- 20 -

     à bắt đầu một cuộc sống ung dung, nhàn hạ, bà không phải từ tờ mờ sáng phải dậy để ra thiết triều. Bà không bận bịu, lo lắng công việc quốc gia, không phải thưởng, phạt. Bà ngủ trưa muốn dậy lúc nào tùy ý, suốt ngày nhàn hạ, không phải lo lắng một việc gì. Sau bao nhiêu năm vất vả, buổi sáng, mờ mắt ngủ dậy đã phải lo toan việc nước, bây giờ bà chỉ nghĩ đến những cành mẫu đơn ngoài vườn. Trong một chiếc sân lớn nhất trong cung, bà cho đắp một giả sơn, trồng toàn mẫu đơn. Những cây mẫu đơn trồng trên giả sơn đã đâm chồi, nảy lộc, người ta đã thấy những nụ hoa màu hồng, màu đỏ hay màu trắng.
Mỗi sáng, có đến trăm đóa hoa mới nở, nhởn nhơ trước gió, chờ bà đến để thưởng ngoạn. Những ngày trước bà phải vội vàng liếc mắt nhìn qua một chút để còn đến đại diện thiết triều cho kịp.
Nhưng bây giờ bà dậy trễ hơn mọi khi, thay quần áo ngủ, bà ngủ mặc chiếc quần bó ở mắt cá chân, một chiếc áo lụa, ống tay rộng, khi tắm xong mặc chiếc quần khác, một chiếc áo dài lụa hồng, ngoài một chiếc áo lụa viền lam, ngắn đến mắt cá chân. Ngày hôm đó, bà muốn ở ngoài vườn suốt ngày với hoa, lá, chim muông, nên ăn mặc cho gọn gàng. Trong khi bà tắm, một viên thái giám già chải đầu, đội mũ, bà để ý các thể nữ dọn dẹp giường, gập chăn, quấn màn. Bà không cho phép bọn a hoàn, cả những thái giám hay các bà thể nữ già mó tay vào chăn màn của bà, vì bà cho bọn này không được sạch sẽ, người hôi hám. Bà để phần việc dọn giường cho các những thiếu nữ trẻ, mạnh khỏe, bà tự trông nom, săn sóc, chỉ bảo. Bà bắt đem ra sân giũ cho sạch, phơi nắng suốt ngày ba tấm nệm, chăn, màn, gối. Tấm ra phủ trên lát giường cũng được nhắc lên để lau chùi sạch sẽ tất cả những khe góc của chiếc giường đồ sộ và chiếc tán trên giường có rủ rèm xung quanh bằng vóc. Buổi chiều, lại đem ba chiếc nệm phơi ngoài sân đem trải trên giường, phủ lên trên tấm gấm vàng và những tấm mền lụa mềm nhũn, sáu chiếc mền lụa, sáu màu khác nhau: Màu hoa cà, xanh, hồng, xám, ngà, trắng. Tấm phủ giường bằng vóc vàng thêu rồng kim tuyến, những đám mây xanh. Trong những khe, nếp của chiếc rèm ở giường, người ta có khâu những túi nhỏ, đựng hoa phơi khô và sạ hương. Khi những thứ đó hết mùi thơm, người ta thay những túi mới.
Khi người thái giám chải đầu xong, chia mớ tóc làm hai, tết lại, quấn tròn trên đỉnh đầu, đặt chiếc mũ miện Mãn Châu lên đầu, gài chiếc mũ bằng hai chiếc thoa dài, cắm ở búi tóc. Bà thái hậu tự chọn lấy thứ hoa gài đầu. Ngày hôm đó bà gài đầu bằng mấy bông hoa lan nhỏ, mùi thơm nhẹ nhàng. Chải đầu, đội mũ xong, bà rửa mặt bằng xà phòng thơm, cọ rửa bằng nước thật nóng, rồi xoa lên da thứ kem làm bằng mật ong, sữa lừa và vỏ cam. Sau cùng bà đối mặt bằng một thứ phấn màu hồng nhạt, phấn rất mịn và thơm. Son phấn xong, bà chọn những đồ nữ trang. Bà cho đem lại bản kê khai các món nữ trang, chỉ cho biết số mục của chiếc hộp đựng nữ trang. Một thể nữ chuyên coi về các đồ nữ trang đi lấy chiếc hộp ở gian phòng bên. Xung quanh tường ở phòng đó, có những ngăn tủ có để những chiếc hộp bằng đồi mồi, đánh số thứ tự. Tủ có khóa, chiếc chìa khóa bằng vàng. Có bản kê khai từng món đồ. Có đến hàng ngàn hộp, nhưng toàn những đồ trang sức thường. Trong một gian phòng khác, có then khóa chắc chắn, ở trong đó có để những món trang sức rất quý giá, bà chỉ đem ra dùng trong những ngày lễ lớn. Hôm đó, bà mặc áo màu lam, bà đeo lam ngọc, hạt trai ở cổ hai bên tai, nhẫn, vòng tay.
