VUA QUANG TRUNG VÀ VẤN ÐỀ NỘI TRỊ

Phần đất thuộc Vua Thái Ðức, Vua Quang Trung đã được minh định ngay sau khi có sự bất hòa giữa hai anh em: từ Hải Vân Quan trở vô là của Vua Thái Ðức. Từ Hải Vân Quan trở ra là của Vua Quang Trung. Nước nhà tuy hai trên thực tế nhưng vẫn là một trên danh nghĩa: hai miền Nam Bắc vẫn lấy niên hiệu Thái Ðức.
Khi Vua Quang Trung lên ngôi Hoàng Ðế, nhất là sau khi chiến thắng quân Thanh, Bắc Nam mới trở thành hai nước riêng biệt, không xâm lấn lãnh thổ nhau cũng không can thiệp nội bộ nhau.
Tháng 2 năm Kỷ Dậu (1789), giao phó việc cai trị Bắc Hà cho Ngô Văn Sở, Ngô Thời Nhậm, Vua Quang Trung trở về Phú Xuân, lo sửa sang việc nước.
1. HÀNH CHÍNH
Chọn kinh đô.
Vua Quang Trung đã có ý đóng đô tại Nghệ An từ lúc còn làm Bắc Bình Vương. Nhà vua đã nhờ La Sơn Phu Tử chọn đất để lập đô. Ban đầu nhà vua định chọn Phù Thạch trên sông Lam, gần núi Nghĩa Liệt, sau đổi ra Yên Trường (Vinh), cuối cùng chọn Dũng Quyết tức vùng núi Phượng Hoàng.
Ðịa thế hùng hiểm.
Phía Nam có sông Cồn Mộc và Sông Lam, phía đông bắc có núi Phượng Hoàng.
Ðều là hào và thành thiên nhiên che chở cho kinh thành.
Thành không rộng mấy. Bắc Nam chỉ dài chừng 300 mét. Ðông Tây dài chừng 450 mét. Ðó là nội thành. Ngoại thành chưa xây.
Thành Nghệ An gọi là Phượng Hoàng Trung Ðô.
Cải thành Thăng Long là Bắc Thành.
Vì Phượng Hoàng thành chưa xây xong, nên Vua Quang Trung về ngự tại núi Phú Xuân suốt thời gian trị vì.
Tổ chức chánh quyền trung ương.
Vua Quang Trung có ba bà vợ chính thức:
- Bà họ Phạm[73] ở thôn Phú Phong, huyện Tuy Viễn (Bình Khê), phủ Quy Nhơn, mất sớm, sanh hạ được hai trai là Nguyễn Quang Thùy và Nguyễn Quang Bàn.
Bà họ Phạm mất rồi, nhà vua kết duyên cùng bà họ Bùi ở thôn Xuân Hòa (Bình Khê). Bà họ Bùi là mẹ của Nguyễn Quang Toản, Nguyễn Quang Thiệu, Nguyễn Quang Khanh và hai người con gái.
- Ngọc Hân công chúa mới có một con.
Quang Thùy và Quang Bàn lúc bấy giờ đã 17, 18 tuổi.
Quang Toản mới 9, 10 tuổi.
Con Ngọc Hân mới 2 tuổi.
Vua Quang Trung phong bà họ Bùi làm Chánh Cung Hoàng Hậu, bà Ngọc Hân làm Bắc Cung Hoàng Hậu và lập Nguyễn Quang Toản làm Thái tử.
Bà họ Phạm được truy phong là Nhân Cung Ðoan Tĩnh Trinh Thục Như Thuần Vũ Hoàng Chánh Hậu, phong cho Quang Thùy làm Khanh Công Lĩnh Bắc Thành, Tiết Chế Thủ Bộ Chư Quân, phong cho Nguyễn Quang Bàn làm Tuyên Công Lĩnh Thanh Hóa Ðốc Trấn, Tổng Lý Quân Dân Sự Vụ.
