Hồi 7
Ganh tài, Công-tử Át giết Khảo-thúc
Tham chức, Công-tử Vận hại vua hiền

Trịnh trang-công nhận được thư Thế-tử Hốt, vội vã truyền lui quân về nước.
Di trọng-niên và Công-tử Vận hay được tin, đến ra mắt Trịnh trang-công và hỏi:
- Chúng tôi đã lấy được hai thành của nước Tống, thế quân đang mạnh, sao Chúa-công lại truyền lui binh?
Trịnh trang-công vốn là một kẻ đa mưu, túc trí không cho Tề và Lỗ biết được nội tình của mình, bèn đáp:
- Ta phụng mệnh kéo binh đánh Tống, nay nhờ binh hai nước mà chiếm được hai thành. Như thế tưởng cũng đã đũ trị tội Tống rồi. Hơn nữa, Tống là con cháu của nhà Thương, Thiên-tử vẫn có lòng kính, ta không nên làm đến quá lẽ. Hai thành vừa chiếm được xin nhượng lại cho Tề và Lỗ, mỗi nước một thành.
Di trọng-niên nói:
- Chúa-công phụng-mệnh Thiên-tử đem binh phạt Tống. Bổn phận chúng tôi là phải đem binh đến giúp, đâu dám kể công.
Nói rồi nhất định từ chối không nhận đất.
Trịnh trang-công nói:
- Nếu Tề không nhận thì xin tặng cả hai thành ấy cho Lỗ để đền ơn khó nhọc đã vào Lão Ðào trước.
Công-tử Vận không từ chối gì cả tỏ lời cảm tạ Trịnh trang-công rồi sai người ra trấn giữ hai thành ấy.
Trịnh trang-công bày tiệc khao thưởng quân sĩ, rồi cùng với công-tử Vận, Di trọng-niên làm lễ ăn thề, hứa sẽ giúp đỡ cùng nhau trong cơn hoạn nạn.
Ðoạn ba nước chia tay, quân nước nào kéo về nước nấy.
Di trọng-niên về nước, thuật lại cho Tề hi-Công nghe việc ấy được hai thành nước Tống và nhường cho nước Lỗ.
Tề hi-công nói:
- Trước kia ta đã có lời thề với Trịnh trang-công nơi Thạch-Môn, hễ có việc thì giúp nhau, nay tuy lấy đặng thành, lẽ phải giao về Trịnh mới đúng.
Di trọng-niên tâu:
- Trịnh-bá cố chối từ, chẳng chịu lãnh, nên mới giao hết cho Lỗ-hầu.
Tề hi-Công nghe nói, cho Trịnh trang-công là kẻ đại-độ, và khen ngợi không ngớt.
Khi Trịnh trang-công đem binh về đến nữa đường thì lại nghe tin quân Vệ đã sang đánh nước Sái.
Trịnh trang-công vỗ tay cười lớn, nói:
- Khổng phụ-gia quả là một kẻ chưa rành binh-pháp. Ðang đánh nước Trịnh mà lại gây chuyện với nước Sái, như thế tức là đã công làm hại được nước ta mà còn giúp cho ta có cơ-hội tốt để lấy nước Sái rồi.
Bèn truyền cho bốn tướng phân làm bốn đội, cuốn cờ, giấu trống, kéo thẳng đến Sái-quốc.
Trong lúc đó Vệ và Tống đang hiệp binh với nước Sái bàn mưu công thành.
Bỗng có quân vào báo:
- Nước Trịnh sai thượng-tướng là Công-tử Lữ đem binh qua cứu nước Sái, hiện đóng trại cách thành năm chục dặm.
Thái-tể Xủ nói:
- Ðó là tướng thua Thạch-hậu ngày trước, có đũ chi mà sợ.
Lại có tin báo nữa rằng:
- Nước Sái đã mở cửa thành đón quân Trịnh vào.
Khổng phụ-gia thất kinh, nói:
- Ta coi nước Sái như đã lấy được trong tay, nay có binh Trịnh đến giúp, thật khó bề thắng nổi!
Thái-tể Xủ nói:
- Nếu Trịnh đã giúp Sái, thể nào cũng đem binh khiêu chiến. Vậy ta lên lủy cao xem thử trong thành động tịnh thế nào, để biết mà đối phó.
Hai người dắt nhau vừa lên đến chổ cao, bỗng nghe có tiếng súng nổ vang trời, qua một lúc, trên thành nước Sái cắm toàn cờ Trịnh, và Công-tử Lữ mặc áo giáp đứng trên thành gọi Khổng phụ-gia nói lớn:
- Ta cảm ơn tướng-quân đã giúp ta chiếm được nước Sái rồi nhé!
Ấy là mưu của Trịnh trang-công lập kế sai Công-tử Lữ giả danh giúp Sái, rồi khi vào được trong thành mới đuổi vua nước Sái đi mà chiếm đất.
Vua nước Sái phải bỏ trốn sang Tần thoát nạn.
Khổng phụ-gia thấy thế máu giận sục sôi, ném mũ xuống đất hét lên:
- Ta quyết không đội trời chung với Trịnh.
Thái-tể Xủ nói:
- Trịnh trang-công binh pháp rất lợi hại, thế nào bên ngoài cũng có quân tiếp ứng. Nếu trong ngoài đánh dồn lại, quân ta nguy mất!
Khổng phụ-gia nói:
- Sao tướng quân lại nhát gan đến thế? Chẳng lẽ công-phu chúng ta vây thành, nay lại nhường cho Trịnh chiếm cứ hay sao. Bề nào cũng phải đánh mới được.
Dứt lời, trong thành có người mang chiến thư ra, thách đánh.
Khổng phụ-gia phê vào chiến-thư, hẹn ngày mai nghênh-chiến.
Ðêm ấy, quân của Khổng phụ-gia đóng trại cách thành hai mươi dặm để đề phòng quân tiếp viện.
Nhưng trại vừa đóng xong thì tiếng súng đã nổ ran, quân Trịnh kéo đến khiêu chiến, ánh lửa đốt sáng lòe.
Khổng phụ-gia nổi giận, tay cầm phương-thiên họa-kích, giục chiến xa đến trước trận ứng chiến.
Nhưng khi đến nơi, ánh lửa tắt lịm, không thấy một tên quân Trịnh nào.
Khổng phụ-gia kéo quân về trại. Nhưng vừa về đến trại, thì lại thấy lửa cháy sáng lòe, tiếng súng nổ chan-chác.
Không phủ-gia nói:
- Ðó là kế nghi binh của quân Trịnh muốn đánh lừa ta đó thôi.
Bèn ra lệnh án binh bất động.
Bỗng có quân vào báo:
- Quân nước Sái đã bị Trịnh đánh tan vỡ.
Khổng phụ-gia lập tức đem quân đi cứu ứng.
- Quân Ngô đã đến đánh Mạch Thành, xin tướng quân mau mau rút quân về.
Đấu Sào sợ mất sào huyệt, vội vàng rút về. Quân sĩ thấy vậy sợ hãi, thành rối loạn. Công tử Kiền thừa thế đánh một trận, nhưng không dám đuổi theo. Đấu Sào về đến Mạch Thành, gặp Ngũ Viên đang dàn quân để vây thành. Đấu Sào chào Ngũ Viên mà bảo rằng:
- Lâu nay ngài vẫn mạnh giỏi chứ? sự oán thù đời trước của nhà ngài là do Phí Vô Cực gây ra, nay đứa du nịnh ấy đã bị giết rồi, ngài còn căm tức nỗi gì nữa! cái ơn ba đời làm quan nước SỞ, tôi tưởng ngài chưa thể quên được!
Ngũ Viên đáp rằng:
- Tiền nhân ta có công to với Sở, vua Sở không nghĩ đến lại giết oan cha anh ta và muốn giết cả ta nữa. May mà có trời giúp, ta mới thóat được nạn, chịu cay đắng trong mười chín năm nay cho đến bây giờ. Nhà ngươi có xét tình thì mau mau tránh ra xa, chớ có cùng ta xung đột, để bảo toàn lấy tính mệnh.
Đấu Sào liền mắng rằng:
- Đứa phản tặc kia, nếu ta tránh mày thì còn ra thế nào!
Đấu Sào bèn cầm kích xông vào đánh Ngũ Viên. Ngũ Viên cũng cầm kích ra nghênh chiến. Hai bên đánh nhau, mới được mấy hợp, Ngũ Viên bảo Đấu Sào rằng:
- Nhà ngươi đã mệt nhọc rồi, ta cho nhà ngươi vào thành, đến sáng mai sẽ đánh.
Đấu Sào nói;
- Ngày mai sẽ quyết chiến một trận!
Hai bên cùng rút quân. Người trong Mạch Thành liền mở cửa để đón quân Đấu Sào vào. Đến nửa đêm, tự nhiên trên mặt thành nghe có tiếng reo: "quân Ngô đã vào trong thành rồi!" nguyên trong quân Ngũ Viên có nhiều người trước là quân Sở sang đầu hàng, bởi vậy Ngũ Viên cố ý thả cho Đấu Sào vào thành, rồi sai những quân ấy trà trộn với quân Sở mà lẻn vào trong thành đợi đến nửa đêm sẽ giòng dây qua mặt thành đã có hơn một trăm quân Ngô đương reo ầm cả lên; ở ngoài thành thì có quân Ngũ Viên tiếp ứng. Quân Đấu Sào thấy vậy, bỏ chạy tán loạn. Đấu Sào ngăn cấm không được, cũng phải bỏ chạy. Ngũ Viên không đuổi theo nữa, chiếm lấy Mạch Thành rồi sai người báo với Hạp Lư.
Tôn Vũ đem quân qua Hổ Nha sơn quanh vào đông Dương Bản, trông thấy sông Chương Giang ở phía bắc thế nước to lắm, Kỷ nam thành thì thế đất hơi thấp, phía tây có Xích Hồ, nước hồ thông vào Kỷ Nam thành và Sính Đô. Tôn Vũ nghĩ ngay một kế, truyền cho quân sĩ lên đón cả ở gò cao, sắp sẵn thuổng cuốc, đến đem hôm ấy thì đào một cái ngòi sâu, tháo nước sông Chương Giang cho chảy vào Xích Hồ, lại đắp một cái đê dài chắn nước, làm cho mặt nước cao hơn mặt đất hai ba trượng.
Bấy giờ vừa gặp mùa đôg, gío tây nổi lên, Tôn Vũ liền tháo nước cho chảy vào Kỷ Nam thành. Quan trấn thủ ở Kỷ Nam thành tên gọi Tống Mộc, tưởng là nước lên, truyền cho dân chạy về Sính Đô để tránh nước; chẳng ngờ thế nước mỗi ngày một lớn, cả xứ Sính Đô cũng trắng xoá như bể. Tôn Vũ sai người đẵn tre ở trên núi ghép làm thuyền bè. Quân Ngô tiến thẳng đến tận kinh thành nước Sở, bấy giờ người nước Sở mới biết là quân Ngô tháo nước sông Chương Giang, ai cũng sợ hãi, bỏ chạy tán loạn. Sở Chiêu vương biết là Sính Đô không thể giữ nổi, mới sai Trâm Doãn Cố sắp thuyền, rồi cùng em gái là Qúi Vu cùng xuống thuyền để chạy. Công tử Kết đang đứng trên mặt thành thúc quân giữ nước, nghe nói Sở Chiêu vương đã xuống thuyền chạy, bất đắc dĩ cũng phải chạy theo. Tôn Vũ phụng Hạp Lư tiến vào trong thành, rồi sai người đi phá cái đê ngang chắn nước, nước lại rút về sông Chương Giang rồi chia quân đi giữ các mặt. Ngũ Viên ở Mạch Thành cũng đến yết kiến Hạp Lư. Hạp Lư ngồi ở trên điện Sở Chiêu vương, các quan triều thần đều vào lạy mừng. Đường Thành công và Sái Chiêu công cũng vào yết kiến. Hạp Lư mừng lắm bày tiệc mua vui. Đêm hôm ấy, Hạp Lư ngủ ở trong cung Sở Chiêu vương.