Trang điểm xong, bà kiểm điểm lần nữa khuôn mặt bằng chiếc khăn tay lụa. Bà đính ở áo một dải lụa trắng Ấn Độ có in hoa màu vàng và màu lam. Sau đó, bà ra ngồi ở bàn ăn điểm tâm. Mỗi một món ăn đặt trên một chiếc đèn nhỏ để hâm cho nóng. Những món ăn bày trên bàn khoảng hai mươi món, bà lựa chọn tùy theo ý thích, mỗi món ăn chút ít, rồi ăn bát cháo kê nóng. Các thể nữ đứng ở xa, tiến lại bàn ăn, không dám nhúng đũa vào những món bà đã lựa chọn.
Hôm ấy bà rất vui vẻ, không rầy la, mắng mỏ, chờ các thể nữ ăn xong, còn thừa bà đem cho đàn chó. Khi bà bực tức, cáu giận, bà cho đàn chó ăn trước các thể nữ, bà nói chỉ có giống vật là có nghĩa hơn con người.
Ăn xong điểm tâm, bà ra vườn đến chổ núi giả trồng mẫu đơn. Mùa này các loài chim trở về, bà thích nghe tiếng chim kêu ríu rít. Khi thấy một con chim hót, bà cong môi bắt chước tiếng hót của nó, bà bắt chước rất khéo con chim liền bay đến đậu trên bàn tay bà. Bà bắt các thể nữ đứng ra xa, bà đứng yên giơ một cánh tay, bà lại bắt chước tiếng chim mai hoa, gọi một con chim mai hoa đang đậu trên cành trúc, bay đến đậu trên ngón tay bà. Nét mặt bà lúc đó rất hiền từ, nom rất khả ái, các thể nữ cũng phải thấy lạ, nét mặt đó có lúc trở nên rất cay nghiệt độc ác. Con chim bay đi, bà gọi các thể nữ lại bảo:
- Lòng nhân từ, thân ái cũng có thể cảm hóa được các loài cầm thú. Các ngươi nên nhớ bài học đó.
Các thể nữ rất đỗi ngạc nhiên về tính nết thất thường của bà, hôm nay rất đỗi dịu dàng, độ lượng, thế mà nhiều lúc bà tỏ ra rất cay nghiệt, để tâm oán thù những việc không đâu.
Trời quang đãng, mát mẻ, càng khiến bà thái hậu thêm vui vẻ, nụ cười luôn luôn nở trên môi. Đột nhiên bà muốn cho diễn một vở tuồng do bà đã soạn thảo. Bây giờ, con bà đã đảm nhiệm tất cả mọi việc triều chính, nên bà rất nhàn hạ, có nhiều thời gian chăm lo về hội họa, tập viết chữ cho thật đẹp, soạn các vở tuồng. Một người đàn bà tự cao, tự đại, có nhiều tài năng, nếu chuyên hẳn về một nghệ thuật nào đấy ắt có thể tinh thông, xuất chúng, nhưng nghệ thuật nào bà cũng mê thích và môn nào bà cũng giỏi. Bà như quên cuộc đời dĩ vãng vừa qua, lúc nào cũng bận bịu công việc trong nước. Từ ngày con bà chính thức lên cầm quyền, tuy bà không phải lo toan công việc ở từ đường, song nhờ đó công việc của bọn thái giám, thám tử, không việc gì mà bà không biết.
