hồi 24
Tề hoàn-công lấy lòng đãi sứ Sở
Hội chư-hầu nhất dạ phục vua Châu

Khuất-hoàn đến trại Tề xin vào yết kiến.
Quản-trọng hay được tin, nói với Tề hoàn-công:
- Nước Sở sai sứ đến một lần nữa chắc là xin giảng hoà, Chúa-công nên tiếp đãi tử tế.
Tề hoàn-công cho đòi Khuất-hoàn vào.
Khuất-Hoàn quỳ móp dưới trướng tâu:
- Chúa công tôi chỉ vì không cống cỏ thanh-mao, để quí-quốc nhọc lòng đem quân đến đây thật tội rất lớn. Chúa công tôi đã biết lỗi, xin quí-quốc lui binh khỏi ba mươi dặm. Chúa công tôi sẽ tuân-mệnh.
Tề hoàn-công nói:
- Nếu vua nước Sở biết giữ bổn-phận ta còn đòi gì nữa mà không rút quân.
Khuất-hoàn lạy tạ lui ra, trở về thưa lại với Sở văn-vương:
- Tôi hứa với Tề-hầu, chịu cống hiến một xe cỏ thanh-mao, và Tề-hầu cũng đã hứa rút quân khỏi ba mươi dặm.
Sở thành-vương không tin, sai người đi thám thính.
Bỗng có quân vào báo:
- Quân các nước chư-hầu đã rút khỏi ngoài ba mươi dặm, hiện đóng nơi đất Thiệu-lăng.
Sở thành-vương nói:
- Tề-hầu chịu rút quân ấy là có ý sợ ta, ta há lại giữ lời hứa làm chi?
Tử-văn thưa:
- Đại Vương chớ nên làm thế! Người ta không bội tín với mình, mà mình bội tín với họ sao phải.
Sở thành-vương nín lặng, nét mặt buồn buồn.
Kế đó, sai Khuất-Hoàn đem mấy xe vàng lúa đến đất Thiệu-lăng để ban thưởng cho quân các nước chư hầu.
Lại sai sửa soạn một xe cỏ thanh-mao đem đến trình với Tề hoàn-công để đem vào triều cống Thiên-tử.
Lúc đó, Hứa mục-công đã qua đời, con Hứa mục-công là Hiệp, lên nối ngôi, xưng hiệu Hứa hi-công.
Hứa hi-công sai quan Đại-phu Bách-đà đến hội diện cùng các chư-hầu nơi Thiệu-lăng để điều khiển đoàn quân của mình.
Khuất-hoàn vào yết kiến Tề hoàn-công dâng vàng lụa để ban thưởng cho quân sĩ.
Tề hoàn-công đem phân phát cho các nước.
Khuất-hoàn lại dâng cỏ thanh-mao.
Tề hoàn-công xem xong giao trả cho Khuất-hoàn, sai sứ đem vào triều cống Thiên-tử.
Tề hoàn-công hỏi Khuất-hoàn:
- Nhà ngươi đã bao giờ được trông thấy quân lực của các nước Trung-nguyên chưa?
Khuất-hoàn nói:
- Tôi ở nơi xa xôi hẻo lánh về cõi Nam nầy, chưa từng thấy những đạo binh hùng mạnh của Trung-nguyên, nếu Minh-công có hảo-ý, xin cho tôi được xem tường tận.
Tề hoàn-công liền đưa Khuất-hoàn đi xem các trại quân của các nước chư-hầu.
Bấy giờ quân các nước đóng liền nhau dài hơn mấy mươi dậm. Mỗi khi trại quân Tề nỗi trống hiệu, các trại chư-hầu đồng ứng tiếng, gióng lên như sấm.
Tề hoàn-công đắc ý, cười lớn, nói với Khuất-hoàn:
- Binh-lực của các nước Trung-nguyên ta như thế nầy đánh đâu mà chẳng thắng.
Khuất-hoàn nói:
- Minh-công là bá chủ Trung-quốc, dùng đạo-đưc để chinh-phục lòng người, dùng đại-nghĩa thắng thiên-hạ. Cái đó mới đáng sợ. Chư như lấy binh lực cậy oai, thì nước Sở tôi, dẫu nhỏ mọn, nhưng có Phương-thành, có sông Hán-thuỷ, thành cao, hào sâu, dẫu trăm vạn binh hùng, vị tất đã làm gì nổi!