Các thị vệ bắt được Sở Chiêu vương phu nhân, đem dâng Hạp Lư. Hạp Lư toan cho vào hầu, nhưng còn ngần ngại. Ngũ Viên bảo Hạp Lư rằng:
- Nước còn chiếm lấy, huống chi là vợ!
Hạp Lư mới cho vào hầu. Có người tâu với Hạp Lư, nói mẹ Sở Chiêu vương là nàng Bá Doanh, tức là vợ thế tử Kiền, khi trước Sở bình vương thấy đẹp chiếm lấy, nay cũng mới đứng tuổi, chưa lấy gì là già. Hạp Lư động lòng, sai người đến triệu. Bá Doanh không chịu ra. Hạp Lư nổi giận, sai người đi bắt. Bá Doanh đóng chặt cửa phòng lại, rồi lấy thanh kiếm đập vào cửa mà nói rằng:
- Thiếp nghe nói vua là tiêu biểu cho một nước. Cứ theo lễ thì trai gái không ngồi cùng giường, không ăn cùng mâm, để giữ cho có phân biệt. Nay nhà vua trái lễ mà bày cái gương dâm loạn cho người trong nước. Kẻ vị vong này sẽ đâm cổ mà chết, chứ không dám theo lời!
Hạp Lư hổ thẹn, xin lỗi mà rằng:
- Ta vì kính mến phu nhân, muốn được trông mặt, chứ có dám có ý nghĩ gì đâu!
Hạp Lư lại nghiêm cấm tướng sĩ không ai được vào. Ngũ Viên tìm mãi, không bắt được Sở Chiêu vương mới cho bọn Tôn Vũ và BÁ Hi chiếm cứ lấy các nhà quan đại phu, bắt thê thiếp vào hầu hạ, để làm cho sỉ nhục. Đường Thành công, Sái Chiêu công cùng công tử Sơn vào sục tìm nhà Nang Ngoã thì thấy áo cừu và ngọc bội vẫn để nguyên phong ở trong hòm, đôi ngựa túc sương cũng vẫn ở trong chuồng ngựa. Đường Thành công và Sái Chiêu công bèn lấy lại những đồ vật của mình đem dâng Hạp Lư. Hạp Lư thấy nhà Nang Ngõa có nhiều châu báo vàng bạc, bèn cho phép các thị vệ tha hồ vào lấy, thành ra của cải rơi bừa bãi cả ngoài đường. Công tử Sơn toan cướp lây vợ Nang Ngoẫ. Công tử Phu Khái đến, lại đuổi công tử Sơn mà tranh lấy. Ngũ Viên xin với Hạp Lư muốn phá huỷ nhà tôn miếu nước Sở.
Tôn Vũ can rằng:
- Việc binh nên phải lấy điều nghĩa làm chủ. Sở Bình vương bỏ thế tử Kiến mà lập con Tần nữ, tin nghe những đứa tham nịnh, giết hại những người trung lương, dùng cách tàn bạo mà đối đãi với chư hầu. Bởi thế, quân Ngô ta mới đến đây được. Nay đã phá vỡ kinh thành nước Sở rồi, ta nên lập ngay con thế tử Kiền là công tử Thắng lên làm vua Sở đi. Người nước Sở vẫn thường nhớ thế tử Kiến, tất nhiên bằng lòng, mà công tử Thắng sẽ cảm ơn nước Ngô ta, không bao giờ dám bỏ sự triều cống. Thế thì đại vương dẫu xá cho Sở, cũng như là chiếm lấy Sở, danh và thực trọn cả đôi đường.
Hạp Lư muốn diệt nước Sở, mới không nghe lời Tôn Vũ liền phá huỷ nhà tôn miếu của nước Sở. Đuờng Thành công và Sái Chiêu công cũng cáo từ về nước. Hạp Lư lại bày tiệc ở Chương Hoa đài, cho các quan triều thần uống rượu. Nhạc công tấu nhạc. Các quan triều thần vui vẻ cả, chỉ có Ngũ Viên vẫn cứ buồn rầu, ứa nước mắt mà khóc. Hạp Lư bảo Ngũ Viên rằng:
- Nhà ngươi đã thoả được chí báo thù nước Sở rồi, cớ sao lại còn buồn rầu?
Ngũ Viên gạt nước mắt đáp rằng:
Sở Bình vương thì đã chết rồi, vua Sở bây giờ cũng trốn mất, thế thì cái thù của cha anh tôi, muôn phần chưa báo được một phần!
Hạp Lư nói:
- Vậy ý nhà ngươi muốn thế nào?
Ngũ Viên nói:
- Xin đại vương cho tôi đào mã Sở Bình vương lên, phá áo quan ra mà chém lấy đầu thì tôi mới hả được lòng căm tức.
Hạp Lư nói:
- Nhà người giúp ta được nhiều việc, ta tiếc gì mà không cho đào nắm xương khô ấy lên, để báo thù cũ cho nhà ngươi.
Ngũ Viên hỏi biết mộ Sở Bình vương chôn ở ngoài cửa đông, liền đem quân bản bộ đến. Khi đến nơi, thấy bốn mặt đồng cỏ xanh ngắt, một vùng nước hồ trong veo, chẳng biết mộ chôn ở chỗ nào cả. Ngũ Viên mới vật mình than khóc mà nói rằng:
- Trời ơi! trời không khiến ta báo được thù cho cha và anh ta hay sao!
Bỗng có một ông cụ già đi đến trước mặt Ngũ Viên, vái chào mà hỏi rằng:
- Tướng quân muốn tìm mộ Sở Bình vương để làm gì?
Ngũ Viên nói:
- Sở Bình vương lấy tranh vợ của con, dùng kẻ du nịnh hại người trung lương, lại giết cha anh ta, lúc sống ta không thể đâm chết y được thì lúc chết ta cũng muốn xả xác y ra để báo thù cho cha ta và anh ta ở dưới suối vàng.
Ông cụ già nói:
- Sở Bình vương cũng biết mình có nhiều người oán, sợ có kẻ đào mà, vậy nên mộ chôn ở giữa hồ. Tướng quân muốn tìm áo quan thì phải tát cạn cái hồ này mới lấy được.
Ông cụ già nói xong, lại trỏ cho Ngũ Viên biết chỗ. Ngũ Viên sai người lặn xuống mò, sờ thấy có một cái quách bằng đá, liền sai quân sĩ mỗi người mang một túi đất xếp xung quanh mộ, rồi tát nước ra, đào lên xem. Khi mở cái quách đá ấy ra, thấy trong có một cái áo quan rất nặng. Mở áo quan ra xem, chỉ thấy mũ áo và mấy trăm cân sắt mà thôi. Ông cụ già nói:
- Đấy là áo quan giả, còn áo quan thật ở bên dưới kia.
Ngũ Viên liền sai đào một tầng nữa, quả nhiên có áo quan thật. Khi lôi xác ra, thấy đích thị là xác Sở Bình vương da thịt vẫn còn nguyên cả. Ngũ Viên trông thấy, hầm hầm nổi giận, tay cầm cái roi đồng, đánh luôn ba trăm roi, khiến xương rơi thịt nát. Ngũ Viên lại lấy chân giẫm lên bụng xác Sở Bình vương, rồi hỏi ông cụ già rằng:
- Tại sao cụ lại biết rõ chỗ chôn Sở Bình vương và sự thể quan quách như thế?
Ông cụ già nói:
- Tôi có phải là ai đâu, chính là thợ đá đã làm cái mộ này lúc bấy giờ! bấy giờ Sở Bình vương sai bọn thợ đá chúng tôi hơn năm chục người làm một ngôi giả. Khi làm xong, sợ bọn chúng tôi tiết lộ ra, liền đem giết hết cả, chỉ có một mình lão trốn được. Nay cảm lòng hiếu nghĩa của tướng quân, lão phải đến đây để mách bảo. vả cũng là để báo thù cho hơn năm chục cái hồn oan của bọn thợ đá chúng tôi khi xưa.
Ngũ Viên sai đem vàng bạc thưởng cho ông cụ già.
Lại nói chuyện Sở Chiêu vương đi thuyền quan sông Thư Thủy, trốn vào Vân Trung, gặp một bọn giặc độ mấy trăm người, đang đêm xuống cướp thuyền, cầm giáo đánh Sở Chiêu vương. Bấy giờ công tôn Do Vu đứng ở bênh cạnh, lấy lưng che chở cho Sở Chiêu vương và quát to lên rằng:
- Đây là vua Sở, các ngươi làm gì thế?
Công tôn Do Vu nói chưa dứt lời thì ngọn giáo của bọn cướp đâm trúng vào vai, máu chảy đầm đìa đến tận gót. Do Vu ngã gục xuống đất. Bọn giặc nói:
- Chúng ta chỉ biết tiền của chứ không biết vua là ai cả! đến như quan lệnh doãn đại thần, cũng còn tham ăn tiền, huống chi là chúng ta!
Bọn giặc nói xong, bao nhiêu vàng bạc ở trong thuyền, lấy hết sạch cả. Trâm Doãn Cố vội vàng ôm Sở Chiêu vương, chạy lên bờ, Sở Chiêu vương kêu to lên rằng:
- Có ai cứu em gái ta đó không?
Quan hạ đại phu là Chung Kiến ghé lưng cõng nàng Quí Vu đi theo Sở Chiêu vương. Khi ngảnh đầu trông lại đã thấy bọn giặc phóng hoả đốt thuyền. Sở Chiêu vương chạy được mấy dặm, thì trời sáng rõ. Công tử Kết, Tống Mộc, Đấu Tân và Đấu Sào đều lục tục theo đến nơi. Đấu Tân nói với Sở Chiêu vương rằng:
- Nhà tôi ở Viên ấp chỉ cách đây độ bốn mươi dặm, xin đại vương hãy tạm đến đó, rồi sau sẽ liệu.
Được một lúc, công tôn Do Vu cũng theo đến. Sở Chiêu vương ngạc nhiên mà hỏi rằng:
- Nhà ngươi bị thương nặng, làm thế nào mà khỏi được?
Do Vu nói:
- Tôi đau quá không chạy được, khi lửa cháy đến mình tôi, bỗng thấy có một người vực tôi lên bờ. Trong khi mơ màng, tôi nghe tiếng nói rằng: "ta là quan lệnh doãn nước Sở cũ, tên gọi Tôn Thúc Ngao. Nhà ngươi nói cho đại vương biết: quân Ngô chẳng bao lâu nữa, sẽ phải rút về. Xã tắc nước ta vẫn còn vững bền mãi mãi!" nói xong, lại lấy thuốc dịt vào vai cho tôi, khi tôi tỉnh dậy, hết cả đau đớn, vậy mới theo kịp đến đây.
Sở Chiêu vương nói:
- Tôn Thúc Ngao tước, nguyên là người ở Vân Trung. Anh linh đến nay vẫn còn chưa mất!