Bà đi chơi tha thẩn một giờ trong vườn, ăn xong bữa cơm trưa, bà vui vẻ bảo các thể nữ:
- Hôm nay trời đẹp nắng ấm, có gió hây hẩy mát mẻ các người có muốn coi một vở tuồng về "Đức Quan Thế Âm" không?
Mọi người vỗ tay hoan nghênh duy có viên tổng quản thái giám Lý Liên Anh nói với bà:
- Tâu thái hậu, hạ thần xin thái hậu lưu ý, các kép chưa được học bổn, chưa được tập dượt. Vỡ hát này rất khó diễn, rất tế nhị, những kép hát thủ vai nào phải biết võ vai đó, nếu không mất hết ý nhị của vở hát.
Bà càu mày, nói:
- Những kép hát có rất nhiều htời giờ coi lại bổn. Mi ra bảo họ ta chờ kéo màn trước giờ vận hành mới của "Lậu thủy" (Clepsydre). Trong khi chờ đợi ta tụng một biến Kinh phật tụng.
Dáng điệu uyển chuyển, thước tha, bà tiến về một ngôi chùa nhỏ, ở trong có bức tượng thạch Phật bằng bạch ngọc, ngồi trên một chiếc lá sen bằng bích ngọc, tay phải cầm một bông hoa bằng hồng ngọc. Ở bên tay mặt bức tượng có đức Quan Âm, bên trái có bức tượng Thọ Tinh. Bà thái hậu đứng ngay ngắn trước bàn thờ, không chịu quỳ, bà sẽ cuối đầu tụng kinh, lần tràng.
Ba lần mỗi hạt ở chuỗi tràng thì lẩm bẩm khẻ nói: Nam mô A di đà Phật. Khi bà lần đủ 108 hạt, bà đặt lên bàn thờ chuỗi tràng bằng gỗ trầm hương. Dù bận công việc gì, không bao giờ bà quên hằng ngày tụng kinh, lần tràng. Đức Phật một đức tối kính ngự trị trên trời cao và nhất là đức Phật Quan Âm mà bà sùng kính nhất. Trong đáy lòng bà, bà tưởng tượng đức Quan Âm là chị em với bà. Đức Qua Âm ngự trị trên thiên giới, bà ngự trị ở hạ giới. Có nhiều đêm khuya, bà như nói với đức Quan Âm:
"Chị ơi, chị xem em có nhiều điều lo lắng, phiền não. Ở trên thiên đình có bọn thái giám không, hở chị? Em tin là không vì em xem không có một tên nào đáng ở trên đó. Nhưng nếu không có thái giám, lấy ai hầu hạ chị và các thiên thần. Em chắc không có một người đàng ông nào tinh khiết được ở gần chị..."
Bây giờ bà có thời giờ nhớ lại những kỷ niệm xa xưa, Đã có một lần, bà đặt câu hỏi này với đức Phật Quan Âm:
"Có thể nào có một người tình thủy chung ở thiên giới chịu hạ phàm xuống đây không, hở chị? "
Bà dám nói tên người yêu của bà. "Chị ở thiên giới, có lẽ chị biết người anh họ của em là Nhung Lữ và chị cũng biết đáng lẽ em phải lấy người đó. Chị hãy cho em biết kiếp sau, chúng em có lấy được nhau không? Hay địa vị của em còn cao hơn nữa. Nếu chị cho em lên trời, đứng ở tay mặt chị, chị cho em đứng cao hơn một chút để bằng chị, như nữ vương Anh quốc, Victoria".
Đó, những lời bà tâm sự với vị nữ thần, nhìn khuôn mặt hiền từ, sáng ngớt của bức tượng, bà tự hỏi không hiểu thần linh có biết những gì bà giấu trong đáy lòng khong thể nói ra không?