Tề hoàn-công nghe nói, có ý hổ thẹn, bảo Khuất-hoàn:
- Nhà ngươi thật là một hiền-sĩ của nước Sở. Nay ta xin cùng vua nước Sở giữ lấy chức phận của tiên quân ta ngày xưa, nhà ngươi nghĩ thế nào?
Khuất-hoàn nói:
- Minh-công có lòng nghĩ đến Chúa-công tôi mà giảng-hoà thì còn gì may mắn hơn.
Tề hoàn-công truyền mở tiệc đãi đằng.
Sáng hôm sau Tề hoàn-Công lập đàn, để cùng với nước Sở ăn thề và lập điều ước giảng-hoà với nhau.
Quản-Trọng xin tha cho Đam-Bá về nước Trịnh.
Khuất-hoàn cũng thay mặt Sái-hầu xin lỗi với Tề hoàn-công.
Đoạn, hai bên từ giã nhau.
Tề hoàn-Công ra lệnh thu quân về nước.
Trong khi đi đường, Bảo thúc-nha hỏi Quản-trọng:
- Nước Sở tiếm xưng vương hiệu, tại sao Trọng-phụ không đem việc ấy bắt tội khi-quân lại nhận cỏ thanh-mao làm chi?
Quản-trọng nói:
- Nước Sở tiếm xưng vương-hiệu đã ba đời. Nếu nay bắt bỏ vương-hiệu, không đời nào nước Sở chịu tuân theo. Ấy vậy, nước ta làm sao điều khiển được. Muốn điểu khiển họ, cốt yểu phải làm cho họ nghe lời mình trước đã. Mà muốn họ nghe lời mình, không gì hơn đừng để họ bất mãn mình.
Bảo thúc-nha nghĩ ngợi một lúc, rồi cũng cho là phải.
Quan Đại-phu nước Trần là Đào-Đồ, nghe tin Tề hoàn-Công đem quân về nước, liền bàn với quan Đại-phu nước Trịnh là Thân-hầu:
- Nếu để quân Tề đi qua địa giới nước Trần và nước Trịnh, thì ta phải cung-đốn lương thực, như thế đã tốn của lại mất công, chi bằng nói với Tề hầu đi về phía Đông, khiến cho nước Từ và Cử phải chịu lấy sự khó nhọc ấy thì hai nước ta mới rảnh-rang được.
Thân-hầu vốn là một kẻ nham hiểm, ngoài mặt tán thành lời nói của Đào-Đồ, nhưng trong bụng có ý cười thầm, liền bảo Đào-Đồ vào tâu với Tề hoàn-công.
Đào-Đồ bước vào ra mắt, tâu:
- Minh-công đánh Sơn-nhung nơi phía Bắc, phạt nước Sở nơi phía Nam, bây giờ!!!367_24.htm!!! Đã xem 2000505 lần.


Nguồn: Hùng
Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên
vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003

Tề hoàn-công sai Công-tử Vô-khuyết đem quân hộ tống Công-tử Hủy trở về, tôn lên ngôi, tức là Vệ văn-công.
Vệ văn-công vừa lên ngôi, được nghe câu chuyện Hoằng-Diễn mổ bụng làm áo quan để chôn buồng gan Vệ ý-công, lòng rất cảm động, cho người đến Huỳnh-trạch dùng vương-lễ mai táng Vệ ý-Công, rồi phong cho Hoằng-diễn và dùng con cháu Hoằng-diễn ra làm quan.
Vệ văn-công tính tinh cần mẫn, tuy làm vua vẫn đội mũ lụa xấu, mặc áo vải, ăn cơm đỏ canh rau, lại siêng năng chăm lo việc liêm chính. Vì vậy, chẳng bao lâu dân tình bớt khốn đốn.
Công-tử Vô-khuyết cho ba ngàn quân đến trấn tại Tào ấp để phòng giữ quân giặc, rồi trở về nước Tề, kể lại đạo đức của Vệ văn-công và thuật lại chuyện Hoằng-Diễn mổ bụng chôn vua cho Tề hoàn-Công nghe.
Tề hoàn-công khen:
- Một ông vua vô đạo mà có được bề tôi trung nghĩa như vậy thì nước Vệ chưa đến nỗi mất.