Mọi người đều ngợi khen và lấy làm lạ lùng. Đấu Sào đem lương khô ra để mọi người cùng ăn. Trâm Doãn Cố cầm bầu đi lấy nưóc, để dâng Sở Chiêu vương. Sở Chiêu vương sai Đấu Tân đi tìm thuyền ở bến Thành Cữu. Đấu Tân trông thấy ở phía đông có một chíếc thuyền đi đến. Trong thuyền có cả đàn bà con trẻ. Nhìn kỹ thì ra thuyền của quan đại phu là Lam Doãn Điệp. Đấu Tân gọi mà bảo rằng:
- Đại vương ở đây, nhà ngươi nên đem thuyền lại để chờ.
Lam Doãn Điệp nói:
- Ông vua đã mất nước rồi, ta còn chở làm gì!
Lam Doãn Điệp nói xong, không hề ngánh cổ lại. Đấu Tân chờ đợi ít lâu nữa, lại thấy một chiếc thuyền đánh cá. Đấu Tân cởi áo ra, ném cho người lái thuyền. Người lái thuyền mới ghé thuyền vào bờ. Sở Chiêu vương và nàng Qúi Vu xuống thuyền đi sang Viên ấy. Người em thứ hai của Đấu Tân là Đấu Hoài đi làm cơm.
Khi Đấu Hoài dâng cơm, thường hay trông trộm Sở Chiêu vương. Đấu Tân có ý nghi, mới cùng người em út là Đấu Sào hầu liền ở bên cạnh Sở Chiêu vương. Đến nửa đêm, Đấu Tân nghe có tiếng liếc dao ở sau nhà. Đấu Tân mở cửa ra xem, thì thấy Đấu Hoài tay cầm một con dao nhọn, nét mặt hầm hầm. Đấu Tân hỏi:
- Em liếc dao làm gì?
Đấu Hoài nói:
- Em định giết vua.
Đấu Tân nói:
- Vì cớ gì mà em lại sinh lòng phản nghịch?
Đấu Hoài nói:
- Thân phụ ta (tức là Đấu Thành Nhiên) một dạ trung thành,mà vua Bình vương nghe lời Phí Vô Cực lại đem giết đi. Vua Bình vương đã giết thân phụ ta thì ta giết con vua Bình vương để báo thù lại, chẳng cũng nên chăng?
Đấu Tân nổi giận mắng rằng:
- Vua cũng như trời. Trời giáng họa cho ai thì người ấy phải chịu, chứ ai lại dám oán trời!
Đấu Hoài nói:
- Khi còn ở nước thì là vua, nay mất nước rồi thì là kẻ thù. Thấy kẻ thù mà không giết, sao gọi là người được?
Đấu Tân nói:
- Cổ ngũ có câu rằng: "Không nên oán đến đời con". Vả đại vương đã biết hối cái lỗi của đời trước mà dùng anh em ta, nay lại nhân lúc đại vương nguy cấp mà giết thì sao cho phải đạo. Nếu mày có lòng ấy, ta phải chém mày trước!
Đấu Hoài cắp dao ra đi, vẫn còn chưa nguôi cơn gia, đó là của bất nghĩa; hai là Vận Điền, năm trước nước ta lấy của nước Lỗ cho Lỗ Chiêu công ở; ba là Quí Âm Điền, tiên quân ta ngày xưa nhờ thế lực của nước Tấn mà lấy của nước Lỗ. Nước Lỗ mất ba xứ ruộng ấy vẫn lấy làm căm tức. Chúa công nên nhân dịp này đem ba xứ ruộng ấy trả lại nước Lỗ để xin lỗi thì vua tôi nước Lỗ tất phải bằng lòng, mà tình giao hiếu của ta và Lỗ càng thêm bền chặt.
Tề Cảnh công bằng lòng, liền sai Án Anh đem ba xứ ruộng ấy trả lại nước Lỗ. Ruộng Vấn Dương nguyên trước là của Lỗ Hi công ban cho Qúi Hữu, ngày nay nước Tề trả lại vua Lỗ, tức lại về tay họ Qúi. Bởi vậy Qúi Tôn Tư cảm ơn Khổng Tử, truyền đắp thành ở đất Qúi Âm, gọi là Tạ Thành để ghi công ấy; lại nói với Lỗ Định công thăng chức cho Khổng Tử làm đại tư khấu.
Bấy giờ có một con chim lớn dài ước ba thước, mình đen cổ trắng, mỏ dài mà có một chân, tự phía nam nước Tề bay sang nước Lỗ, vỗ hai cánh đứng múa ở ngoài đồng, người làm ruộng đuổi đi không được, rồi sau nó bay về phía bắc. Qúi Tôn Tư nghe có chuyện quái dị ấy, đem hỏi Khổng Tử, Khổng Tử nói:
- Con chim ấy tên gọi là thương dương, sinh ở bên Bắc Hải. Khi nào trời sắp mưa to thì con thương dương múa. Bởi vậy chỗ nào thấy con thương dương múa tất là chỗ ấy sắp có cái hại mưa dầm, chỗ giáp giới Tề và Lỗ nên phải phòng bị mới được.
Qúi Tôn Tư truyền cho dân ở đấy phải đắp đê và lợp nhà cho kỹ. Chưa được ba ngày thì quả nhiên trời mưa rất to, sông Vấn nước đầy tràn lên. Nước Lỗ đã có phòng bị trước, cho nên không bị hại. Việc ấy đồn đến nước Tề. Tề Cảnh công càng thêm kính phục Khổng Tử. Từ đấy Khổng Tử nổi tiếng là một nhà bác học, khắp trong thiên hạ ai cũng gọi là thánh nhân. Khổng Tử tiến dẫn Trọng Do (tên gọi là Tử Lộ) và Nhiễm Cầu (tên tự là Tử Hữu), Qúi Tôn Tư đều dùng làm gia thần.
Một hôm, Qúi Tôn Tư hỏi Khổng Tử rằng:
- Dương Hổ dẫu trốn đi, nhưng Công Sơn Bất Nhữu lại nổi lên, dùng cách gì mà trị được?
Khổng Tử nói:
- Ta phải dùng lễ chế thì mới trị được. Cứ theo như lễ chế thì gia thần không được chứa giáp binh, quan đại phu không được đắp thành một trăm trĩ, bởi vậy chức ấp tể không trông cậy vào đâu mà dám nổi loạn, sao ngài không bắt Công Sơn Bất Nhữu phá thành đi và bỏ đồ giáp binh đi, có phải là yên việc không?
Qúi Tôn Tư khen phải, nói với họ Mạnh và họ Thúc. Mạnh Tôn Vô Kỵ nói:
- Nếu có lợi cho nước nhà thì ta có tiếc gì.
Bấy giờ thiếu chính Mão đang ghét Khổng Tử, muốn phá việc ấy, mới sai Thúc Chiếp Mật báo cho Công Sơn Bất Nhữu biết. Công Sơn Bất Nhữu muốn giữ thành để làm phản, biết người nước Lỗ vẫn kính trọng Khổng Tử, cũng muốn nhờ Khổng Tử giúp cho, bèn sai người đưa lễ vật và một bức thư cho Khổng Tử. Thư rằng:
- "Từ khi Tam Hoàn chuyên chính, vua yếu, bề tôi mạnh, lòng người ai cũng oán giận. Tôi dẫu làm quan với họ Qúi, nhưng vẫn một lòng mến điều công nghĩa, xin đem Phi ấp nộp làm của công, rồi giúp vua để trừ kẻ cường bạo, khiến cho nước Lỗ lại theo được cái nghiệp cũ của Chu công thuở xưa. Nếu ngài cho tôi là phải thì xin mời ngài quá bộ sang Phi ấp, ta sẽ bàn việc. Gọi là có chút lễ vật kính dâng, xin ngài nhận cho".
Khổng Tử nói với Lỗ Định công rằng:
- Nếu Công Sơn Bất Nhữu làm phản thì ta lại phải khó nhọc về việc dùng quân. Xin chúa công cho tôi sang Phi ấp để bảo hắn nghĩ lại mà đổi lỗi đi, phỏng có nên chăng?
Lỗ Định công nói:
- Công việc nước nhà, ta trông cậy vào nhà ngươi cả, nhà ngươi chớ nên lúc nào rời bên cạnh ta.
Khổng Tử trả lời lại bức thư và lễ vật của Công Sơn Bất Nhữu. Công Sơn Bất Nhữu thấy Khổng Tử không nhận lời, liền sai người nói với quan tể ấp Thành là Công Liễm Dương và quan tể ấp Cấu là Công Nhược Điểu để cùng nổi loạn. Công Liễm Dương và Công Nhược Điểu đều không theo. Viên mã chính ở Cấu âp tên gọi là Hầu Phạm là người có sức khỏe lại giỏi bắn, người Cấu ấp ai cũng sợ. Hầu Phạm vẫn có ý muốn làm lọan, mới sai ngừơi giết Công Nhược Điểu, rồi tự xưng làm quan tể ấp Cấu, đem quân Cấu chống cự với ba nhà. Thúc Tôn Châu Cừu nghe tin Hầu Phạm làm phản, đến bảo Mạnh Tôn Vô Kỵ. Mạnh Tôn Vô Kỵ nói:
- Tôi xin giúp ngài một tay để cùng trừ đứa phản nô ấy.
Bấy giờ họ Mạnh cố sức chống giữ. Mạnh Tôn Vô Kỵ không thể đánh nổi, bảo Thúc Tôn Châu Cừu sang cầu viện nước Tề. Có kẻ gia thần họ Thúc tên gọi Tử Xích ở trong ấp Cấu, giả cách theo Hầu Phạm. Hầu Phạm tin dùng lắm. Tử Xích bảo Hầu Phạm rằng:
- Họ Thúc sai sứ sang mượn quân nước Tề, hai nước hợp quân đánh ta, ta địch thế nào nổi? chi bằng ta đem ấp Cấu sang hàng nước Tề. nước Tề mặt ngoài dẫu thân với Lỗ, nhưng trong thực ghét Lỗ. Nếu Tề được ấp Cấu thì có thể hiếp Lỗ được. Tất Tề mừng lắm, phải đem chỗ đất to hơn ở nơi khác đền lại cho ngài. Đàng nào ngài cũng có đất ở, mà lại bỏ được chỗ nguy đến chỗ yên, còn gì lợi bằng!
Hầu Phạm khen phải, sai người sang xin hàng với nước Tề và nộp ấp Cấu. Tề Cảnh công hỏi Án Anh rằng:
- Họ Thúc mượn quân ta để đánh ấp Cấu, nay Hầu Phạm lại nộp ấp Cấu mà xin hàng, ta biết xử thế nào?
Án Anh nói:
- Ta đang cùng với Lỗ hoà hiếu, sao lại nhận cho kẻ phản thần nước Lỗ sang đầu hàng. Ta nên giúp họ Thúc là phải.
Tề Cảnh công cười mà nói rằng:
- Cấu ấp là ấp riêng của họ Thúc, có dự gì đến vua Lỗ, huống chi Hầu Phạm đang xâu xé với họ Thúc, đó là một việc không may cho Lỗ mà rất may cho Tề. Ta đã có kế, cứ nhận lời cả hai bên để làm cho họ hỏng việc.