Khi bà ở trong ngôi chùa bước ra, các thể nữ đi theo bà vào một chiếc sân khác. Ở đó có hai khóm cây đằng cổ thụ, hoa đỏ thẫm. Trong vườn, những chùm hoa tỏa ra mùi hương thơm ngào ngạt nơi con đường trước cung. Ngày nào bà cũng ra vường thưởng hoa. Bà đi qua chiếc sân đá, các thể nữ theo sau, qua một con đường hẹp đến một khuôn cửa uốn tò vò, bà bước vào trong rạp hát.
Rạp hát này không giống một rạp hát nào trong nước mà bà nghĩ cả gầm trời này không tìm đâu ra một rạp hát như thế. Một ngôi nhà gạch đồ sộ tám tầng, hình cánh cung, phía trước là một chiếc sân lớn. Ba tầng lầu trên để mũ mãng, xiêm y, đồ đạc, phong cảnh, hai tầng dưới đất là hai sân khấu chồng lên nhau. Sân khấu dành cho những vỡ hát có tính cách tôn giáo. Bà thái hậu để ý chăm nom nhất sân khấu trên, vì diễn những vỡ tuồng có các nhân vật ở thượng giới. Một ngôi nhà đối diện ở ngoài có những phòng nghỉ. Ngồi ở đó trông ra sân khấu, có một khung kính hình bán cung. Bà thái hậu có thể coi hát bất luận trời mưa, gió. Mùa hè người ta tháo những tấm kính, thay vào những rem bằng thứ the mỏng, có thể nhìn xuyên qua, tấm the còn có tác dụng để chắn ruồi, muỗi. Bà thái hậu rất ghét giống côn trùng, nếu một bát thức ăn có con ruồi đậu vào, bà cũng không muốn cho chó ăn. Trong căn nhà đó, có ba phòng cho bà tiện dùng, một phòng xếp đặt thành một thư viện nhỏ, nếu vở tuồng diễn không hợp ý bà, bà đến đó đọc sách, hai phòng nghỉ nếu bà buồn ngủ có thể đến ngủ ngay ở đó.
Ngày hôm ấy, bà đến nhà nghỉ, ngự trên chiếc ngai có trải đệm, các thể nữ đứng hầu xung quanh. Bà muốn coi vỡ tuồng chính bà soạn ra, xem vỡ đó diễn ra làm sao? Các kép hát than phiền vỡ tuồng đó khó diễn quá, dù sao cũng phải tuân lệnh bà, họ cố gắng đem hết tài nghệ, nên đã thành công mỹ mãn. Bọn kép đã làm được một chiếc bông sen thật lớn đặt ở giữa sân khấu, trong bông sen hiện lên đứt Quan Âm bằng xương, bằng thịt, hai bên có Ngọc Nữ, Kim Đồng đứng hầu. Những kép đóng vai đó điều được lựa chọn kỹ càng cả thanh lẫn sắc. Theo truyền thuyết, đức Quan Âm vạn phép muôn linh, ngài lấy cành liễu nhỏ nhúng trong lọ nước cam lồ, vẩy trên người đã chết, nhờ phép nhiệm màu, người chết sẽ hồi sinh lại. Bà thái hậu rất để ý về vấn đề ma thuật, bà muốn tìm tòi học hỏi nhiều về thần bí. Bà ưa thích những chuyện về ma thuật của Ấn Độ, do những tăng lữ phật giáo du nhập vào nội địa Trung Hoa, từ hơn một ngàn năm nay. Nếu tinh thông về yêu thuật, về phù thủy, bùa phép, những người ra trận mạc không những không sợ những mũi tên, hòn đạn mà dù gươm giáo có chạm đến người cũng không sao. Tuy bà nghi hoặc, không tin yêu thuật, song bà thường nghĩ đến dùng bùa phép yêu thuật để cầu trường sinh bất lão.
Vì thế, bà soạn những vỡ tuồng để trình diễn, những vỡ hát đó, phản ánh tâm tư của bà, những niềm hy vọng, tin tưởng vào thần quyền, thần lực, trí óc tưởng tượng những nhân vật, phong cảnh đến chỗ siêu phàm, thoát tục. Những vỡ hát như thế đòi hỏi ở các đào, kép một sự nổ lực phi thường. Chính bà xếp đặt những họat cảnh, khán giả tưởng tượng như đã chứng kiến cảnh bồng lai, tiên giới.