Nguyễn Quang Thùy đã được Vua Càn Long phong là An Nam Quốc Vương Thế Tử. Vua Quang Trung sai sứ đem biểu sang tâu rằng Thùy là con dòng thứ.Càn Long nghe theo, phong Toản làm An Nam Quốc Vương Thế Tử thay Thùy. Có người bất bình, ngỏ ý cùng Nguyễn Quang Thùy, Thùy nói:
- Em tôi hay tôi làm Thái tử cũng thế thôi. Ðiều cốt yếu là làm thế nào cho nước Ðại Nam được mỗi ngày mỗi thêm giàu mạnh, nhà Tây Sơn mỗi ngày mỗi thêm vững bền, là tốt.
Hàng trí thức đương thời khen là đại nhân.
Quan chế vẫn tương tợ như cũ. Ðại khái trên thì có Tam công là Thái Sư, Thái phó, Thái bảo; Tam cô là Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo, Ðại chủng tể, Ðại tư đồ, Ðại tư mã, Ðại tư không; Ðại đô đốc, Ðại đô hộ. Lại có Trung thư sảnh, Trung thư lệnh, Lục bộ Thượng thư... Thị lang, Tư vụ...
Tổ chức hành chính địa phương.
Ðời nhà Lê nước chia làm 13 trấn: Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Lạng Sơn, An Bang, Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Quảng Nam.
Ðời Quang Trung, trấn Quảng Nam thuộc về Vua Thái Ðức, Vua Quang Trung chia Sơn Nam ra làm hai thành Sơn Nam Hạ và Sơn Nam Thượng.
Trấn chia làm nhiều phủ; Phủ chia làm nhiều huyện; Huyện chia làm nhiều tổng; Tổng chia làm nhiều xã; Xã chia làm nhiều thôn.
Trấn thì có Trấn Thủ (võ) và Hiệp Trấn (Văn) điều khiển. Phủ, Huyện thì có Tri phủ, Tri huyện cùng chức Phân tri coi việc kiện cáo, chức Phân xuất coi việc binh lương. Tổng thì có Chánh tổng, Phó tổng. Xã thôn thì có Xã trưởng, Thôn trưởng.
2. QUÂN SỰ
Tổ chức quân đội.
Theo các triều đại trước, quân đội gồm có 5 quân. Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu. Vua Quang Trung tổ chức thêm những đội quân đặc biệt, gọi Tả Bật, Hữu Bật, Ngũ Chế, Càn Thanh, Thiên Cán, Thiên Trường, Hổ Ðôn, Hổ Hầu, Thị Lân, Thị Loan.
Mỗi quân gồm 5 bậc là Sư, Lữ, Tốt, Lượng, Ngũ như xưa.
Ở các phủ, huyện, quân đội lại chia ra từng đạo, cơ và đội.
Ðạo thống cơ, cơ thống đội.
Tất cả đều ở dưới quyền viên võ Phân xuất.
Triều Vua Thái Ðức thì lính mộ chớ không bắt.
Vua Quang Trung dùng chính sách cưỡng bách.
Ðể tiện việc kiểm soát trong khi bắt lính, nhà vua đặt ra tín bài.
Tín bài là một chiếc thẻ, một phía thì ghi tánh danh, quản chỉ và dấu lăn tay hay chữ ký của chủ nhân chiếc thẻ, một phía có đóng dấu ấn có bốn chữ Quốc gia đại tín. Người nào không có tín bài thì bị bắt sung vào phòng dịch.
Nhà vua còn đặt ra hộ tịch, chia dân ra làm bốn hạng: từ 9 đến 17 tuổi gọi là Vị Cập cách hạng; từ 18 đến 55 tuổi gọi là Tráng hạng; từ 56 đến 60 tuổi gọi là Lão hạng; từ 61 tuổi trở lên gọi là Lão nhiêu. Bốn hạng người đó phải ghi tên vào hộ tịch. Những người từ 18 đến 55 tuổi phải đi lính. Nhưng không phải tất cả những người trong tuổi ấy đều phải đi lính. Những gia đình độc đinh thì được miễn. Trong gia đình đông con thì cứ ba tráng đin phải đi nhập ngũ một người. Những khi cần thiết lắm mới phải nhập ngũ hai người. Nhờ có ghi rõ tên tuổi trong hộ tịch nên tránh bớt sự bất công.