Quản-trọng thưa:
- Nay bắt quân sĩ đóng đồn phòng thủ cho nước Vệ thì khổ nhọc lắm, chi bằng đắp cho nước Vệ một cái thành, tuy khó nhọc một lần, song yên ổn mãi mãi.
Tề hoàn-công y lời, toan hội chư hầu sang đắp thành cho nước Vệ.
Bỗng có sứ nước Hình đến cáo-cấp, nói quân Bắc-dịch lại kéo đến đánh, xin cho quân cứu viện.
Tề hoàn-công hỏi Quản-trọng:
- Ta có nên cất binh đi cứu nước Hình chăng?
Quản-trọng thưa:
- Sở dĩ chư hầu phục ta là vì nước ta hay cứu vớt tai nạn các nước khác. Nay đã không cứu Vệ, lại không cứu Hình nữa thì làm sao gọi là bá-chủ.
- Thế thì bây giờ nên đi đắp thành cho nước Vệ, hay đi cứu nước Hình trước?
Quản-trọng nói:
- Cứu binh như cứu lửa, không nên duyên trì. Cứu xong nước Hình, rồi nhân tiện, đến đắp thành cho nước Vệ thì được lưỡng toàn.
Tề hoàn-Công khen phải, truyền hịch cho các chư hầu, hội nơi đất Nhiếp-bắc để cùng nhau đánh quân Bắc-dịch.
Quản-trọng lại thưa với Tề hoàn-công:
- Quân nước Bắc-dịch vừa thắng nước Vệ, thế quân đang mạnh lắm. Còn nước Hình cầu cứu, song quân lực chưa phải suy yếu. Nay ta đợi cho hai bên giáp chiến đã. Nước Hình dẫu thua trận, thì quân Bắc-dịch lúc đó cũng mệt mỏi. Ta thừa thế kéo binh đến đánh, ắt dễ thắng hơn.
Tề hoàn-Công nghe theo lời, đem binh đến nơi Nhiếp-bắc, giả cách chờ đợi binh các nước chư hầu, rồi sai người do thám tin tức nước Hình.
Quân Bắc-dịch đang lúc hung hăng, ngày đêm công thành.
Nước Hình cự không nổi, vua tôi bỏ chạy tán loạn.
Chúa nước Hình là Thúc-Nhan chạy đến trại Tề hoàn- Công cầu cứu.
Tề hoàn-công nói:
- Tôi không đến quí-quốc kịp, thật có lỗi lớn.
Nói xong, họp các chư hầu bàn mưu phá giặc.
Vua Bắc-dịch là Sưu-man chiếm được kinh thành nước Hình, vơ vét của cải, đốt phá cung điện, lòng tham đã mãn nguyện, không còn thiết gì nữa, lại nghe quan các nước chư hầu sắp sửa kéo đến, vội vã rút quân về.
Vì vậy khi các nước chư hầu đến thì chỉ còn vườn không nhà trống, cung điện hoang-tàn mà thôi.
Tề hoàn-công hỏi Thúc-nhan:
- Thành cũ còn có thể ở tạm nữa được chăng?
Thúc-nhan thưa:
- Dân chúng đã bỏ đi quá nữa, đến trú ngụ nơi Di-nghi, bây giờ tôi phải theo ý dân, dời đô sang Di-nghi mới được.
Tề hoàn-công hội chư hầu, giúp vua nước Hình xây đắp thành lũy nơi Di-nghi, và cắp cho trâu bò, lúa thóc rất nhiều.
Vua nước Hình mến đức, ca tụng chẳng cùng.
Tề hoàn-công lại đem quân các chư hầu sang nước Vệ.
Vệ văn-Công ra khỏi thành nghênh tiếp.
Tề hoàn-công thấy Vệ văn-công đội mũ lụa xấu, mặc áo vải thô, lòng thương xót, hỏi:
- Tôi nhờ các chư hầu đến giúp cho quí-quốc xây thành, đắp lũy chẳng hay quí-quốc muốn đóng đô nơi nào?
Vệ văn-công thưa:
- Tôi đã chọn đất Sở-khâu là nơi cát địa, có thể đóng đô được, song việc xây cất thành quách tổn phí lắm, không thể nào làm nổi.
Tề hoàn-công nói:
- Việc đó đã có tôi và các nước chư-hầu giúp sức, xin hiền-hầu chớ lo.