Tề Cảnh công bèn sai quan tư mã là Điền Nhương Thư đóng quân ở giáp giới nước Lỗ để đợi khi có biến: nếu Hầu Phạm đánh được họ Thúc thì chia quân giữ lấy ấp Cấu, rồi đón Hầu Phạm về nước Tề; nếu họ Thúc đánh được Hầu Phạm thì giả cách nói là đem quân sang giúp họ Thúc mà đánh ấp Cấu. Tùy cơ ứng biến, ấy là cái kế gian hùng của Tề Cảnh công đó. Tử Xích thấy Hầu Phạm đã sai sứ sang Tề rồi, lại bảo Hầu Phạm rằng:
- Nước Tề vừa mới giao hiếu với Lõ, chưa chắc đã chịu giúp ta, ta nen sắp sẵn binh giáp để ở cửa dinh, vạn nhất có sự nguy biến gì dùng đến cho tiện.
Hầu Phạm vốn kẻ vũ phu không biết suy xét, tin là phải, mới truyền sắp sẵn binh giáp để ở cửa dinh. Tử Xích viết một bức thư, bắn ra ngoài thành cho quân Lỗ. Quân Lỗ nhặt được thư, đưa cho Thúc Tôn Châu Cừu. Thúc Tôn Châu Cừu mở thư ra xem. Thư rằng:
"Tôi là Tử Xích đã lập sẵn mưu kế đánh Hầu Phạm, chẳng bao lâu nữa trong thành tất có nội biến, xin chúa công đừng lo ngại ".
Thúc Tôn Châu Cừu mừng lắm, báo tin cho Mạnh Tôn Vô Kỵ biết rồi sắp quân để đợi. Mấy hôm sau sứ giả ở nước Tề về, báo với Hầu Phạm, nói vua Tề đã bằng lòng nhận Cấu và định đổi cho một cái ấp khác. Tử Xích nghe tin, vào mừng Hầu Phạm, khi trở ra, sai người bá cáo cho nhân dân biết rằng: họ Hầu sai sứ giả xin đem Cấu âp phụ thuộc với Tề, sứ giả về nói quân Tề sắp kéo sang.
Nhân dân nghe nói náo động cả lên, có nhiều người đến hỏi Tử Xích. Tử Xích nói:
- Ta cũng nghe nói như vậy, nhưng Tề đang giao hiếu với Lỗ, không muốn chiếm đất, định thiên dân sang ở đất Liêu Nhiếp nước Tề. Xưa nay người ta vẫn có câu "ở đâu sâu đấy" nay nghe nói sắp sửa phải bỏ xứ mình mà đi, ai là người không sợ hãi.
Mọi người nghe nói, huyên truyền nhau, ai cũng oán giận. Một đêm Hầu Phạm đang uống rượu say. Tử Xích biết vậy, liền sai mấy chục người tâm phúc đi quanh thành mà kêu ầm lên rằng:
- Quân Tề đã đến ngoài thành rồi! chúng ta nên mau mau sắp đồ hành lý, chỉ trong ba ngày nữa đã phải bồng bế nhau đi!
Nói xong lại khóc. Dân ấp Cấu náo động, đến họp cả ở cửa Hầu Phạm. Những người già yếu tiếng khóc như ri; còn những kẻ cường tráng; đều nghiến răng nghiến lợi, oán giận Hầu Phạm. Bỗng trông thấy cửa dinh có đồ binh giáp, chúng liền cướp lấy, mặc áo giáp vào mình, tay cầm đồ binh, cùng nhau reo ầm lên mà vây chung quanh nhà Hầu Phạm. Quân sĩ giữ thành bấy giờ cũng theo chúng mà phản Hầu Phạm. Tử Xích vội vàng bảo Hầu Phạm rằng:
- Dân ấp Cấu không chịu phụ thuộc nước Tề, đều bảo nhau làm phản. Ngài có còn binh giáp để cho tôi ra đánh không?
Hầu Phạm nói:
- Binh giáp của ta đều bị chúng cướp mất cả rồi! bây giờ chỉ nên nghĩ cách nào tránh tai vạ là hơn.
Tử Xích nói;
- Tôi xin cố sức đưa ngài đi trốn.
Nói xong lại ra bảo với mọi người rằng:
- Các người nên nhường một lối để cho họ Hầu đi trốn.Họ Hầu trốn thì quân Tề cũng không đến nữa.
Mọi người theo lờ, nhường một lối cho đi. Tử Xích đi trước, Hầu Phạm đi sau, gia thuộc còn hơn một trăm người và hơn mười cỗ xe. Tử Xích đưa ra khỏi cửa đông, rồi đem quân Lỗ vào thành mà phủ dụ nhân dân.
Mạnh Tôn Vô Kỵ toan đuổi theo Hầu Phạm. Tử Xích can rằng:
- Tôi đã nhận lời cho hắn được trốn thóat rồi!
Mạnh Tôn Vô Kỵ nghe lời không đuổi nữa, liền phá bớt thành Cấu đi ba thước, rồi dùng Tử Xích làm quan tể ở đấy. Hầu Phạm chạy sang với quân Tề. Tướng nước Tề là Điền Nhương Thư biết là quân Lỗ đã phá vỡ ấp Cấu, liền rút quân về. Thúc Tôn Châu Cừu và Mạnh Tôn Vô Kỵ cũng trở về nước Lỗ. Lúc trước Công Sơn Bất Hữu nghe nói Hầu Phạm chiếm đánh, thì mừng mà nói rằng:
- Bây gi67&chuongid=6')">Hồi 5
  • Hồi 6
  • Hồi 7
  • Hồi 8
  • Hồi 9
  • Hồi 10
  • hồi 11
  • hồi 12
  • hồi 13
  • hồi 14
  • hồi 15
  • hồi 16
  • hồi 17
  • hồi 18
  • hồi 19
  • hồi 20
  • Hồi 21
  • hồi 22
  • hồi 23
  • hồi 24
  • Hồi 25
  • Hồi 26
  • -bar-a" onClick="noidung1('noidung.aspx?tid=2qtqv3m3237nnn3nqn31n343tq83a3q3m3237n4n0n')" onMouseOut="#">Hồi 79

    Khi Tề Cảnh công hội ở Giáp Cốc về, Án Anh ốm chết. Tề Cảnh công thương khóc mấy ngày, đang lo trong triều không có người hiền tài, lại nghe tin nước Lỗ dùng Khổng Tử mà được cừơng thịnh, mới lo sợ mà nói rằng:
    - Nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu tất nên nghiệp bá, mà nên nghiệp bá thì tất phải tranh đất. Nước ta tiếp giáp với Lỗ thì cái họa ấy tất đến nước ta trước, biết làm thế nào?
    Quan đại phu là Lê Di tâu rằng:
    - Chúa công lo nước Lỗ biết dùng Khổng Khâu, sao không tìm cách ngăn đi?
    Tề Cảnh công nói:
    - Nước Lỗ đang giao quyền chính cho Khổng Khâu, ta dùng cách gì mà ngăn trở được?
    Lê Di nói:
    - Tính con người ta, hễ được cường thịnh, thì tất sinh lòng kiêu giật, xin chúa công lập một bộ nữ nhạc đem cho vua Lỗ. Vua Lỗ đã nhận nữ nhạc thì tất sinh lười biếng mà chán Khổng Khâu. Bấy giờ Khổng Khâu tất phải bỏ Lỗ mà đi, chúa công mới có thể ngồi yên được.
    Tề Cảnh công bằng lòng, sai Lê Di xem trong đám nữ lư, chọn những đứa xinh đẹp, độ trong 20 tuổi, cả thảy 80 người, chia làm 10 đội, đều cho ăn mặc gấm vóc và dạy hát múa. Khúc hát ấy gọi là "Khang lạc" thah âm và điệu bộ đều mới lạ, đủ mọi chiều phong vận, ở đời chưa có bao giờ! khi luyện tập đã thành rồi, lại dùng cỗ ngựa, cương vàng, yên nạm, mỗi con một sắc, trông đẹp như gấm, sai sứ đem dâng Lỗ Định công. Sứ giả làm hai rạp bằng gấm ở ngoài cửa Cao Môn nước Lỗ, rạp phía đông bày đàn ngựa, rạp phía tây bày nữ nhạc, rồi đệ quốc thư vào tâu Lỗ Định công rằng:
    "Tôi là Chử Cữu, cúi đầu dâng Lỗ quân hầu mấy lời. Khi trước hội ở Giáp Cốc, tôi có thất lễ với quân hầu, trong lòng vẫn lấy làm hổ thẹn, may mà quân hầu có lòng dung thứ, cho tôi được giao hiếu như xưa. Từ ngày ấy đến giờ, trong nước nhiều việc không sang sính vấn được, nay có mấy đội ca vũ, để khuây lòng điện hạ, bảy cỗ ngựa hay,, để êm xe điện hạ, xin đem dâng quân hầu, gọi là chút lòng kính mến, xin quân hầu nhận cho".
    Qúi Tôn Tư thấy nước Lỗ được thái bình, cũng đã sinh lòng kiêu căng trễ nãi. Bỗng nghe nói nữ nhạc nước Tề mỹ miều thánh thót, trong lòng vui vẻ, liền đổi y phục, cùng với mấy người tâm phúc, đi xe lẻn ra Cao Môn để xem. Bấy giờ người nhạc trưởng đang diễn tập, tiếng hát lanh lảnh lên đến mây xanh, điệu múa nhẹ nhàng nhấp phới như làn gió dịu, khi tiến khi thoái, vẻ sáng làm quáng cả mắt người xem. Qúi Tôn Tư đứng xem một lúc lâu, trông thấy nhan sắc và phục sức, lòng như ngây dại. Lỗ Định công một ngay ba lần cho triệu, mà Qúi Tôn Tư chỉ vì ham mê nữ nhạc mà không vào triều. Đến ngày hôm sau, Qúi Tôn Tư mới vào yết kiến. Lỗ Định công đưa quốc thư của nước Tề cho xem. Qúi Tôn Tư tâu rằng:
    - Đó là nhã ý của vua Tề, ta không nên từ chối.
    Lỗ Định công cũng có lòng tưởng mộ liền hỏi:
    - Nữ nhạc để ở đâu, ta thử đi xem thế nào.
    Qúi Tôn Tư nói:
    - Hiện ở ngoài Cao Môn. Chúa công ra xem, tôi xin đi theo. Nhưng sợ náo động trăm họ, chi bằng ta đổi y phục là hơn.
    Bấy giờ vua tôi cũng bỏ phẩm phục, lên một cái xe nhỏ, đi ra Cao Môn. Có kẻ báo tin cho người nhạc trưởng, người nhạc trưởng truyền cho bọn nữ nhạc phải ra sức hát múa. Bấy giờ véo von đủ giọng, uốn éo trăm chiều, mười đội vũ nữ, dập dìu thay đổi, thật là đầy tai mệt mắt, nghe nhìn không kịp, làm cho hai vua tôi nước Lỗ bất giác cũng tay múa chân nhảy.
    Thị vệ lại khoe với Lỗ Định công rằng:
    - Ở về phía đông, có nhiều ngựa đẹp.
    Lỗ Định công nói:
    - Xem một chỗ này cũng tuyệt rồi, bất tất phải hỏi đến ngựa nữa!
    Đêm hôm ấy, Lỗ Định công về cung, suốt đêm không ngủ. Bên tai vẫn văng vẳng nghe tiếng âm nhạc, phảng phất như mỹ nhân nằm ở cạnh mình. Ngày hôm sau, sợ hỏi triều thần thì lại mỗi người nói một cách, Lỗ Định công cho triệu một mình Qúi Tôn Tư vào cung, để viết thư đáp lại Tề Cảnh công. Trong thư giải lòng cảm kích, ở đây không nói xiết được! lại lấy trăm nén vàng để tặng sứ giả nước Tề, rồi đem nữ nhạc vào cung, chia cho Qúi Tôn Tư ba mươi người. Còn ngựa thì giao cho ngữ nhân chăn nuôi. Lỗ Định công và Qúi Tôn Tư mới được nữ nhạc, chỉ lo hưởng dụng cho thoả, ngày thì hát múa, đêm thì chiếu chăn, suốt trong ba hôm, chẳng nghĩ gì đến chính sự trong nước. Khổng Tử nghe biết việc ấy, chán mà thở dài. Học trò Khổng Tử là Trọng Do đứng hầu bên cạnh nói rằng:
    - Chúa công lười biếng, chẳng nghĩ gì đến chính sự. Thầy nên đi nước khác.
