-- V --

     oàn người ngựa từ Pa Kha đi về ngã Nam Cồ.
Trọng Khang tự biết phận mình bây giờ là một kẻ làm công, gò ngựa cho đi chầm chậm, để ông Nam Long, Khánh Ngọc và Giáp đi lên trước. Chàng đi lẫn vào với bọn thư ký và cai, nhưng chàng chẳng nói năng gì. Nếu có ai hỏi chuyện thì chàng trả lời một cách để cho không hỏi nữa.
Chàng thấy lòng buồn rười rượi. Nhưng cái buồn ấy đối với con người ấy, không phải là thứ buồn gây ra bởi sự so sánh cái địa vị thấp kém ngày nay. Chàng buồn vì không thể gây cho em gái một ngày mai tốt đẹp theo ý muốn đã định.
Xác ngồi trên ngựa, mà hồn thì bay về Hà Nội, về gian nhà mà chàng đã sống với em gái những ngày cực kỳ hạnh phúc. Những kỷ niệm đã chìm trong thời gian đều nhô dần ra để gieo thêm đắng cay vào lòng. Chàng hồi tưởng mấy năm trước đây, lúc cha chàng mất đi, rồi mẹ chàng vì không chịu nổi đau buồn cũng thụ bệnh. Khi hấp hối, mẹ chàng nắm tay Tuyết Vi gửi gắm cho chàng. Chàng đã thề trước cái xác chết yêu quý sẽ hy sinh tất cả để gây hạnh phúc cho em gái. Ai ngờ đâu...!
Tuy vậy, chàng cũng không nản lòng về ngày mai. Chàng tin rằng với tài sức mình, nếu gặp cơ hội thì cơ đồ lại nổi như chơi. Nhưng cái cơ hội ấy biết bao giờ mới đến? Năm nay em gái chàng đã hai mươi tuổi rồi. Vài, bốn năm nữa, một người con gái đã kể là già.
Ý nghĩ ấy làm cho Trọng Khang nóng sốt cả người. Chàng cắn răng để khỏi thở dài, nắm chặt lấy đầu yên ngựa để trấn áp sự ngứa ngáy nó thúc chàng cho ngựa phi nước đại.
Với chàng, thì giàu, nghèo, không cần; miễn sao được sống một cuộc đời khoáng đạt, một cuộc đời tự do và hoạt động là đẹp đẽ rồi. Nhưng đối với em gái chàng thì, một khi nghèo, cái hạnh phúc sẽ chẳng bao giờ đến cả.
Bao nhiêu cảnh đẹp bên đường, chàng chẳng trông thấy gì hết, chỉ toàn thấy những cảnh quẫn bách theo nhau để phá tan cuộc đời tươi vui của em gái chàng.
Vụt, bốn năm phát súng nổ liền. Chàng ngửng đầu, ngơ ngác nhìn lên phía trước như người vừa tỉnh một cơn mê ghê gớm. Chàng nghe rõ ràng tiếng Khánh Ngọc gọi chàng. Chàng vội thúc gót vào sườn ngựa cho phi. Chỉ một loáng đã tới nơi. Những tiếng súng mà chàng ngờ rằng báo một tai nạn, chỉ là những tiếng súng của Khánh Ngọc và Giáp bắn bia chơi với nhau. Chàng cau mày, khó chịu. Khánh Ngọc tay còn cầm khẩu súng, cười bảo chàng:
- Sao ông cứ đi tụt lại sau thế? Ông không lên mà xem tôi với François ngồi trên ngựa bắn cái thân cây kia, mỗi người mấy phát đều trượt cả. Ông thử bắn đi cho tôi xem nào.
Trọng Khang nhìn cái thân cây, cách chỗ mình đứng độ hai mươi thước.
- Ở cái đất giặc cỏ này, thiếu gì cơ hội để thử súng, hà tất phải bắn bia cho nó phí đạn. Nay mai qua con Tiểu-bạch-hà, đến rặng núi Mai-lin-phố, sài cứu [1] kéo ra hàng đàn, chỉ sợ không có đủ đạn mà bắn để bảo vệ tính mạng thôi.
Khánh Ngọc cho ngựa lại gần Trọng Khang:
- Đến lúc ấy sẽ hay, bây giờ ông hẵng bắn thử một phát cho tôi xem, chỉ một phát thôi.
Trọng Khang còn ngần ngừ thì Giáp đã bảo chàng:
- Thôi thì ông chiều cô ấy, không để nói lôi thôi mãi, điếc tai lắm.
Ông Nam Long cũng quay đầu ngựa lại:
- Thì ông cứ bắn thử đi, để chúng tôi xem có thể tin ở sự bảo vệ của cây súng ông không nào?