Cuộc trình diễn đã mãn, bà vỗ tay, khen ngợi tài nghệ các đào kép, bà tự hào về nghệ thuật, một trước tác của mình. Bà thấy đói, ra hiệu bảo thái giám dọn bàn ăn; về vấn đề ăn uống, bà có thói quen, dùng cơm bất cứ nơi nào. Bà nói chuyện với các thể nữ, hỏi han về vỡ kịch, khuyến khích mọi người có quyền phê phán vì bà muốn đạt tới chỗ toàn mỹ. Khi bà đã dọn xong, các thái giám xếp hàng dài, chuyền tay nhau, chuyển các món ăn từ trong bếp lên. Các thể nữ đứng ra xa, sang một bên. Bà ngồi vào bàn ăn, bà rất vui vẻ, bà nghĩ thấy thương hại các thể nữchắc đói lắm, mong đợi bữa ăn. Bà ăn xong sang bên thư viện để dùng trà. Hai thái giám đi theo sau, một người bưng một cái chén bằng ngọc, nắp vàng, đặt trên một chiếc đĩa bằng vàng khối, người nữa bưng chiếc khay bạc với một đôi đũa bằng ngà voi cẩn vàng, hai chiếc chén bằng vàng, đựng những cánh hoa hồng và kim ngân hoa phơi khô. Bà thái hậu ưa trộn những cánh hoa đó vào trong trà. Chỉ có bà mới biết trộn hai thứ đó vào trong trà bao nhiêu vào trà thì vừa.
Trong khi bà đang ngồi ung dung thưởng thức trà, bà đã leo lên tột đỉnh giàu sang, phú quý, như vầng trăng tròn trong sáng, bị một đám mây đen từ từ khéo đến che phủ. Tên tổng quản thái giám Lý Liên Anh diên trình, khấu đầu lom khom quỳ trước mặt. Bà hỏi:
- Sao mi đến quấy rầy ta?
Tên thái giám ngửng đầu, tâu:
- Muôn tâu thái hậu, hạ thần xin được mật trình.
Bà đặt chén trà xuống đĩa, ra hiệu bảo những thái giám đứng hầu lui hết ra ngoài. Bà truyền:
- Đứng lên, ngồi xuống đôn. Hoàng thượng làm gì?
Tên tổng quản thái giám vâng lệnh ra ngồi ở chiếc đôn,quay chiếc mặt nhăn nhúm, xấu xí về bà.
- Muôn tâu thái hậu, hạ thần vừa trộm được văn thư ở phòng lưu trữ. Trong một giờ nữa hạ thần phải để vào chỗ cũ.
Nói xong, tên thái giám đứng dậy, kéo trong túi áo ra một chiếc phong bì dài, quỳ xuống, hai tay dâng lên bà thái hậu. Bà mở ra đọc, mới nom nét chữ bà đã nhận ra nét chữ của tên ngự sử Vũ Công Tú. Bà đã khướt từ không cho dâng lên ngai rồng một tờ sớ xin cho ngoại nhân đột nhập cấm thành. Lần này tờ sớ gởi riêng lên hoàng thượng.
"...Với tư cách một nghĩa bộc của ngai rồng, hạ thần kính dâng lên thánh thượng tờ mật tấu này để chấm dứt sự bất hòa với liệt cường Tây phương. Hạ thần kính cẩn xin cho đại diện các nước ngoại bang được vào triều kiến. Như thế ngai rồng đã tỏ ra khoan dung và độ lượng, một đại nhân quân tử. Từ trước đến nay theo tập quán cổ truyền nước ta khước từ ngoại nhân được vào triều kiến, gây mối bất hòa giữa nước ta và các ngoại bang..."
Bà thái hậu đọc qua mấy dòng chữ, đùng đùng nổi giận. Họ dám cả gan làm trái ý ta? Họ định lấy con ta làm tấm bình phong để chống đối ta. Nếu họ tỏ ra không kính sợ ngai rồng, một ngôi chí tôn, phỏng còn gì là thanh danh, uy lực?