    Khổng Tử nói:
    - Nay mai sắp tế giao, nếu nhà vua còn giữ được đại lễ thì cũng chưa đến nỗi nào!
    Đến lúc tế giao, Lỗ Định công vừa làm lễ xong, tức khắc về cung, chẳng ra coi triều, cũng chẳng nghĩ gì đến phần tế. Người coi việc chia phần tế đến hỏi thì Lỗ Định công phó thác cho Qúi Tôn Tư, Qúi Tô Tư lại phó thác cho kẻ gia thần. Khổng Tử đi tế về mãi đến chiều tối, cũng chẳng thấy thịt phần đưa đến, mới bảo Trọng Do rằng:
    - Nếu vậy thì cũng là tại lòng trời!
    Khổng Tử lại ngồi gẩy một khúc đàn cầm. Gẩy xong khúc đàn, liền sắp sửa hành trang để rời nước Lỗ. Trọng Do và Nhiễm Cầu cũng bỏ quan đi theo Khổng Tử. Khổng Tử bỏ nước Lỗ sang nước Vệ. Vệ Linh công mừng rỡ đón vào. Khi Khổng Tử vào, Vệ Linh công hỏi việc chiến trận. Khổng Tử nói:
    - Chiến trận thì tôi chưa học đến.
    Ngày hôm sau, thì đi ngay. Lúc đi qua ấp Khuông, về địa giới nước Tống, người ấp Khuông vốn ghét Dương Hổ, thấy Khổng Tử giống mặt Dương Hổ, ngỡ là Dương Hổ lại đến, mới họp nhau để vây. Trọng Do nói với Khổng Tử xin đánh. Khổng Tử can rằng:
    - Ta không có thù hằn gì với người ấp Khuông cả. Việc này tất có duyên cớ làm sao đây. Ta cứ yên rồi đám kia tự khắc tan.
    Khổng Tử lại ngồi gảy đàn cầm. Vừa lúc ấy thì Vệ Linh công sai người đến mời Khổng Tử trở lại. Người ấp Khuông mới biết là lầm, đến xin lỗi, rồi kéo nhau đi, Khổng Tử lại trở về nước Vệ, vào trọ ở nhà quan đại phu là Cừ Viên.
    Lại nói chuyện Vệ Linh công phu nhân là nàng Nam Tử, con gái nước Tống, có nhan sắc và tính tình dâm đãng. Khi còn ở Tống, Nam Tử đã tư thông với công tử Triều, cũng là một người đẹp trai. Hai bên cùng đẹp cả nên yêu nhau hơn vợ chồng. Đến lúc về với Vệ Linh công, sinh được người con tên là Khóai Qúi. Khoái Qúi đã lớn, được lập làm thế tử rồi mà nàng Nam Tử vẫn chưa bỏ được tính xưa. Bấy giờ nước Vệ lại có một chàng đẹp trai tên gọi Di Tử Hà, vốn được Vệ Linh công yêu dùng. Có khi Di Tử Hà ăn quả đào đã hết một nửa, còn thừa đem đút vào miệng Vệ Linh công. Thế mà Vệ Linh công cũng bằng lòng ăn, lại khoe với người khác rằng:
    - Di Tử Hà yêu ta đến thế là cùng! một miếng đào ngon, cũng không nỡ ăn cả, lại đem chia cho ta.
    Triều thần, ai cũng cười vụng. Di Tử Hà cậy thế chuyên quyền, làm nhiều điều bậy bạ. Vệ Linh công ngoài thì yêu Di Tử Hà, trong thì sợ nàng Nam Tử, muốn tìm cách làm sao cho nàng được bằng lòng nen thỉnh thoảng lại gọi công tử Triều ở Tống sang chơi với Nam Tử. Tiếng xấu đồn lan mà Vệ Linh công không lấy làm thẹn. Khóai Qúi nghĩ giận lắm, bèn sai kẻ gia thần là Hí Dương Tốc, định khi vào triều kíến thì đâm chết nàng Nam Tử để rửa sự xấu ấy đi. Nam Tử biết chuyện, mách với Vệ Linh công. Vệ Linh công đuổi Khoái Quí. Khoái Qúi chạy sang nước Tống, rồi lại sang nước Tần. Vệ Linh công lập con Khoái Qúi là công tử Triếp làm thế tử. Khi Khổng Tử trở lại nước Vệ, nàng Nam Tử biết Khổng Tử là bậc thánh nhân, rất có lòng kính trọng, mới xin tiếp kiến.
    Một hôm, Vệ Linh công ngồi cùng xe với nàng Nam Tử, để Khổng Tử đi xe sau. Khổng Tử thở dài mà than rằng:
    - Vua Vệ yêu đức không bằng yêu sắc!
    Khổng Tử liền bỏ Vệ sang Tống, cùng với học trò giảng lễ ở dưới gốc một cây lớn. Quan tư mã nước Tống là Hoàn Khôi cũng vì đẹp trai mà được Tống Cảnh công yêu, bấy giờ đang có quyền thế, có ý ghét Khổng tử, mới sai ngươi chặt cây đi, rồi tìm cách giết Khổng Tử. Khổng Tử phải cải trang, bỏ trốn sang Trịnh, lại sắp sang Tấn. Nghe nói Triệu Uởng nước Tấn giết kẻ hiền thần, mới phàn nàn rằng:
    - Giống điểu thú còn không nỡ hại lẫn nhau, huống chi là người!
    Khổng Tử lại trở về nước Vệ. Chưa được bao lâu thì Linh công mất. Người nước Vệ lập công tử Triếp, con Khoái Qúi lên làm vua, tức là Vệ Xuất công. Khóai Qúi cũng nhờ có Tấn giúp, cùng với Dương Hổ chiếm cứ ấp Thích. Bấy giờ Khoái Qúi và công tử Triếp hai cha con tranh nhau, Tấn giúp cho Khoái Qúi, Tề giúp cho công tử Triếp. Khổng Tử thấy vậy, ghét là trái lễ, bỏ Vệ sang Trần, lại sắp sang Sái. Sở Chiêu vương nghe tin Khổng Tử ở khoảng nước Trần và Sái thi sai người đi đón. Các quan đại phu nước Trần và nước Sái sợ nước Sở dùng Khổng Tử thì nguy cho nước mình, bèn sai người đem quân vây Khổng Tử. Khổng Tử bị tuyệt lương trong ba ngày, mà vẫn gảy đàn đọc sách. Bỗng thấy có một người dị nhân cao hơn chín thước, mũ cao áo dài, tay cầm ngọn giáo, trỏ vào mặt Khổng Tử mà quát lên, nghe tiếng thật to. Trọng Do thấy vậy chạy đến lôi ra, cùng đánh nhau ở sân. Người ấy rấ khỏe, Trọng Do không đánh nổi. Khổng Tử đứng bên, nhìn xem hồi lâu, rồi bảo Trọng Do rằng:
    - Sao không nắm vào cạnh sườn!
    Trọng Do liền nắm vào cạnh sườn thì người kỳ dị ấy hết sức, hai tay cứng đờ ra mà ngã xuống đất, hóa thành một con cá chiên lớn. Học trò đều lấy làm quái lạ. Khổng Tử nói
    - Phàm vật gì già mà suy thì các tinh phụ vào. Ta giết đi thì thôi, chớ có chi là lạ!
    Khổng Tử sai học trò đem mổ để nấu ăn cho đỡ đói. Học trò đều mừng mà nói rằng:
    - Thật là của trời cho!
    Sứ nước Sở đem quân đến đón Khổng Tử. Khổng Tử đến nước Sở. Sở Chiêu vương mừng lắm, toan đem đất Lý Xa phong cho Khổng Tử. Quan lệnh doãn là công tử Thân can rằng:
    - Ngày xưa Văn vương ở Phong, Vũ vương ở Kiểu, chỉ độ một trăm dặm đất mà biết tu thân tích đức, thành ra thay quyền nhà Ân mà lên làm vua. Nay đức tính của Khổng Tử chẳng kém gì Văn vương và Vũ vương mà học trò lại đều là bậc đại hiền, nếu phong đất cho thì sau này tất là thay quyền nước Sở ta mất.
    Sở Chiêu vương lại thôi. Khổng Tử biết là nước Sở không thể dùng mình được, lại trở về nước Vệ. Vệ Xuất công muốn giao quyền chính, nhưng Khổng Tử không chịu theo. Quan tướng quốc nước Lỗ là Qúi Tôn Phí cũng đến triệu h.c trò Khổng Tử là Nhiễm Cầu. Khổng Tử nhân thế, lại trở về nước Lỗ. Nước Lỗ trọng đãi Khổng Tử, coi như bậc quan đại phu về cáo lão. Sau đó trong bọn học trò Khổng Tử, thì có Trọng Do và Cao Sai làm quan nước Vệ; Đoan Mộc Tứ, Nhiễm Cầu, Hữu Nhược và Ninh Bất Tề làm quan nước Lỗ.
    Lại nói chuyện vua Ngô là Hạp Lư khi đánh được nước Sở, uy danh lừng lẫy, sinh ra chơi bời, sửa sang cung thất; lập cung Trường Lạc ở giữa kinh thành, lại đắp Cao đài ở trên núi Cô Tô (núi ấy ở phía tây nam thành nước Ngô, cũng là núi Cố Tư), mở một con đường chín khúc đi vòng quanh núi. Mùa xuân và mùa hạ thì Hạp Lư ở ngoài thành, mùa thu và mùa đôg thì vào ở trong thành. Một hôm, Hạp Lư nghĩ đến cái thù người Việt đánh Ngô khi trước, định sang báo lại. Lại nghe tin Tề và Sở sai sứ giao hiếu với nhau, nên giận mà nói rằng:
    - Tề và Sở giao hiếu với nhau là một sự lo cho ta ở phía bắc. Ta muốn đánh Tề trước, rồi sau sẽ đánh Việt.
    Tướng quốc là Ngũ Viên can rằng:
    - Lân quốc sai sứ đi lại giao hiếu, đó là lẽ thường, vị tất đã phải là Tề định giúp Sở mà hại ta, ta chớ nên cất quân sang đánh vội. Nay vợ cả thế tử Ba đã mất, chưa có kế thất, sao đại vương không sai sứ sang Tề cầu hôn, nếu Tề không cho, bấy giờ sẽ đánh, cũng không muộn.
    Hạp Lư theo lời, sai quan đại phu là Vương Tôn Lạc sang nước Tề, để cầu hôn cho thế tử Ba. Bấy giờ Tề Cảnh công tuổi đã già cả, chí khí suy kém, không được hăng hái như xưa. Trong cung chỉ còn có một người con gái đang nhỏ chưa gả chồng, không nỡ đem bỏ đất Ngô. Ngặt vì trong triều không có người tài, ngoài biên không có tướng giỏi, nếu trái ý nước Ngô thì e rằng Ngô lại đem quân sang đánh, chịu lầm than khốn khổ, như nước Sở, bấy giờ hối sao kịp! quan đại phu là Lê Di cũng khuyên Tề Cảnh công nên kết hôn với Ngô, chớ nên làm cho Ngô tức giận, Tề Cảnh công bất đắc dĩ phải gả con gái là nàng Thiếu Khương cho Ngô. Vương tôn Lạc về nói với Hạp Lư. Hạp Lư về sai Vương Tôn Lạc đem sính lễ sang nước Tề, để cưới nàng Thiếu Khương về cho thế tử Ba.