- Chỉ sợ cụ không cho chúng tôi được cái vinh hạnh ấy. Chứ nếu cụ đã có lòng tin thì quyết không khi nào tôi để cho nhỡ nhàng. Đây, cô trông... như cái thân cây ấy to và gần quá, tôi bắn vào cái mốc ở trên ngọn kia kìa.
- Bé thế sợ không tin. Và xa quá.
Trọng Khang giơ súng. Pẹt. Cành cây gẫy rơi ngay xuống.
Khánh Ngọc vỗ tay:
- Khá quá! Nhưng ông không ngắm tí nào mà sao lại trúng?
- Tôi bắn quen, đã có đà tay. Nếu tôi ngắm lâu thì có lẽ không trúng nữa, vì súng nặng, tay run.
- Ừ, có lẽ, khẩu súng của ông nặng gấp mấy của tôi. Mai kia, ông nhớ dạy tôi với François bắn nhé. Hình như ở cái đất n&agradiv>Trọng Khang trỏ tay xuống mặt nước đang sủi bọt:
- Dưới này.
- Tại sao họ không cùng chết một chỗ?
- Nếu thế thì nó đã không bi đát. Người con gái ấy, tục truyền là con một ông tù trưởng vùng đây, tên gọi nàng Mười. Người ta nói nàng đẹp như chúa Ngàn, và tài thêu thùa của nàng thì nội vùng đây không có ai hơn. Nàng đã đính hôn với con một ông tù trưởng khác ở Xi-ma-kai tên là chàng Tư. Hai bên cùng trẻ đẹp, nên yêu nhau một cách tha thiết. Không một buổi chiều nào, chàng Tư không từ Xi-ma-kai cưỡi ngựa về dạo qanh thung lũng nàng ở, rồi thổi khen inh ỏi...
- Khen là cái gì?
- Một thứ kèn nghe nó cũng chẳng có gì là du dương. Nhưng một khi con người ta đã yêu nhau... Nàng Mười cứ cơm chiều xong, là ra ngồi dưới gió... để đón lấy những... nỗi lòng của người yêu nhờ ngọn gió đưa lại. Vì mấy năm mất mùa luôn, nên hai bên chưa kịp lấy nhau thì một hôm nàng Mười đi chợ gặp một tên tướng giặc ở miền Pha Long. Sắc đẹp của nàng làm cho tên tướng giặc say mê. Y cho người đến hỏi, cha mẹ nàng không bằng lòng. Biết để dây dưa thì sanh chuyện, hai nhà bàn nhau cho cưới ngay, chẳng lấy một chút sính lễ. Hôm cưới, đùng đùng giặc cỏ kéo về đầy ngàn san dã, vây kín chung quanh. Chàng Tư một ngựa, một dao xông ra đánh, nhưng vì ít không địch được nhiều, nên bị thương, rồi bị bắt. Bọn giặc xông vào trói gô tất cả hai họ lại. Tên tướng giặc hứa với nàng Mười nếu bằng lòng lấy y thì y tha chết cho cả hai họ và cả chàng Tư nữa. Nhưng đã yêu, khi nào nàng bằng lòng. Ấy thế là tên tướng giặc đem buộc chàng Tư vào một cái cần, cho khiêng tới đây. Y đóng cái cần ở bờ này, nhưng đóng một cách để cho chân chàng Tư vừa chấm đến mặt nước. Y bảo nàng Mười:
- Nếu em không bằng lòng lấy tôi thì tôi cho chặt cần.
Chàng Tư bị thương đã mệt rũ, cũng cố ngóc đầu lên nói với người yêu:
- Thà rằng anh chết, chứ em bằng lòng lấy nó thì anh cũng không sống được đâu. Sống thì phải có nhau mới sống được. Em đừng bằng lòng, thà anh chết!
Nghe người yêu khẩn khoản thế, nàng Mười đời nào bằng lòng:
- Mày giết chồng tao thì tao chết theo. Có thế thôi!
Gặng hỏi mấy lần, nàng đều một niềm trả lời như thế, tên tướng giặc hạ lệnh cho chặt gốc cần, nhưng chỉ chặt có một nhát, cái cần ẻo xuống, chàng Tư bị ngập nước nửa mình, rồi bị sức nước xoay tít đi như chong chóng. Nàng Mười thấy thế sợ hãi cuống cuồng, ú ớ nói không thành tiếng... Chàng Tư, lúc ấy, tuy bị vặn đau như dần, nhưng cũng biết nếu mình không chết ngay đi, thì thế nào người yêu cũng vì mình mà ưng thuật, nên tuy bị xoáy như chong chóng, chàng cứ nói nheo nhéo:
- Thà rằng anh chết! Thà rằng anh chết! Em đừng bằng lòng! Sống thì phải có nhau!