Nói xong, truyền các nước chư hầu đền đất Sở-khâu, đốc suất việc xây thành đắp lũy cho nước Vệ.
Tiếng đồn vang đến nước Sở.
Sở thành-vương Hùng-vận từ khi dùng Tử-văn Đầu-cầu Ô-Đồ làm Tể-tướng, chăm lo sửa sang chính-trị trong nước, mưu việc bá-chủ chư-hầu, nay nghe Tề hoàn-công cứu nước Hình, giúp nước Vệ khiến các chư-hầu mến phục, lòng áy náy không an.
Một hôm hỏi Tử-văn:
- Hiện nay các chư hầu đều quy thuận nước Tề, không biết đến nước Sở, ta thật lấy làm xấu hổ, khanh có ý chi chăng?
Tử-văn tâu:
- Tề-hầu sửa sang việc quốc-chính đã hơn ba mươi chín năm, các chư-hầu đều tin phục. Ta khó địch nỗi với Tề. Bây giờ xin Đại-vương mở mang bờ cõi, thu phục nhân tâm, chuẩn bị lực lượng để ngày sau cùng với Tề đối địch.
Sở thành-vương nói:
- Mở rộng bờ cõi bằng cách nào?
Tử-văn thưa:
- Nay có nước Trịnh, nằm vào giữa Nam, Bắc, làm tấm bình phong che đỡ cho các nước Trung-nguyên. Nếu Đại-vương muốn mở mang bờ cõi tất phải đánh lấy Trịnh mới được.
Sở thành-vương nói:
- Có ai vì ta ra sức đảm đương việc đánh Trịnh chăng?
Quan Đại-phu Đầu-Chương bước ra xin đảm nhận.
Sở thành-Vương cấp cho ba vạn binh hùng, khiến Đầu-chương thẳng đường kéo sang nước Trịnh.
Nước Trịnh từ khi bị nước Sở sang quấy nhiễu ở đất Thuần-môn, ngày đêm có ý đề phòng, nay nghe binh Sở kéo đến nữa, Trịnh văn-Công sợ hãi, một mặt sai tướng tăng cường việc phòng thủ Thuần-môn, một mặt sai sứ sang Tề cáo cấp.
Tề hoàn-công hay tin hội các chư hầu bàn mưu cứu Trịnh.
Đầu-Chương kéo quân đến Thuần-môn, thấy quân Trịnh đề phòng cẩn mật, lại hay tin các chư hầu hiệp binh đến cứu liệu thế không làm gì được phải kéo binh về.
Sở thành-vương hay được Đầu-Chương chưa đánh đã lui binh tức giận, rút thanh gươm đeo mình đưa cho Đầu-liêm, bảo đi chém đầu Đầu-chương.
Đầu-Liêm là anh Đầu-chương nên khi được lệnh lòng phân vân, giấu mật lệnh vào mình, không cho ai biết, rồi lén đến cùng với Đấu-chương thương nghị.
Đầu-Liêm nói:
- Em đã trái lệnh vua không tránh khỏi tội. Nay phải tìm cách lập công chuộc tội mới được.
Đầu-Chương sụp lạy nói:
- Nếu anh tưởng tình đến em, xin anh bày kế cho.
Đầu-Liêm nói:
- Nước Trịnh thấy em kéo binh về tất không còn đề phòng nữa. Nay em phải lập tức đến đó xuất kỳ bất ý đánh một trận, may thắng đặng.
Đầu-Chương vâng lời chia quân làm hai đạo kéo đi trước.
Còn Đầu-liêm theo sau tiếp ứng.
Quan giữ thành nơi biên giới nước Trịnh là Đam-Bá, từ lúc thấy quân nước Sở không đánh mà rút về, có ý trễ biếng. Bất ngờ nay Đầu-chương lại kéo đến nữa không còn để phòng kịp, bị Đầu-Chương hãm thành bắt sống trên lưng ngựa, còn quân sĩ chết hơn quá nữa. hừa thắng, Đầu-chương kéo quân thẳng đến vây thành nước Trịnh.
Được hai ngày, Đầu-liêm bàn với Đầu-chương:
- Ta chỉ cốt lập công để chuộc tội chết, nay thắng trận như vầy cũng đã đũ, không nên khinh thường đóng quân trên đất địch lâu.
Hai anh em liền rút quân về.