3. KINH TẾ TÀI CHÍNH
Ðúc tiền
Từ trước nhân dân Thuận Hóa cũng như Bắc Hà dùng tiền nhà Lê. Sau khi lên ngôi Hoàng Ðế, Vua Quang Trung cho đúc tiền mang danh hiệu Quang Trung thay thế cho tiền Cảnh Hưng, Chiêu Thống.
Dinh điền.
Nền kinh tế vẫn đặt trên cơ sở nông nghiệp.
Sau những cuộc chiến tranh kéo dài giữa Trịnh - Nguyễn, Tây Sơn - Trịnh, giữa Hoa - Việt, số dân giảm xuống rất nhiều. Do đó có một số ruộng đất bỏ hoang. Nhà vua đưa những người nghèo khổ ở những nơi đông đúc tới đó để cày cấy làm ăn. Chính quyền địa phương phải giúp đỡ mọi phương tiện.
Ðể có thể nắm vững tình hình, nhà vua buộc các Tổng lý phải làm sổ điền kê khai đầy đủ những ruộng đất canh tác và ruộng đất bỏ hoang. Những ruộng đất bỏ hoang trong thời gian một năm mà không được khai thác trở lại thì các nhà chức trách địa phương phải bị tội.
Nhờ vậy mà tránh được sự chênh lệch về mặt kinh tế cũng như về mặt mật độ dân cư từng địa phương.
Thuế khóa.
Dưới thời Trịnh Nguyễn, nhân dân phải nộp thứ thuế gọi là Tiền điệu tức là tiền nạp thuế cho việc sưu dịch. Vua Quang Trung bãi bỏ thứ thuế ấy. Những lúc trong nước hay địa phương cần dùng nhân công thì mọi người đều phải góp phần, giàu cũng như nghèo, trừ những bậc lão nhiêu, lão hạng, không ai được miễn. Những người nào không tự mình thi hành nhiệm vụ được thì bỏ tiền ra thuê người thay thế chớ không được đem nạp cho các nhà chức trách.
Thuế ruộng đất công tư đều phải xét lại rồi mới phân hạng theo mức sản xuất hàng năm, và chia làm ba hạng. Thuế nạp bằng lúa. Cũng có thể nạp bằng tiền tính theo thời giá. Ngoài số lúa là Thập vật tiền là tiền công trả cho người đứng thâu thuế, và Khoán khố tiền tức là tiền tồn kho. Mức thuế đã quy định rõ ràng. Thu lên bị tội tham nhũng.
4. VĂN HÓA
Việc học.
Việc học được tổ chức khắp mọi nơi, từ xã đến phủ huyện. Ban Giảng dụ ở xã giao cho những người học hạnh kiêm toàn ở địa phương hoặc mời ở các địa phương khác. Xã học do chính quyền địa phương tổ chức. Tư nhân vẫn có quyền rước thầy về dạy con em trong nhà trong làng, vô điều kiện. Học sinh ở các trường tư vẫn được coi như học sinh trường công. Các trường phủ trường huyện thì có Ðốc học, Huấn đạo điều khiển. Những vị thầy trung ương bổ nhiệm và lựa trong làng khoa bảng triều Lê, lương hướng và phẩm trật ngang với tri phủ, tri huyện.
Hằng năm vào mùa thu, mở khoa thi Tuấn Sĩ, chọn những phẩn tử ưu tú thăng vào Quốc học, hạng thứ vào Phủ học.
Học và thi đều dùng hai thứ là chữ Hán và chữ Nôm.
Chữ Nôm.
Chữ Hán là chữ Trung Hoa, nước ta dùng làm Quốc tự đã trên dưới 2.000 năm, tục gọi Chữ Ta. Chữ Nôm do chữ Hán biến chế ra (chữ của nước nhà).
Chữ Nôm có từ khi nào chưa được rõ. Ðời nhà Trần khoảng 1279-1293, các sĩ phu trong nước dùng chữ Nôm làm thơ Ðường luật, gọi là thơ Hàn luật. Chữ Nôm từ đó được thịnh hành. Nhưng chỉ trong dân gian dùng mà thôi. Các giấy tờ nơi cửa công đều dùng chữ Hán. Mãi đến đời nhà Hồ (1400-1407) mới được các cơ quan chính quyền dùng vào việc từ hàn. Nhà Hồ mất, chữ Nôm cũng mất địa vị theo. Vua Quang Trung phục hồi chân giá trị.