    Tề Cảnh công phần thương con gái, phần sợ nước Ngô, đem lòng căm tức, bỗng hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng, thở dài mà nói rằng:
    - Nếu Án Anh và Điền Nhương Thư còn thì nào ta đến nỗi phải sợ người nước Ngô như thế này!
    Tề Cảnh công lại bảo quan đại phu là Bão Mục rằng:
    - Ta nhờ nhà ngươi đưa con gái ta sang Ngô. Đây là con gái yêu của ta, nhà ngươi tâu với vua Ngô săn sóc cho nó.
    Tề Cảnh công thân hành ra đỡ nàng Thiếu Khương lên xe rồi tiễn đến cửa nam mới trở lại. Bão Mục đưa nàng Thiếu Khương sang Ngô, và đem lời nói của Tề Cảnh công tâu với Hạp Lư. Bão Mục mến tiếng Ngũ Viên là người giỏi, bèn cùng với Ngũ Viên kết giao. Nàng Thiếu Khương hãy còn nhỏ tuổi, dẫu cùng thế tử Ba kết hôn, nhưng chưa biết cái vui vợ chồng, chỉ một lòng tưởng nhớ cha mẹ, ngày đêm kêu khóc. Thế tử Ba thường khuyên dỗ, nhưng nàng Thiếu Khương vẫn sầu thảm không vui, dần dần uất kết thành bệnh. Hạp Lư thương lắm, mới truyền lập một cái lầu ở phía bắc Môn rất là hoa mỹ, đặt tên là Vọng Tề Môn, để cho nàng Thiếu Khương hàng ngày lên chơi đấy. Nàng Thiếu Khương trèo lên Vọng Tề lầu, trông về phía bắc, chẳng thấy nước Tề đâu cả, lại còn thương xót, nên bệnh mỗi ngày một nặng.
    Khi nàng Thiếu Khương gần chết, dặn thế tử Ba rằng:
    - Thiếp nghe nói đứng đỉnh núi Ngư Sơn, có thể trông về Đông Hải được. Xin thế tử chôn thiếp ở chỗ ấy, may ra hồn thiếp có khôn thiêng còn được trông về nước Tề.
    Thế tử Ba tâu lại với Hạp Lư, rồi sai an táng nàng Thiếu Khương ở trên đỉnh núi Ngư Sơn. Hạp Lư muốn chọn trong các công tử để lập một người làm thế tử, nhưng chưa biết lập ai, vẫn định bàn với Ngũ Viên. Vợ cả thế tử Ba sinh được một người con, tên là Phù Sai, năm ấy đã hai mươi sáu tuổi. Phù Sai vốn người ngang tàng anh vĩ, thật là một bậc tài nhân. Nghe nói ông là Hạp Lư muốn chọn lập thế tử, liền vào yết kiến Ngũ Viên mà nói rằng:
    - Ta đây là cháu đích tôn, nếu lập thế tử mà bỏ ta thì định lập ai? việc này chỉ xin nhờ một câu nói của quan tướng.
    Ngũ Viên nhận lời. Được một lúc, Hạp Lư sai người triệu Ngũ Viên đến để bàn việc lập thế tử. Ngũ Viên nói:
    - Muốn cho về sau khỏi sinh biến loạn thì phải lập đích tử, nay thế tử dẫu tạ thế, nhưng đã có đích tôn là Phù Sai đó.
    Hạp Lư nói:
    - Ta xem Phù Sai là người ngu mà bất nhân, sợ không giữ được cơ nghiệp.
    Ngũ Viên nói:
    - Phù Sai là người tín nghĩa; vả lại cha chết thì con thay đó la hợp lẽ phải, còn nghi ngờ nỗi gì!
    Hạp Lư nói:
    - Ta nghe nhà ngươi, nhà ngươi cố mà giúp thế tử!
    Hạp Lư nói xong, liền lập Phù Sai làm thế tôn. Phù Sai đến nhà Ngũ Viên tạ ơn. Năm thứ 24 đời Chu Kính vương, Hạp Lư tuổi già, tính khí càng thêm nóng nảy, nghe nói là vua nước Việt là Doãn Thường mất, con là Câu Tiễn mới lập, bèn định nhân khi nước Việt có tang, đem quân sang đánh. Ngũ Viên can rằng:
    - Nước Việt dẫu có tội đánh lén nước Ngô khi trước, nhưng nay đang có tang, ta chớ nên đánh vội.
    Hạp Lư không nghe, giao quốc chính cho Ngũ Viên và Phù Sai, rồi cùng bọn Bá Hi, Vương Tôn Lạc và Chuyên Nghị, đem ba vạn tinh binh tiến sang nước Việt. Vua Việt là Câu Tiễn thân hành ra đốc quân, Chư Kế Dĩnh làm đại tướng, Linh Cô Phù làm tiên phong, Trù Vô Dư và Tư Hãn làm tả hữu doãn, gặp quân Ngô ở đất Huề Lý, hai bên đóng dinh, cách nhau mười dặm, cùng nhau giao chiến, chưa phân được thua. Hạp Lư giận lắm, mới đem hết quân lên bày trận ở Ngũ Đài Sơn, nghiêm cấm trong quân không được khinh động, chờ khi quân Việt trễ nãi sẽ đánh. Câu Tiễn trông thấy quân Ngô nghiêm chỉnh, bèn bảo Chư Kế Dĩnh rằng:
    - Khí thế quân Ngô đang hăng hái như thế kia, ta chớ nên khinh thương, phải dùng kế để làm cho họ rối loạn.
    Câu Tiễn sai quan đại phu là Trù Vô Dư và Tư Hãn đốc quân sĩ ở hai bên tả hữu xông vào đánh dinh quân Ngô. Quân Ngô cứ giữ vững thế trận, rồi dùng cung nỏ mà bắn lại. Quân Việt không phá nổi, lại phảu rút về. Câu Tiễn không biết làm thế nào. Chư Kế Dĩnh mật tâu rằng:
    - Ta nên dùng lũ tội nhân..
    Câu Tiễn hiểu ngay. Ngay hôm sau, mật truyền quân lệnh: bắt lũ tội nhân vẫn đem theo trong quân, cả thảy ba trăm người, chia làm ba toán, đều để trần vai áo, lấy kiếm trỏ vào cổ, tiến sang quân Ngô. Người đi đầu nói với quân Ngô rằng:
    - Chúa công tôi không biết tự lượng sức mình, để đắc tội với qúy quốc, nay qúy quốc đã đem quân đến đánh, chúng tôi không dám tham sống, xin tình nguyện chết thay chúa công tôi.
    Người đi đầu nói xong thì cả bọn cứ thứ tự đâm cổ mà chết.
    Quân Ngô xưa nay chưa trông thấy bao giờ, đều lấy làm quái lạ, ngây mặt ra mà nhìn; rồi lao nhao hỏi lẫn nhau, không biết là cớ làm sao. Bỗng thấy quân Việt nổi hiệu trống, Trù Vô Dư và Tư Hãn đem hai toán quân, cầm dao cắp mộc, xông đến tận nơi mà đánh. Quân Ngô hoảng hốt, thành rối loạn. Câu Tiễn lại đem đại binh kéo đến, phía hữu có Chư Kế Dĩnh, phía tả có Linh Cô Phù, xông vào trong trận quân Ngô. Tướng Ngô là Vương Tôn Lạc cố sức cùng với Chư Kế Dĩnh giao chiến. Linh Cô Phù trông thấy vua Ngô là Hạp Lư, liền cầm dao xông vào để chém. Hạp Lư vội vàng bỏ chạy, Linh Cô Phù đuổi theo, chém vào chân phải Hạp Lư rơi giầy, ngã lăn xuống đất, may có tướng quân của Chương Nghị đến, mới cứu thoát được. Chương Nghị bị nhiều viết thương nặng. Vương Tôn Lạc biết là Hạp Lư bị thương, không dám ham đánh, vội vàng rút quân, bị quân Việ đuổi theo giết chết quá nửa. Hạp Lư bị thương nặng, tức khắc rút quân. Linh Cô Phù bắt được chiếc giầy của Hạp Lư, đem về nộp Câu Tiễn. Câu Tiễn mừng lắm.
    Bấy giờ Hạp Lư tuổi đã già, không chịu đau được, đi được bảy dặm đường thì kêu to lên một tiếng mà chết. Bá Hi hộ tang đi trước, Vương Tôn Lạc đem quân đi sau, dần dần về đến nước Ngô. Quân Việt cũng không đuổi theo nữa. Phù Sai nối ngôi làm vua nước Ngô; đưa linh cữu Hạp Lư ra an táng ở Hải Dũng Sơn; sai thợ đào núi làm huyệt, rồi đem lưỡi "Ngư trường" của Chuyên Chư dùng khi trước để chôn theo, cùng rất nhiều vàng ngọc. Khi an táng rồi, lại giết hết cả bọn thợ để chôn theo nữa. Ba hôm sau, có người trông thấy ở trên núi ấy có con bạch hổ nằm phục, mới gọi tên ấy là Hổ Khâu Sơn. Kẻ thức giả cho là tại chôn nhiều vàng, nên kim khí hiện ra như thế. Đến đời nhà Tần, Tần Thuỷ Hoàng sai người đào mộ Hạp Lư để tìm lưỡi Ngư trường, nhưng tìm không thấy, chỗ đào sau thành ngòi sâu, tức là Hổ Khâu kiếm trì. Chương Nghị bị thương nặng, cũng chết, phụ táng ở sau núi ấy, nay không biết mộ tại chỗ nào. Phù Sai đã an táng Hạp Lư rồi, lập con trưởng là Hữu làm thế tử, lại sai mười nội thị thay đổi nhau đứng ở giữa sân, mỗi khi mình đi ra đi vào thì mấy người ấy lại quát to lên, gọi tên mà bảo:
    - Phù Sai! mày quên cái thù vua Việt giết ông mày rồi sao?
    Phù Sai liền khóc mà đáp rằng:
    - Dạ! không bao giờ tôi dám quên!
    Phù Sai lại sai Ngũ Viên và Bá Hi luyện thủy quân ở Thái Hồ, lập trường bắn ở Linh Nham Sơn để tập bắn, đợi khi hết tang ba năm, sẽ sang đánh nước Việt để báo thù.
    Bấy giờ Tấn Khoảnh công nhu nhược, sáu quan khanh tranh quyền, chực giết hại lẫn nhau. Tuân Di (tức là Phạm thị) cùng Sĩ Cát Xạ (tức là trung hàng thị) thân nhau giao kết hôn nhân, bởi vậy Hàn Bất Tín và Ngụy Nam Đa đều có bụng ghét, Thâm Lịch (tức là Trí thị) có yêu một gia thần, tên gọi là Lương Anh Phủ, muốn cho làm quan khanh. Lương Anh Phủ cậy có Tuân Lịch yêu, lập kế đuổi Tuân Di để thay giữ quyền chức, bởi vậy Tuân Lịch cũng sinh thù ghét Phạm thị và Trung Hàng thị. Quan thượng khanh là Triệu Uởng có người cháu tên là Ngọ, được phong ở đất Hàm Đan, mẹ Ngọ là em gái Tuân Di, cho nên Tuân Di là cậu mà Ngọ là cháu.
