanh niên kia, đều không bao giờ tìm tời bác sỹ khi bệnh tật mới có dấu hiệu ban đầu. Chỉ tới khi phát bệnh nặng họ mới sử dụng bảo hiểm y tế, đến bác sỹ và lúc đó dẫn tới kết cục thường là vô phương cứu chữa.
Đêm hôm đó tới tận khuya, cô cứ chập chờn nhớ tới khuôn mặt trẻ trung của cậu thanh niên hôm nào. “Nó bị cắt một chân rồi” câu nói ấy cứ xoáy vào tâm trí cô. Hình như nó, câu nói ấy, còn ở đâu đó xa thẳm vọng lên, để cô nghe rõ tiếng nạng gỗ chọc xuống hè đường Hà Nội. Tiếng dộng đục và vang! Những âm thanh tròn và đều cứ lăn mãi trên đường phố, trên các viên đá lát vỉa hè sau thập kỷ bảy mươi, khi cô vừa hai tuổi, hôm nay lại vang lên. Những âm thanh xa xôi ấy, bấy lâu tưởng đã tan theo thời gian, hôm nay lại có dịp vọng về.
“Như nhau cả thôi, ở đây mỗi kẻ tha hương, để đổi lấy những đồng ngoại tệ mạnh đều phải trả giá, kẻ thì cho đi hạnh phúc vốn mong manh, nhận lấy những điều con chắp vá mong manh hơn, kẻ thì trả giá vì sự hiểu biết thiếu hổng về trăm ngàn kỹ năng sống cần có trên xứ lạ, tỷ như sự hiểu biết về luật pháp, văn hoá, khí hậu và cả những quan hệ giữa các dân tộc mà mọi người cần cảm nhận sâu sắc trong cái thế giới vốn không ít cạm bẫy”.
Hai năm sau ngày mở quán, Kumar mua một chiếc xe VW Gold. Chiếc xe mới chạy được tám chục ngàn kilomet. Ô-tô còn thơm mùi ghế nệm, mùi sơ, si. Sớm chủ nhật, cả nhà leo lên chiếc xe mới mua, chạy một vòng quanh thành phố, đi về phía những cánh đồng trồng rất bát ngát hoa bạch dương, cải và lúa mì. Cuộc đời bắt đầu sáng ra dần chăng? Quyên nhìn ra cửa xe nghĩ. Nửa năm sau ngày Kumar mua ô-tô, Quyên cũng thi đỗ bằng lái xe. Thế là cô có thể tự lái xe đi làm hàng ngày mỗi khi vắng Kumar, cô cũng chẳng lo giá rét.
Việc buôn bán Imbiss cũng ngày một hanh thông, thu nhập luôn ổn định làm cho Quyên thấy cuộc sống dễ thở hơn! Có đồng ra đồng vào, đôi khi cô cứ tủm tỉm cười một mình.