Đầu-chương vào yết kiến Sở thành-vương và tâu:
- Khi trước tôi lui binh về cốt là để lập mưu đánh lừa giặc chứ không có ý khi quân hay sợ giặc xin Đại-vương xét lại.
Sở thành-vương nói:
- Ngươi đã thắng giặc, bắt được tướng Trịnh, tội ấy có thể dung tha. Nhưng tại sao nước Trịnh chưa chịu đầu hàng mà ngươi đã kéo binh về?
Đầu-Chương nói:
- Tôi sợ quân ít, không đánh nổi nước Trịnh làm tổn thương đến uy-danh nước Sở nên phải rút binh về.
Sư thành-vương nổi giận hét:
- Nếu đổ thừa cho quân ít thì quả ngươi đã sợ giặc rồi! Nay ta cấp thêm quân cho ngươi, nếu không đánh được nước Trịnh thì đừng thấy mặt ta nữa.
Đầu-Liêm bước tới, quỳ tâu:
- Xin Đại-vương cho anh em tôi cùng đi. Nếu nước Trịnh không chịu đầu hàng chúng tôi xin đem đầu Chúa Trịnh về nạp cho Đại-vương.
Sở thành-vương nhậm lời, phong cho Đầu-liêm làm Đại-tướng, Đầu-chương làm phó tướng, cấp cho mỗi người năm vạn binh ròng kéo thẳng đến nước Trịnh.
Trịnh văn-công hay được tin Đam-bá bị bắt, lại nghe quân Sở ồ ạt kéo đến nữa, hoảng hốt, sai sứ sang nước Tề cầu cứu.
Quản-trọng thưa với Tề hoàn-công:
- Mấy năm qua, Chúa-công đã giúp nước Yên, cứu nước Lỗ, lại xây thành đấp lũy cho nước Hình và Vệ. Vậy ngày nay Chúa công có thể dùng quân các nước ấy để đánh Sở được. Mà đánh Sở tức là cứu Trịnh vậy.
Tề hoàn-công nói:
- Nếu hội các chư hầu đánh Sở, nước Sở hay được tất phòng bị trước, thì khó thắng.
Quản-Trọng nói:
- Nước Sái là một nước nhỏ, tiếp giáp với Sở, trước kia có lỗi với Chúa-công. Nay Chúa-công mượn tiếng ấy đi đánh Sái, rồi kéo binh qua đánh Sở, thì nước Sở không phòng bị kịp.
Nguyên trước đây Sái-hầu có em gái là Sái-cơ, đem gã cho Tề hoàn-công làm đệ tam phu-nhân. Một hôm, Tê hoàn-công cùng với Sái-cơ chèo thuyền du ngoạn nơi ao sen, Sái-Cơ đùa bỡn, lấy tay khuấy nước làm tung vào mặt Tề hoàn-công. Tề hoàn-Công phải tránh né mãi. Sái-cơ biết Tề hoàn-công sợ nước, mới cố ý làm cho thuyền lay động, nước bắn vào ướt áo.
Tề hoàn-công nổi giận mắng:
- Tiện-tỳ, mi dám vô lễ với ta đến thế ư?
Nói xong sai Thụ-điêu đuổi Sái-cơ về nước.
Sái-hầu thấy vậy giận lắm, nói:
- Ta đã gả em gái cho, mà còn xử bạc, xua đuổi. Thế thì còn tình nghĩa gì nữa.
Sái hầu đem Sái-cơ gả cho Sở thành-vương lập làm phu-nhân.
Từ ấy, Tề hoàn-Công đem lòng căm giận Sái-hầu.
Nay nghe Quản-trọng nhắc đến, Tề hoàn-công nói:
- Sái và Sở đáng phải trừng trị. Nay có nước Giang và nước Hoàng, cũng tiếp giáp với Sở, bị nước Sở quấy nhiễu đem lòng căm phẫn. Ta muốn cùng với hai nước ấy thề ước, và nhờ làm nội ứng phỗng có nên chăng?
Quản-trọng bàn rằng:
- Nước Giang và Hoàng là hai nước ở xa Tề lại gần Sở. Nếu qui thuận nước ta tất nước Sở giận, kéo quân sang đánh. Chừng đó ta đến cứu thì quá xa xôi, bằng không đến cứu, mang tiếng với chư-hầu, chi bằng liên-kết với nước khác là hơn.