    Năm trước, Vệ Linh công và Tề Cảnh công họp mưu phản Tấn, Triệu Uởng nước Tấn đem quân đánh Vệ. Nước Vệ sợ, xin nộp năm trăm nóc nhà để tạ tội. Triệu Uởng cho Ngọ ở lại đất Hàm Đan gọi là Vệ Cống. Chưa bao lâu, Triệu Uởng muốn thiên năm trăm nóc nhà ấy sang Tấn Dương. Ngọ sợ người nước Vệ không phục, chưa dám vâng lệnh ngay. Triệu Uởng cho là Ngọ chống cự với mình liền nổi giận, bắt về Tấn Dương mà giết đi. Tuân Di giận Triệu Uởng về việc giết cháu, mới bàn nhau với Sĩ Cát Xạ định cùng đánh Triệu Uởng để báo thù cho Ngọ. Triệu Ưởng có người mưu thần tên gọi Đổng An Vu, bấy giờ đang giữ thành Tấn Dương cho Triệu Uởng. Đổng An Vu nghe được mưu của Tuân Di và Sĩ Cát Xạ, tức khắc về Giáng Đô nói với Triệu Uởng rằng:
    - Phạm thị và Trung Hàng thị vẫn liên kết với nhau, nay nếu họ nổi loạn thì ta khó lòng trị được, ngài nên phòng bị trước.
    Triệu Uởng nói:
    - Nước Tấn ta vẫn có lệnh rằng kẻ nào làm loạn thì phải chịu tội chết. Ta cứ đợi hắn nổi lọan trước rồi sau sẽ hay.
    Đổng An Vu nói:
    - Để cho hắn nổi loạn thì hại trăm họ, chẳng thà một mình tôi chết thay. Nếu có việc gì tôi xin chịu tội.
    Triệu Uởng không nghe. Đổng An Vu cứ sửa soạn giáp binh để đợi khi có việc. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ tuyên bố với mọi người rằng:
    - Đổng An Vu sửa soạn giáp binh là có ý định hại ta.
    Nói xong, liền họp quân đến vây nhà Triệu Uởng. May mà Đổng An Vu đã phòng bị sẵn, mới đem quân cứu thóat được Triệu Ưởng chạy sang thành Tấn Dương. Triệu Uởng sợ hai nhà kia đem quân đến đánh, mới lập cách cố thủ. Tuân Lịch bảo Hàn Bất Tín và Ngụy Nam Đa rằng:
    - Triệu Uởng là đầu trong sáu quan khanh. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ không vâng mệnh vua mà dám đem quân đuổi đánh, thế thì quyền chính về tay hai nhà ấy cả.
    Hàn Bất Tín nói:
    - Chi bằng ta buộc hai nhà ấy vào tội thủ xướng mà đánh đuổi đi.
    Ba người cùng vào tâu với Tấn Định công, rồi phụng mệnh Tấn Định công đem quân đi đánh Tuân Di và Sĩ Cát Xạ, Tuân Di và Sĩ Cát Xạ cố sức chống lại, nhưng không thể địch nổi, mới bàn nhau và bắt hiếp Tấn Định công. Hàn Bất Tín sai người rao ở giữa chợ rằng:
    - Phạm thị và Trung Hàng thị mưu phản, nay định đem quân vào hiếp vua.
    Người trong nước tin lời ấy, đều cầm binh khí đến cứu Tấn Định công. Ba nhà nọ nhờ sức người trong nước, phá tan được quân Tuân Di và Sĩ Cát Xạ. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ chạy sang đất Triều Ca. Hàn Bất Tín nói với Tấn Định công rằng:
    - Phạm thị và Trung Hàng thị thật là kẻ khởi xướng việc loạn, nay đã bị đuổi rồi, còn họ Triệu mấy đời có công to với nước Tấn ta, nên cho được phục chức.
    Tấn Định công thuận cho, liền gọi Triệu Uởng ở Tấn Dương về cho được phục chức. Lương Anh Phủ (gia thần của Tuân Lịch) muốn thay Tuân Di làm quan khanh. Tuân Lịch vào nói với Triệu Uởng, Triệu Uởng hỏi Đổng An Vu. Đổng An Vu nói:
    - Nước Tấn ta chỉ vì có nhiều người cầm giữ quyền chính, nên mới thành ra nhiễu loạn, nếu lập Lương Anh Phủ thì khác nào lại thêm một Tuân Di.
    Triệu Uởng mới không cho Lương Anh Phủ làm quan khanh. Lương Anh Phủ giận lắm, biết là tại Đổng An Vu ngăn trở, mới bảo Tuân Lịch rằng:
    - Họ Hàn và họ Ngụy đều về phái họ Triệu thì ta cô thế mất! họ Triệu chỉ trông cậy vào mưu thần là Đổng An Vu, sao ta chẳng nghĩ cách trừ đi?
    Tuân Lịch hỏi:
    - Dùng kế gì mà trừ được?
    Lương Anh Phủ nói:
    - Đổng An Vu sửa soạn giáp binh để gây nên loạn. Phạm thị và Trung Hàng thị nếu bị kẻ thủ xướng thì nên bắt tội Đổng An Vu.
    Tuân Lịch bèn theo lời Lương Anh Phủ đến trách Triệu Uởng. Triệu Uởng sợ. Đổng An Vu nói với Triệu Uởng rằng:
    - Tôi định bụng liều chết đã lâu rồi! tôi chết mà yên được họ Triệu thì chết còn hơn sống!
    Đổng An Vu lui ra, thắt cổ chết. Triệu Uởng đem giăng xác Đổng An vu ra ngoài chợ, rồi sai người bảo với Tuân Lịch rằng:
    - Hiện đã trị tội Đổng An Vu rồi!
    Tuân Lịch cùng Triệu Uởng kết minh, hai bên cam kết không hại nhau. Triệu Uởng vẫn thờ riêng Đổng An Vu ở trong gia miếu để báo đền công trước. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ chiếm Triều Ca đã được lâu ngày. Những nước chư hầu phản Tấn đều muốn nhân dịp ấy làm hại nước Tấn. Triệu Uởng đã nhiều lần đem quân đến đánh, nhưng Tề, Lỗ, Trịnh, Vệ đều sai sứ giúp thóc và quân cho Tuân Di cùng Sĩ Cát Xạ, Triệu Uởng không thể đánh nổi, mãi đến năm thứ 30 đời Chu Kính vương, Triệu Uởng họp quân ba nhà: Hàn, Ngụy và Trí mới phá vỡ được Triều Ca. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ chạy sang đất Hàm Đan, sau lại chạy sang Bách Nhân. Chưa được bao lâu thành Bách Nhân cũng vỡ, bọn vây cánh của Tuân Di va Sĩ Cát Xạ là Phạm Cao Di, Trương Liễu Sóc đều bị chết trận, còn Dư Nhượng cũng bị con Tuân Lịch là Tuân Giáp bắt được. Con Tuân Giáp là Tuân Dao xin tha cho Dự Nhượng, từ bấy giờ Dự Nhượng về làm tôi Trí thị. Tuân Di và Sĩ Cát Xạ bỏ trốn sang nước Tề. Trong bọn sáu quan khanh nước Tấn, từ bấy giờ chỉ còn có bốn là Triệu, Ngụy, Hàn, Trí mà thôi.
    Mùa xuân tháng hai năm thư 26 đời Chu Kính vương, vua Ngô là Phù Sai đã hết tang ông, mới cáo nhà thái miếu, rồi sai Ngũ Viên làm đại tướng, Bá Hi làm phó tướng, cử đại binh theo đường thuỷ qua Thái Hồ sang đánh nước Việt. Vua Việt là Câu Tiễn họp triều thần lại để thương nghị. Quan đại phu là Phạm Lãi (tên tự là Thiếu Bá) tâu rằng:
    - Nước Ngô bị ta giết mất vua, lập chí báo thù đã ba năm nay rồi, khí lực đang hăng hái lắm, ta khó lòng mà địch nổi, nên phải nghĩ cách cố thủ mới được.
    Quan đại phu là Văn Chủng tâu rằng:
    - Cứ như tôi thiển nghĩ thì không gì bằng sai người xin lỗi để cầu hoà, để cho hắn rút quân về, rồi sau sẽ liệu.
    Câu Tiễn nói:
    - Hai người, một người nói thủ, một người nói hoà, đều không phải là thiện kế. Nước Ngô là thế thù của ta, nay đem quân sang đánh ta, nếu ta không đánh lại, thì chẳng cũng hèn lắm!
    Câu Tiễn liền đem ba vạn quân ra đón đánh ở dưới núi Tiêu Sơn. Lúc mới giao chiến, quân Ngô hơi lùi. Quân Việt giết được hơn trăm người. Câu Tiễn thừa thắng tiến vào, đi được mấy dặm thì gặp đại binh của Phù Sai. Hai bên bày trận giao chiến. Phù Sai đứng ở mũi thuyền, tay cầm dùi đánh trống để đốc suất tướng sĩ. Tướng sĩ đều hăng hái hơn trước. Gặp có gío bắc nổi lên, sóng nổi dữ dội, Ngũ Viên và Bá Hi mỗi người ngồi một chiếc thuyền lớn, giương buồm thuận gió mà tiến. Quân Ngô đem cung nỏ bắn ra như mưa. Quân Việt ngược gió, không thể đương nổi, thua to bỏ chạy. Quân Ngô chia ba đường đuổi theo. Tướng Việt là Linh Cô Phù đắm thuyền mà chết. Tư Hãn cũng bị tên mà chết. Vua Ngô thừa thắng đuổi theo, giết được quân Việt không biết bao nhiêu mà kể. Câu Tiễn chạy vào Cố Thành, quân Ngô vây kín mấy lần, khiến cho quân Việt không có đường lấy nước uống. Phù Sai mừng mà nói rằng:
    - Ta chắc rằng chỉ trong mười ngày thì quân Việt đều chết khát tất cả!
    Ngờ đâu ở trên đỉnh núi có một cái suối nước. Dưới suối có nhiều cá ngon. Câu Tiễn sai đem mấy trăm con cá sang biếu vua Ngô. Vua Ngô kinh sợ. Câu Tiễn để Phạm Lãi cố thủ ở đấy, rồi đem một toán tàn binh lẻn chạy về núi Cối Kê quân sĩ chỉ còn có hơn trăm nghìn người. Câu Tiễn thở dài mà nói rằng:
    - Từ đời tiên quân đến giờ, trong ba mươi năm, ta chưa hề thua trận nào như thế này! cũng bởi ta không nghe lời Phạm Lãi và Văn Chủng đó!
    Quân Ngô đánh Cố Thành gấp lắm. Ngũ Viên đóng dinh ở phía hữu. Bá Hi đóng dinh ở phía tả. Trong một ngà, Phạm Lãi ba lần sai người đến cáo cấp với vua Việt là Câu Tiễn. Câu Tiễn sợ lắm.
    Văn Chủng hiến kế rằng:
    - Nay việc đã nguy cấp lắm, nhưng cho người ra xin hoà, cũng còn có thể kịp được!
    Câu Tiễn nói:
    - Nước Ngô có quan thái tể là Bá hi, người ấy tham của mê sắc, lại có lòng ghen ghét những kẻ tài năng, cùng với Ngũ Viên đồng triều mà vẫn không hợp ý nhau. Vua Ngô sợ Ngũ Viên mà thân với Bá Hi lắm, ta nên sang dinh Bá Hi, khéo nói với hắn, để hắn chủ việc giảng hoà cho. Bá Hi nói với vua Ngô, điều gì cũng được, dẫu Ngũ Viên biết mà ngăn trở, cũng không thể kịp.