Có nhiều người có học không hiểu ý nghĩa sâu xa trong việc dùng chữ Nôm thay chữ Hán, đã buông nhiều lời bất tồn như Nôm na là cha mách khóe, Nôm na là cha bá láp. Lại có chuyện rằng:
Trong một khoa thi Tuấn Sĩ, đề thi ra Con cóc, một thí sinh có bài:
Da thời ghẻ chốc mọc tàm ngoam
Vóc lại u nu giống trái chàm
Nòng nọc đứt đuôi ra khỏi nước
Gặp nhằm tổ mối miệng chàm bàm.
Ban giám khảo đánh hỏng.Duyệt lại các quyển hỏng, thấy bài này, Vua Quang Trung khen là ý mới lời ta, lấy đậu ưu hạng và cho vào Quốc học. Lại quở ban giám khảo hữu nhãn vô châu, cấm không được đi chấm thi nữa.
Chưa có thể hoàn toàn dùng chữ Nôm thay chữ Hán cho nên trong việc học hành, việc thi cử và việc thư trác chốn công môn, chiếu biểu nơi triều đình, đều dùng cả hai thứ chữ, không có ý trọng khinh.
Nhà vua lập Sùng Chính viện, thỉnh La Sơn Phu Tử làm Viện trưởng.
Công việc chính của Viện là dịch những tác phẩm có giá trị về đạo đức và văn chương ra chữ Nôm để phổ biến trong toàn quốc.
Cộng tác cùng Phu Tử có nhiều nhà khoa bảng triều Lê như Nguyễn Công, Nguyễn Thiện, Phan Tố Ðịnh, Bùi Dương Lịch rất sành văn Nôm.
Vào đầu năm Quang Trung thứ năm (1792), Viện đã dịch xong bộ Tứ Thư và Tiểu Học. Nhà vua xuống chiếu sai dịch tiếp các bộ Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch... không rõ bộ này đã dịch xong chưa. Hiện chỉ tìm được bản Kinh Thi Giải Âm khắc mộc bản năm Quang Trung thứ 5[74].
Nhờ sự khuyến khích của Vua Quang Trung mà văn chương chữ Nôm thời Tây Sơn được thịnh vượng. Nhiều tác phẩm có giá trị ra đời như Hoa Tiên truyện, Mai Ðình Mộng ký, Chinh Phụ Ngâm diễn Nôm, Thơ Hồ Xuân Hương, Thơ La Xuân Kiều v.v... được truyền thế.
5. TÔN GIÁO
Vua Quang Trung muốn lấy đạo Nho làm quốc giáo, nên khuyến khích việc phát triển Nho học.
Ðối với đạo Phật nhà vua vẫn ngưỡng mộ, song rất ghét những người lợi dụng chùa để trốn xâu lậu thuế, để không làm mà có ăn. Nhận thấy làng nào cũng có chùa, mà phần nhiều thầy chùa ít học, không mấy người hiểu thấu đạo lý cao sâu của đức Thích Ca, chỉ mượn tiếng tu hành để ký sinh vào xã hội, nên nhà vua xuống chiếu bắt bỏ những chùa nhỏ ở các làng. Mỗi huyện hoặc mỗi phủ được cấp gỗ gạch để xây một ngôi chùa đồ sộ khang trang, rồi chọn những tăng ni có học thức, đạo đức đến trụ trì. Còn những nhà sư đội lốt tu hành, tục gọi là những Huề mầm đều bắt phải hoàn tục, lo bổn phận người dân[75].
Các đạo khác như Lão giáo, Ma Ní giáo... được tự do truyền bá.
Thiên Chúa giáo cũng không bị ngăn cấm[76]. Nói tóm lại dưới triều Tây Sơn, nhân dân được tự do tín ngưỡng.
6. CHỌN NHÂN TÀI
Vua Thái Ðức dùng phương Chiêu hiền để có người anh tài ra giúp nước. Những kẻ sĩ tự mình đến tham kiến hoặc người có uy danh đề cử, nếu xét quả có tài đức, đều được trọng dụng.
Vua Quang Trung theo các đời trước cho mở các khoa thi Võ và Văn ở tại kinh đô Phú Xuân, tương tự như những khoa thi Hội đời Lê.