Cô thử tưởng tượng cái thảm kịch lúc ấy: một người thất vọng ở dưới xoáy nước kêu lên, một người khắc khoải ở trên bờ nhìn xuống. Chàng Tư vừa nói, vừa tập trung tất cả sức lực còn lại, dún mình lên cao một cái để cố làm cho gẫy cái cần. Mình chàng vừa qua khỏi mặt nước, lại ngã bõm ngay xuống. Lần này thì vì cái cần đã gẫy một nửa, lại bị sức nặng lôi đi, nên nó ngã ngay xuống. Ấy thế là chàng bị chìm nghỉm. Ấy thế là cả chàng cả cái cần bị nước cuốn bật gốc hút phăng đi. Mấy người đứng cạnh sà ra nắm lại, nhưng không kịp!
Khánh Ngọc nghe đến đấy liền òa khóc.
Trọng Khang mỉm cười:
- Cô không muốn nghe nốt chuyện nữa hay sao mà cô khóc?
Cái mỉm cười và câu hỏi ấy làm cho Khánh Ngọc tức giận:
- Không! Tôi không muốn nghe nữa!
Nàng nói xong, đứng phắt dậy, vùng vằng lại tháo cương ngựa, rồi nhảy tót lên, quất cho chạy bay lên phía đường cái. Trọng Khang lặng lẽ trèo lên ngựa, rồi cho đi thủng thẳng theo nàng.
Lên đến đường cái Khánh Ngọc ghìm ngựa lại, đứng đợi Trọng Khang cũng vẫn cứ cho ngựa đi từ từ. Khánh Ngọc hình như còn bực tức cho ngựa quay đi, nhưng được một quãng lại quay lại.
Khi hai người đã gần nhau, vẫn bằng cái mỉm cười ấy Trọng Khang bảo:
- Tôi không ngờ cô dễ xúc động và dễ giận đến như thế?
- Phải, đàn bà chúng tôi thế, chỉ có đàn ông các ông là ghê gớm.
- Chính thế. Đàn ông cần phải ghê gớm. Những người đàn ông nào không ghê gớm chỉ mới đàn ông có một nửa. Người đàn ông nào thật đàn ông thì phải biết dành những xúc cảm ẻo lả cho đàn bà. Ngay bây giờ, nếu cô không bằng lòng tôi thì tôi xin quay đầu ngựa về Pa-kha.
Khánh Ngọc lặng im.
- À, thế nghĩa là cô không bằng lòng tôi?
Khánh Ngọc vẫn lặng im. Trọng Khang quay đầu ngựa. Nhưng chàng mới đi được mươi bước thì Khánh Ngọc đã gọi giật lại:
- Thế ông bỏ tôi một mình ở đây à?
- Đoàn người ngựa cũng sắp đến nơi rồi.
- Ông thật là người vô lễ.
- Ai là người vô lễ trước? Người ta cần phải biết vô lễ với những người vô lễ với mình?
- Thôi... không... mà bây giờ... Ông làm là làm với ba tôi, chứ có phải đâu làm với tôi.
- Dù thế, nhưng một khi cô đã không bằng lòng tôi thì sự làm ăn nó cũng chẳng còn gì là thú nữa. Vả tính tôi không chịu được những cái gì...
- Ông chẳng phải chịu cái gì cả. Thôi, ông đừng nhắc tới nữa, lúc ấy, bộ thần kinh của tôi có rối loạn thật. Tôi xin lỗi ông.
Trọng Khang cúi đầu ngẫm nghĩ một lát:
- Thế bây giờ cô muốn xuống ngựa nghỉ ở đây đợi hay ta đi lại?
- Thôi ngồi nghỉ ở đây.
Trọng Khang buộc ngựa, rồi lại đỡ Khánh Ngọc xuống. Chàng dắt ngựa của nàng lại một bãi cỏ, rồi móc thuốc lá nhồi vào cái “píp”. Vừa hút, vừa đứng nhìn ra Sủi-ón-lửng.
Bỗng chàng nghe ở sau lưng có tiếng tách. Chàng quay lại thì đã thấy Khánh Ngọc tươi cười chạy đến.
- Tôi đã chụp đền ông một bức ảnh rồi. Lỗi tại tôi thật. Chốc nữa, ông đừng nói gì với ba tôi và anh François nhé, người ta cười tôi. Lúc đó, lòng tôi thương cảm quá. Thôi, ông bắt tay tôi đi và đừng nghĩ gì đến nữa.
Khánh Ngọc giơ tay. Trọng Khang nắm lấy.
- Ông khí khái mà tôi thì trẻ con.
Trọng Khang cười:
- Một người đã biết mình là trẻ con thì không còn là trẻ con nữa. Thôi, ta lên ngựa. Cụ và ông François đã đến kia rồi.