Bà liếc mắt nhìn mấy dòng chữ sau có trích dẫn một lời nói của một vị hiền triết xưa:
Mạnh Tử viết: Quân tử bất chấp lễ nghi tiểu nhân cầm, thú chi loại dã.
(Nghĩa: Người quân tử không nên chấp lễ nghi với hạng tiểu nhân, coi như loài cầm, loài thú).
Bà tức quá, hét lên:
- Tên ngự sử này dám lấy lời trong sách ra để dẫn chứng, đề nghị yêu sách của hắn. Bà đọc xong muốn xé tờ sớ ra làm muôn mảnh. Song lẹ, bà là người rất khôn ngoan, biết kìm hãm ngay lại ngay sự tức giận nhất thời. Tên Vũ Công Tú này là người khôn ngoan thận trọng, có nghĩa khí, lại la một người chí hiếu. Khi triều đình lánh sang Nhiệt Hà, khi kinh thành thất thủ, Vũ Công Tú không quản gian nan, nguy hiểm ở lại săn sóc mẹ già lúc đó đang bệnh nặng, gần đất xa trời. Ông ở lại để lo ma chay, tống táng cho mẹ.
Bà thái hậu rất cảm kích lòng trung hiếu của ông, nên bà nguôi ngay cơn giận. Bà đưa tờ sớ cho tên thái giám, cho đem đi ra.
- Mi lấy bản văn ở chỗ nào, lại để nguyên vào chỗ đó.
Sự vui vẻ của bà thế là tan biến hết. Tuồng hát cũng không làm bà vui trở lại. Bọn kép hát diễn trò, bà ngồi buồn thiu suy nghĩ, không buồn coi, không buồn nghe hát. Đến màn cuối cùng, có một hoạt cảnh rất huy hoàng, lộng lẫy, các thiên thần đến chầu đức Phật Quan Âm, ở dưới chân có độ hai mươi con khỉ sống, tượng trưng cho lũ quỹ đã bị phép nhiệm màu thiên giới chế ngự.
Màn kéo xuống, bà thái hậu đứng dậy, không một lời bình phẩm; các thể nữ còn mãi nghĩ đến màn hoạt cảnh, mãi sau mới nhận thấy bà thái hậu đã đi, bọn này hỗn độn, tất cả chạy theo cho kịp bà. Bà lấy tay xua, bảo bọn này đứng ra xa, bà trở về cung một mình, rồi cho gọi tên tổng quản thái giam Lý Liên Anh đến.
Tên thái giám vội vàng chạy đến, thấy bà ở thư viện. Tên thái giám đến thư viện, đứng yên, mặt xanh nhợt, đầu cúi gầm, hai mắt nhìn xuống. Giọng the thé, bà truyền:
- Truyền lệnh cho con ta phải đến gấp, diện trình trước ta.
Tên thái giám cúi đầu chào đi ra. Bà thái hậu ngồi yên chờ hồi lâu không thấy tên thái giám trở lại. Chờ đến một giờ vẫn không thấy tên thái giám mà cũng không có một chữ nào của hoàng thượng gởi đến. Mặt trời đã xế bóng, trong thư viện đã nhá nhem tối, các quân hầu rón rén đi vào thấp những ngọn đèn lớn. Bà thái hậu nóng ruột hỏi:
- Tên tổng quản thái giám đâu?
Một tên thái giám quỳ xuống tâu:
- Tâu thái hậu, viên tổng quản thái giám hiện ở trên Long điện ở phòng chờ.
- Làm sao hắn không vào?
- Tâu thái hậu, y sợ.
- Đi kêu hắn về gấp.
Lý Liên Anh ở ngoài sân tối đen, lướt như một cái bóng đen vào trong cung. Hắn quỳ xuống, bà thái hậu nhìn thân hình hắn đang quỳ mọp dưới chân. Bà nói giọng lạnh lùng nhưng đều đặn, rõ ràng:
- Con ta đâu?
- Tâu thái hậu con không dám.
- Mi không dám đem câu trả lời của hắn cho ta sao?
- Tâu thái hậu, hình như long thể khiếm an.