Tề hoàn-công nói:
- Dẫu xa xôi, nhưng họ có lòng hâm mộ về với mình, lẽ nào lại từ chối để cho họ phải thất vọng!
Quản-trọng nói:
- Nếu Chúa-công không nghe lời thì cứ xin ghi lấy lời tôi nói, sau nầy sẽ thấy điều lợi hại.
Tề hoàn-công sai mời nước Hoàng và nước Giang đền giao hòa, rồi cùng hai nước ăn thề, họp binh đánh Sở.
Vua nước Giang và nước Hoàng bàn với Tề hoàn-công:
- Lâu nay nước Thư vố
Hồi 55 Hồi 56 Hồi 57 Hồi 58 Hồi 59 Hồi 60 Hồi 61 Hồi 62 Hồi 63 Hồi 64 Hồi 65 Hồi 66 Hồi 67 Hồi 68 Hồi 69 Hồi 70 Hồi 71 Hồi 72 Hồi 73 Hồi 74 Hồi 75 n giúp cho nước Sở thi hành nhiều điều tàn ác. Ấy vậy, nên đánh nước Thư trước để chặt vây cánh.
Tể hoàn-công y lời viết một phong thư sai người đem đến nước Từ. Nước Từ vốn là một nước tiếp giáp với nước Thư. Vua nước Từ gả con gái cho Tề hoàn-công làm đệ nhị phu-nhân, lâu nay vẫn tùng phục nước Tề, nên nay Tề hoàn-công khiến hưng binh sang đánh nước Thư. Vua nước Từ được lệnh hưng binh.
Chẳng bao lâu lấy được nước Thư.
Tề hoàn-công bảo vua nước Từ đóng quân ở Kinh-thành Thư, phòng khi cấp biến.
Giữa lúc đó, Tề hoàn-công lại tiếp sứ nước Lỗ sang thương nghị.
Sứ nước Lỗ là Quí-hữu vào ra mắt và tâu:
- Nước tôi có hiềm khích nước Châu và nước Cử, nên trước đây không sang đắp thành cho nước Vệ và nước Hình. Nay nghe tin quí quốc hội với nước Giang và Hoàng, sắp sửa tranh chiến, Chúa-công tôi xin đem binh giúp sức.
Tề hoàn-công nghe nói, mừng rỡ đem việc đánh Sở mật ước với Lỗ.
Lúc bấy giờ nước Sở đang đem quân xâm chiếm nước Trịnh, vây thành rất ngặt.
Trịnh văn-công muốn xin giảng hòa để cứu dân nước khỏi cảnh lầm than.
Quan Đại-phu Khổng-thúc can:
- Xin Chúa-công hãy chậm rãi. Nước Tề đang chuẩn bị đánh Sở, mục-đích để cứu Trịnh. Ta nên cố thủ chờ xem.
Trịnh văn-công nghe lời, sai người cáo cấp với Tề hoàn-công.
Tề hoàn-công lập tức hội chư hầu, mượn cớ đánh Sái, để đem quân phạt Sở.
Tề hoàn-công phong cho Quản-trọng làm Đại tướng, lại khiến Thụ-điêu đem quân sang đánh nước Sái trước.
Nước Sái lâu nay vốn cậy Sở không phòng bị gì cả. Khi thấy Thụ-điêu kéo quân đến, mới vội vàng đem quân chống giữ.
Sái hầu thấy Thụ-điêu bỗng nhớ lại Thụ-điêu trước kia là người hầu hạ Sái-cơ trong cung Tề, là một kẻ tiểu-nhân, bèn sai người đem vàng lụa đến cống lễ, để nhờ Thụ-điêu hoãn binh.
Thụ-điêu nhận lễ vật rồi đem các điều dự tính của Tề hoàn-công hội chư hầu, trước đánh Sái sau đánh Sở nói cho nước Sái biết, bảo Sái hầu phải đem gia quyến lánh nạn kẻo bị diệt vong.
Sứ tề tâu lại, Sái hầu thất kinh, nội đêm ấy bỏ thành, dắt cung quyến chạy sang nước Sở.
Dân trong thành thấy vua bỏ trốn tức khắc tìm đường lánh nạn.
Thụ-điêu kéo quân vào thành, sai người về phi báo với Tề hoàn Công xưng tụng công lao của mình.
Còn Sái-hầu trốn sang nước Sở. Vào ra mắt Sở thành-vương thuật lại những lời nói của Thụ-điêu.