Tất cả mọi người đều được ứng thí.
Ba năm mở một khoa. Khoa đầu tiên mở vào năm Quang Trung thứ nhì (1789).
Khoa thi văn, gọi là khoa Minh Kinh, có nhiều người ở miền Trong ra ứng thí. Trúng tuyển vào hạng ưu có:
- Phan Văn Biên ở Phú Yên đã giỏi về Kinh Sử, thông cả bách gia chư tử lại còn thạo âm nhạc, rành toán pháp. Ðậu xong được bổ ngay làm Huấn Ðạo.
- Ðinh Sĩ An người Bình Khê. Thơ văn thanh khoáng, Cùng Ngô Diên Hiệu, Phan Ðình Văn, Huỳnh Chiếu nổi danh về văn học. Ðời đời xưng tụng là Tây Sơn tứ tài tử. Ðậu xong được bổ làm việc ở Nội Các với hàm Hàn Lâm.
- Phạm Văn Tung, người Phù Mỹ, có tiếng hay chữ từ lúc nhỏ, lại có tài cưỡi ngựa bắn cung. Sơ bổ làm tư vụ ở Các, sau làm Hiệp trấn Phú Yên.
- Trần Trọng Vỹ, người Hoài Ân, thơ hay. Theo nhà Tây Sơn làm một chức quan nhỏ. Sau khi đỗ khoa Minh Kinh liền được bổ làm Thị lang bộ Lễ.
- Ðặng Sĩ Nguyên, người Quảng Nghĩa, tánh phương nghiêm chính trực, sơ bổ làm Biên tu.
- Ðặng Mộng Kỳ người Quảng Nam, tài kiêm văn võ. Tuy đậu khoa văn, nhưng lại thường lập được nhiều võ công, làm cho quân Nguyễn Phúc Ánh sợ gọi là Ðặng Gia Gia.
- Lý Xuân Tá người Quảng Nam, tánh nghiêm trực rất ghét dị đoan. Lúc làm quan thường cứu được nhiều người bị kết án oan uổng và thường phá hủy những đền miếu thờ những dâm thần ác quỷ. Làm quan đến chức An Phủ ở Phú Yên.
Ðó là những người ở trên phần đất của Vua Thái Ðức, nhưng vẫn thi đỗ làm quan cùng Vua Quang Trung mà không bị kỳ thị.
Còn người ở Thuận Hóa và Bắc Hà thi đậu cũng nhiều. Nổi tiếng nhất là Ðặng Cao Phong. Ðặng thi đậu liền được bổ vào Nội Các với chức Hàn Lâm Học sĩ, rồi thăng Trung Thư Thị lang. Những chuyện cơ mật trong triều ngoài quận đều được tham dự. Vua Quang Trung rất ái tín.
Khoa thi võ người miền trong ra thi cũng nhiều. Có hai người xuất sắc:
- Phạm Cần Chính, người Phù Cát, học chữ Hán rất giỏi, nhưng ghét thói văn chương phù phiếm, chỉ chuyên nghiên cứu binh pháp. Lúc nhỏ nhà nghèo, không tiền mua dầu thắp, nhặt củi làm đèn, đọc sách, tập văn đến gà gáy mới ngủ. Lớn lên học võ. Sức mạnh như Hạng Vương có thể kéo cung sắt nặng 300 cân, cắp hai nách hai tảng đá nặng hàng tạ nhảy qua rào cao quá với. Thiện dụng cây thiết sóc[77]. Người đời gọi là Phạm Thiết sóc. Ðược Vua Quang Trung cho đổi sang họ Nguyễn.
- Lê Sĩ Hoàng, người Quảng Nam. Võ nghệ siêu quần. Lúc nhỏ nghèo chăn trâu cho một phú nông trong ấp. Trâu bị cọp bắt, Hoàng sợ tội chạy vào núi trốn, gặp được dị nhân truyền võ nghệ. Lê có tài sử dụng đại đao.
Trong lúc thi, Vua Quang Trung sai Trần Quang Diệu ra tỉ thí. Tài sức ngang nhau. Nhà vua cao hứng đòi đấu thử. Lê Sĩ Hoàng cung kính tạ từ.