Hắn nói hai bàn tay úp lên mặt, giong nghẹn ngào.
- Hắn đau thật ư?
- Tâu thái hậụ.. Thái hậụ..
- Ta biết rồi, chỉ là một cớ thoái thác.
Bà đứng dậy, dáng điệu thản nhiên, rất yêu kiều.
- Nếu hắn không muốn đến với ta, ta đến với hắn.
Bà rảo bước đi rất nhanh, tên thái giám phải vội vàng chạy theo cho kịp. Bà không để ý tên thái giám theo sau. Các thái giám, a hoàn ở các gian điện, hành lang phải sửng sốt, lạ lùng thấy dáng điệu bà hấp tấp, vội vàng. Họ không hiểu chuyện gì, sợ quá, đưa mắt nhìn nhau. Lý Liên Anh chạy theo sau, không dám ngừng lại một nơi nào để nói cho bọn này biết chuyện gì đã xảy ra. Hắn mải miết đi theo thật nhanh cho kịp hình bóng uy nghiêm như muốn tung bay trong chiếc áo màu lam thêu kim tuyến.
Bà đi thẳng đến cung vua. Bà bước lên những bậc thềm đá hoa, đi ngang qua những bệ cao. Cửa cung đóng kín bà nhìn qua tấm rèm bằng vải mỏng, trong suốt. Con bà ngồi trong một chiếc ghế bành lớn có trải đệm, Ái Lan đứng cúi sát mặt con bà, đưa vào mồm những trái anh đào, những trái đầu mùa ở miền Nam vừa gởi lên tiến. Ông vua này thích ăn những trái anh đào. Đầu ông hất về phía sau ghế, đớp những trái anh đào, cười sặc sụa.Bà mẹ ít khi thấy con vui thích, cười như thế. Bọn thái giám và thể nữ của hoàng hậu thấy vua cười cũng cười theo, như một đám con nít.
Bà thái hậu, thình lình đẩy mạnh cửa bước vào, đứng ở thềm cửa, long lanh sáng quắc như một vị nữ thần hiện lên trên nền trời tối. Ánh sáng của hàng ngàn ngọn nến tỏ ra làm lung linh chiếc áo thiêu kim tuyến và chiếc mũ miện gắn toàn ngọc. Sự phẫn nộ hiện lên trên nét mặt bà. Hai mắt bà quan sát cảnh tượng. Bà nhìn con bà và Ái Lan, bà nói, giọng vô cùng dịu dàng song vô cùng hung dữ:
- Con, mẹ nghe nói con đau, mẹ đến tận nơi xem con đau đớn làm sao?
Ông vua vội vàng nhảy xuống ghế, quỳ dưới chân bà. Ái Lan vẫn đứng yên như một pho tượng, tay vẫn cầm chùm anh đào.
Hai mắt và vẫn chú mục vào con, bà nói tiếp:
- Ta xem con đau nhiều thật, để ta cho gọi ngự y đến chẩn mạch, săn sóc cho con.
Ông vua líu lưỡi không nói được, không đau cũng hóa ra đau, đau vì kinh hoàng. Bà quay mặt về hoàng hậu nói giọng rất đanh thép, sang sảng như những nhát dao chém:
- Còn mi, ta xem ý mi không để ý trông nom sức khỏe cho phu quân mi. Trong khi có bệnh, không được khỏe, phải kiêng ăn trái cây. Mi sẽ bị phạt về tính cẩu thả.
Ông vua ngậm niệng, nuốt nước miếng, lắp bắp thưa:
- Thưa mẹ, xin mẹ soi xét không phải lỗi Ái Lan. Hôm nay thiết triều suốt cả ngày, con bị mệt mỏi quá.
Hai mắt bà như nảy lửa, nhìn thẳng vào con một cách kinh khủng, bà tiến lên ba bước, thét lên:
- Quỳ xuống! Mi tưởng nay mi làm vua thì không còn là con ta nữa hả?
Ái Lan vẫn đứng yên không nhúc nhích, nàng đứng thẳng thắng, hiên ngang, tỏ ra không một vẻ gì sợ hãi. Nàng buông nắm anh đào cầm ở tay, đến nắm tay ông vua. Nàng nói khẽ:
- Không! Không phải quỳ.