Sở thành-vương biết được mưu kế của Tề hoàn-công, liền ra lệnh cho quân sĩ canh phòng khắp nơi cẩn mật.
Lại sai người sang nước Trịnh bão Đầu-chương rút quân về.
Mấy hôm sau, đại binh của Tề hoàn-công kéo đến nước Sái.
Thụ-Điêu đem quân ra nghênh tiếp, bảy nước chư-hầu cùng đến một lượt quân bị rất chỉnh tề.
Bảy nước ấy là:
1- Tống hoàn-công (Ngự-thuyết)
2- Lỗ hi-công (Thân)
3. Trần tuyên-công (Xử-Cựu)
4- Vệ văn Công (Hủy)
5- Trịnh văn-công (Thiệp)
6.- Tào chiêu-công (Ban)
7- Hứa mục-công (Tân-thần).
Bảy nước ấy chịu dưới quyền điều khiển của Tề hoàn-Công, Tiểu-bạch làm Minh-chủ.
Lúc ấy Hứa mục-công đang bịnh nhưng cũng ráng đem quân hội nơi nước Sái. Vì vậy, khi đến nơi, Hứa mục-công lâm bịnh nặng bỏ mình.
Tề hoàn-công cảm tình ấy phong cho nước Hứa được đứng trên hàng nước Tào.
Đóng quân nơi nước Sái được ba ngày, an táng Hứa mục-công xong.
Tề hoàn-công cử đại binh thẳng đường kéo qua nước Sở.
Vừa đến biên giới nước Sở, bống thấy một người mũ áo chỉnh tề khép nép bên đường, cúi chào Tề hoàn-công hỏi:
- Ngài có phải Tề-hầu chăng? Tôi là sứ-thần nước Sở, chờ ngài nơi đây đã lâu.
Nguyên người ấy là Khuất-hoàn, hiện làm quan Đại-phu nước Sở. Nay vâng lệnh Sở thành-vương đến để thuyết khách.
Tề hoàn-công lấy làm lạ, hỏi Quản-trọng:
- Tại sao nước Sở biết được quân ta đến đây mà cho người ra đón?
Quản-trọng nói:
- Tất có kẻ nào đem mưu kế của ta tiết lậu cho người nước Sở biết. Tuy nhiên nay đã có thuyết khách của Sở đến đây, xin Chúa-công cho phép tôi dùng đại nghĩa mà nhắn nhủ vài lời, làm cho nước Sở phải nhục nhã phục tùng, khỏi dùng đến binh lực cũng nên.
Nói xong bước ra tiếp kiến Khuất-Hoàn.
Hai người chắp tay cùng thi lễ.
Khuất-hoàn nói:
- Chúa-công tôi hay tin quí quốc đem binh đến nên sai tôi thưa với quí-quốc vài lời. Tề với Sở ai có nước nấy. Nước Tề ở Bắc-hải, nước Sở ở Nam-hải cách nhau vạn dặm, cớ gì lại đem binh xâm phạt?
Quản-trọng nói:
- Ngày xưa vua Thành-vương nhà Châu phong cho Tiên-quân ta nước Tề là Thái-công, có dặn Hễ nước nào không chịu mệnh nhà Châu, nước Tề có quyền đem binh vấn tội. Từ khi nhà Châu thiên sang Đông Đô, các nước chư hầu đều chểnh-mảng không theo vương-lệnh. Chúa ta phụng mệnh Thiên-triều giữ quyền Minh-chủ. Nay nước Sở bỏ lệ hàng năm cống hiến nhà Châu, mặc dầu chỉ một xe cỗ thanh-mao mà không giữ lễ. Như thế nước Sở không có lỗi sao?
Khuất-hoàn nói:
- Từ lúc nhà Châu suy yếu, các nước đều bỏ lệ triều cống đâu phải riêng gì nước Sở. Nếu quí-quốc cho đó là một tội lỗi thì thật là đáng buồn cười.
Nói xong, cười lớn rồi quay xe trở về.
Quản-trọng nói với Tề hoàn-công:
- Người nước Sởi bỏ về Nguỵ-" href="index.php?tuaid=367&chuongid=98">Hồi 97 Hồi 98 Hồi 99 Hồi 100 Hồi 101 Hồi 102 Hồi 103 Hồi 104 Hồi 105 Hồi 106 Hồi 107 Hồi 108