- Với Trần Tướng Quân, hạ thần còn không địch nổi huống chi với Bệ Hạ.
Vua Quang Trung đắc ý, vỗ vai nói:
- Ðây là Hứa Chử của ta.
Rồi cởi chiếc cẩm bào đương mặc ban cho Lê Sĩ Hoàng. Sĩ Hoàng cùng Quang Diệu được đời tôn xưng là Tây Sơn Song đao.
Hai người đều được triều đình trọng dụng và lập được nhiều chiến công, cùng với các võ sĩ phò tá Tây Sơn từ trước, được liệt vào hàng lương tướng.
7. DẸP PHIẾN LOẠN
Dư đảng của Vua Lê, ngoài Lê Duy Chỉ dựa vào lực lượng các thổ dân ở các miền núi ngoài biên giới để chống lại nhà Tây Sơn[78] và đã bị Trần Quang Diệu dẹp yên, còn các cuộc bạo loạn rải rác ở miền Bắc.
Thứ nhất là cuộc bạo loạn của Trần Quang Châu người huyện Gia Bình thuộc Bắc Ninh, đã từng giúp Lê Chiêu Thống trốn tránh.Lúc Tôn Sĩ Nghị kéo quân xâm lấn nước ta Châu theo hộ giá Chiêu Thống và được phong làm Tiên Phong Ðại Tướng. Quân Thanh thua, Vua Lê bỏ chạy. Châu chạy về huyện nhà, mộ binh đánh phá các vùng lân cận. Võ Văn Dũng được cử đi đánh dẹp. Nhờ địa thế hiểm trở binh của Châu cầm cự với quân Dũng từ thu Tân Hợi (1791) đến xuân Nhâm Tý (1792).
Châu bị bắt, dụ hàng không được nên Dũng đem giết đi. Thứ hai phải kể đến cuộc dấy loạn của Dương Ðình Tuấn người huyện Yên Thế (Bắc Giang), phò Lê Chiêu Thống trong lúc ẩn náu để chờ đợi viện binh. Khi Chiêu Thống chạy theo Tôn Sĩ Nghị, Tuấn ở lại tiếp tục hoạt động chống Tây Sơn, Ðặng Văn Long phụng mệnh đi tảo trừ. Tuấn đánh không lại, trốn vào rừng rồi biệt tích.
Ngoài ra còn có Phạm Ðình Ðạt người Vũ Giang (Bắc Ninh), cùng các em là Tạo sĩ Phạm Ðình Phan, Tiến sĩ Phạm Ðình Dữ và các con là Phạm Ðình Hân, Phạm Ðình Cù, Phạm Ðình Ninh, Phạm Ðình Duật quật khởi ở núi Huyền Ðinh tục gọi là núi Treo Ðanh. Thường hoạt động mạnh ở vùng Lạng Giang. Quân Tây Sơn do Ðặng Văn Long chỉ huy phải đánh dẹp mãi mới tiêu diệt được.
Những đám phiến loạn dẹp yên, trong nước dồn công sức vào công việc kiến thiết xã hội.
------------------------
[73] Theo cụ Bùi Văn Lang thì bà họ Phạm là người Duy Xuyên (Quảng Nam), cùng mẹ khác cha với Bùi Văn Nhật, Bùi Ðắc Tuyên; năm 30 tuổi được phong làm Hoàng Hậu và sanh hạ được ba trai hai gái, Quang Toản là trưởng nam. Cụ Bùi đã lầm, vì bà họ Phạm và bà họ Bùi còn miêu duệ ở Phú Phong, Xuân Hòa.
[74] Theo sách La Sơn Phu Tử của Hoàng Xuân Hãn.
[75] Có nhiều nhà sư hiện đại cho việc làm vua Quang Trung là chống lại Phật giáo và gọi Tây Sơn là Ngụy triều.
[76] Trong lá thư đề ngày 18-7-1793 của Linh mục Le Roy gởi cho Plandin, có câu Từ khi nhà Tây Sơn lên làm chủ. Tôn giáo được tiến bộ, đăng trong Nouvelles des missions etrangères cuea M. de la Bissachère năm 1902.
[77] Một loại giáo
[78] Xem mục Vua Quang Trung đối ngoại.