    Câu Tiễn nói:
    - Nhà ngươi sang yết kiến Bá Hi, nên dùng lễ vật gì?
    Văn Chủng nói:
    - Quân trung thì không gì hiếm bằng nữ sắc. Ta nên tìm mỹ nữ mà đem dâng. Nếu trời còn thương nước Việt ta thì Bá Hi tất nghe lời.
    Câu Tiễn tức khắc sai sứ về đô thành nói với phu nhân tuyển những mỹ nữ trong cung cả thẩy được tám người, cho trang sức rất lịch sự, lại thêm hai mươi đôi bạch bích, một nghìn nén hoàng kim, ngay đêm hôm ấy sai Văn Chủng sang dinh Bá Hi xin vào yết kiến. Bá Hi lúc đầu đã toan từ chối, nhưng sai người ra dò thì thấy có nhiều lễ vật, mới thuận cho vào. Bá Hi ngồi vắt chân ở trên giường để đợi. Văn Chủng quỉ mà kêu rằng:
    - Chúa công tôi là Câu Tiễn hãy còn trẻ tuổi, chưa biết gì, không khéo thờ nước lớn, để đến nỗi tai vạ, nay chúa công tôi đã biết hối tội, xin đem cả nước làm tôi vua Ngô, nhưng sợ vua Ngô không nghe; chúa công tôi biết ngài là người có công với Ngô, mặt ngoài là bức thành cho nước Ngô, mặt trong là tâm phúc của vua Ngô, vậy sai tôi là Văn Chủng sang để van lạy ngài trước, nhờ ngài nói dùm cho một câu, gọi là có chút lễ lạc, đem dâng ngài. Từ nay trở đi, còn nhiều ân nghĩa về sau nữa.
    Văn Chủng liền cầm cái đơn kê khai các lễ vật dâng trình Bá Hi. Nhưng Bá Hi còn làm ra vẻ giận dữ mà mắng rằng:
    - Nước Việt ngươi chẳng qua chỉ trong sớm tối thì bị phá diệt! phàm của cải nước Việt, cái gì không về tay nước Ngô, mà nhà ngươi còn dám đem lễ vật nhỏ mọn này sang dử ta hay sao!
    Văn Chủng lại nói:
    - Nước Việt tôi dẫu thua, nhưng nay đóng ở Cối Kê, hiện còn năm nghìn quân tinh nhuệ, có thể giao chiến được một trận. Nếu giao chiến mà thua, bấy giờ chúa công tôi sẽ đốt hết kho tàng mà đem thân trốn đi nước ngoài, để cầu viện quân Sở, chưa chắc nước Việt tôi đã về tay nước Ngô được. Giả sử có về tay nước Ngô nữa thì qúa nửa của cải nộp về cho Ngô, còn ngài và các tướng chẳng quan mỗi người được một vài phần; chi bằng ngài làm ơn nói cho nước Việt tôi được giảng hoà thì chúa công tôi dẫu đem thân nhờ vua Ngô, mà thực là đem thân nhờ ngài đó. Mỗi khi cống hiến, chưa nộp vua Ngô, đã phải nhớ đến ngài trước. Có phải là ngài hưởng riêng một mối lợi to, mà các tướng không ai được dự đến. Huống chi giống thú mà đến lúc cùng khốn, cũng phải cố cắn; nếu Việt liều một trận sống chết, nào đã chắc rồi ra thế nào!
    Văn Chủng giãi bày một hồi lâu, làm cho lòng Bá Hi chuyển động. Bá Hi mới giật đầu mà tủm tỉm cười. Văn Chủng lại trỏ cái đơn kê khai lễ vật mà nói rằng:
    - Tám người mỹ nữ này đều tuyển ở trong cung nước Việt, nhưng nếu chọn ở dân gian thì sẽ còn nhiều người đẹp hơn. Chúa công tôi được về nước Việt thì xin hết sức tìm tòi để lại đem dâng nộp.
    Bá Hi đứng dậy mà nói rằng:
    - Quan đại phu không sang hữu dinh (trỏ dinh Ngũ Viên) mà tới đây hẳn cũng biết là tôi không có ý hại người. Để đến sáng mai, tôi xin đưa quan đại phu vào yết kiến vua Ngô, rồi sẽ bàn định.
    Bá Hi nhận lễ vật và lưu Văn Chủng ở trong dinh, bày tiệc thết đãi. Sáng hôm sau, Bá Hi đưa Văn Chủng vào yết kiến Phù Sai. Bá Hi vào trước, đem những tình ý Câu Tiễn sai Văn Chủng sang xin hoà, nói với Phù Sai. Phù Sai bừng bừng nét mặt mà bảo rằng:
    - Nước Việt cùng ta có cái thù không đội trời chung, khi nào ta lại cho hoà!
    Bá Hi nói:
    - Đại vương không nhớ lời nói của Tô Vũ khi xưa hay sao! "Việc binh là nên dùng tạm, chứ không nên dùng lâu". Nước Việt dẫu đắc tội với ta, nhưng tôi tưởng nước Việt cũng đã chịu nhún nước Ngô ta nhiều lắm: vua Việt xin làm tôi nước Ngô, vợ vua Việt xin làm thiếp nước Ngô, bao nhiêu châu báu nước Việt, đem nộp vào cung nước Ngô cả. Nước Việt chỉ xin ta một điều là để cho còn chỗ cúng tế mà thôi. Vậy thì ta cho nước Việt hoà, lợi biết dường nào, mà ta được tiếng là tha cho nước Việt. Như vậy thì nước Ngô ta có cớ làm bá chủ được. Nếu cố sức mà diệt nước Việt thì Câu Tiễn kia tất cũng đành đốt tôn miếu, giết vợ con, ném hết vàng ngọc suống sông, rồi đem năm nghìn quân cảm tử mà liều chết với nước Ngô ta, chẳng cũng hại đến tôi con của chúa công lắm ru! dầu có giết được người ấy, sao bằng thu được nước ấy, chả có phần lợi hơn ư!
    Phù Sai nói:
    - Bây giờ Văn Chủng ở đâu?
    Bá Hi nói:
    - Hiện đang đứng chờ ở ngoài.
    Phù Sai cho triệu vào. Văn Chủng quì gối kéo lết mà tiến lên, lại đem những lời hôm trước mà nói với Phù Sai nhưng còn có phần khúm nún hơn. Phù Sai nói:
    - Vua ngươi xin làm tôi Ngô, vậy thì có chịu theo ta về Ngô hay không?
    Văn Chủng sụp lạy mà tâu rằng:
    - Đã xin làm tôi nhà vua thì sống chết ở trong tay nhà vua, thế nào cũng xin vâng mệnh.
    Bá Hi nói với Phù Sai rằng:
    - Vợ chồng Câu Tiễn đều tình nguyện xin về Ngô, vậy thì nước Ngô ta dẫu tha cho Việt, cũng chẳng khác gì chiếm được nước Việt. Đại vương còn muốn chi nữa!
    Phù Sai liền cho nước Việt giảng hoà. Có người sang hữu dinh báo tin cho Ngũ Viên biết. Ngũ Viên vội vàng vào yết kiến Phù Sai. Khi vào đến nơi, thấy Bá Hi và Văn Chủng đã đứng ở bên cạnh Phù Sai. Ngũ Viên hầm hầm nổi giận, hỏi Phù Sai rằng:
    - Đại vương đã cho nước Việt giảng hoà rồi à?
    Phù Sai nói:
    - Ta đã cho rối
    Ngũ Viên kêu luôn mấy tiếng:
    - Không nên! không nến
    Văn Chủng hoảng sợ, đứng lui xuống mấy bước để nghe Ngũ Viên nói hết. Ngũ Viên can Phù Sai rằng:
    - Việt tiếp giáp với ta, thế không cùng đứng được! nếu Ngô không diệt Việt thì Việt cũng diệt Ngô. Kìa như Tần Tấn, dẫu ta đánh được, mà đất của họ, ta không thể ở được, xe của họ ta không thể đi được; còn như Việt mà ta đánh được, thì đất của họ ta ở được, thuyền của họ ta đi được, đó là cái lợi của xã tắc, không thể bỏ. Huống chi Việt là kẻ thù lớn của tiên vương ta ngày xưa, ta không diệt Việt thì chẳng phụ mất lời thề trước sân ngày xưa hay sao?
    Phù Sai nín lặng, không biết nói ra thế nào, chỉ đưa mắt mà nhìn Bá Hi, Bá Hi nói:
    - Quan tướng quốc nói thế là lầm! nếu bảo rằng Ngô Việt ở về mặt thuỷ, thế tất phải diệt nhau, thì Tần, Tấn, Tề, Lỗ cùng ở mặt bộ, có lẽ cũng phải diệt nhau hay sao? nếu bảo rằng Việt là kẻ thù lớn của tiên vương nước Ngô, không thể tha được, vậy thì quan tướng quốc thù Sở biết dường nào, mà sao không diệt Sở, lại cho Sở hoà làm gì? nay vợ chồng Câu Tiễn đều tình nguyện về Ngô, so với Sở chỉ nộp một công tử Thắng, thì lại càng không giống nhau nữa! quan tướng quốc làm điều trung hậu mà muốn cho đại vương mang tiếng khắc bạc, trung thần có bao giờ như thế?
    Phù Sai mừng mà bảo Ngũ Viên rằng:
    - Bá Hi nói phải, nhà ngươi hãy lui về, đợi khi nước Việt cống tiến, ta sẽ chia tặng nhà ngươi.
    Ngũ Viên sầm nét mặt lại, thở dài mà than rằng:
    - Tiếc thay! ta không nghe lời Bị Ly, mà lại cùng với đứa gian thần đồng sự!
    Ngũ Viên căm tức không thôi; mồm cứ lẩm bẩm; khi lui ra ngoài, bảo quan đại phu là Vương Tôn Hùng rằng:
    - Nước Việt nuôi dân trong mười năm, lại dạy dân trong mười năm nữa, chẳng qua chỉ hai mươi năm thì cung điện nước Ngô thành ra ao chuôm mất cả!
    Vương Tôn Hùng cũng chưa lấy làm tin lắm. Ngũ Viên nuốt giận mà trở về hữu dinh. Phù Sai cho Văn Chủng về báo với Câu Tiễn. Câu Tiễn lại sai Văn Chủng sang tạ ơn. Phù Sai hỏi:
    - Bao giờ thì vợ chồng vua Việt theo ta sang Ngô?
    Văn Chủng nói:
    - Chúa công tôi đội ơn đại vương xá cho, định trở về nước nhà thu xếp nhưng ngọc lụa trai gái để đem sang cống, xin đại vương hãy tạm khoan kỳ hạn cho. Dầu chúa công tôi có đem lòng thất tín cũng chẳng trốn được búa rìu sấm sét của đại vương.
    Phù Sai thuận cho, liền ước định đến trung tuần tháng năm thì vợ chồng vua Việt phải sang Ngô. Lại sai Vương Tôn Hùng theo Văn Chủng sang Việt để giục vua Việt phải mau mau khởi trình, còn quan Thái tể là Bá Hi thì đóng một vạn quân ở Ngô Sơn để chờ vua Việt, nếu vua Việt sai hẹn không sang thì sẽ đem quân diệt nước Việt. Phù Sai kéo đại binh trở về trước.