Bà thái hậu tiến thêm lên hai bước, giơ cánh tay phải, một ngón tay chỉ xuống đất.
- Quỳ.
Ông vua ngập ngừng, do dự một lúc rồi dằn tay Ái Lan quỳ xuống, khẽ bảo nàng:
- Bổn phận của anh.
Bà thái hậu đứng yên nhìn con quỳ dưới chân. Gian phòng phẳng lặng, không khí vô cùng nặng nề, ghê rợn. Thủng thẳng bà buông thẳng tay bên người.
- Mi còn biết bổn phận với các bậc trưởng thượng. Trước mặt mẹ, dù con có làm vua chăng nữa, cũng chỉ là một đứa con.
Bà ngửng đầu nhìn quanh khắp gian phòng. Bà thét to:
- Mọi người ra ngoài hết. Để ta một mình nói chuyện với con ta.
Tất cả mọi người được lệnh lẩn hết ra ngoài, duy còn Ái Lan đứng lại.
Bà thái hậu chỉ vào mặt Ái Lan, nói:
- Cả mi nữa, ra hết bên ngoài.
Ái Lan, nét mặt ủ rũ, lúc đầu còn do dự sau lặng lẽ ra ngoài, đôi giày bằng vóc đi êm như ru đi không một tiếng động.
Còn một mình bà thái hậu ở lại, bà thay đổi một cách đột ngột, bất ngờ thái độ. Một phút trước, bà hung dữ bao nhiêu, thì một lúc sau, bà vui vẻ, niềm nở bấy nhiêu. Bà tủm tỉm cười, bàn tay xoa nước bông thom phức của bà xoa vào má con. Bà âu yếm bảo con:
- Đứng dậy con, ngồi xuống đây, mẹ con ta sẽ thảo luận.
Bà ngồi trên chiếc ghế bành, con ngồi trên chiếc ghế của Ái Lan. Ấu đế chưa hoàn hồn, người còn rung bắn, bà thấy hai môi con rung rung, hai bàn tay lẩy bẩy. Giọng vuốt ve, bình tĩnh, bà nói:
- Ở trong cấm cung, nội tẩm cũng phải có trật tự, lễ nghi. Trước mặt bọn thái giám và hoàng thượng, ta phải nêu rõ vấn đề tôn ti, trên dưới. Con này dù có là hoàng hậu cũng chỉ là vợ con ta.
Ấu đế ngồi im không nói gì, thè lưỡi liếm đôi môi khô bỏng. Bà nói tiếp:
- Mẹ nghe nói, con có ý định vượt quyền mẹ. Phải chăng, con có ý định tiếp các sứ thần ngoại quốc?
Ấu đế cố lấy lại vẻ tự tôn, tự đại cố hữu.
- Người ta khuyên con nên làm, nhất là ông chú con thân vương Cung.
Thế ý con có định làm không?
Không ai có thể biết hơn ấu chúa, giọng nói của bà tuy ngọt sớt nhưng vô cùng hiểm độc. Ấu đế xác nhận:
- Con sẽ làm.
- Với tư cách là mẹ mi, ta cấm.
Tuy bà giận lắm song quên ngay, nhìn nét mặt tuấn tú của con, cái mồm xinh xắn dễ thương, hai mắt to sáng quắc, tuy tính ương ngạnh bướng bỉnh, song bà đoán, ngày xưa khi con còn nhỏ, trong lòng sợ bà lắm. Bà nghĩ thấy lòng buồn. Bà muốn con bà phải có chí khí, quả cảm, đừng có tính sợ sệt vì sợ là yếu hèn. Nếu con bà sợ bà rất có thể sợ Ái Lan, rồi một ngày kia bị vợ cầm đầu. Ngày trước hắn thích đến bà Đông cung để được an ủi, nuông chiều. Bây giờ vì sợ mẹ, hắn cũng tìm nguồn an ủi ở Ái Lan, tuy lòng bà thường con vô bờ bến còn hơn cả Ái Lan. Bà đã tận tâm hy sinh cả một đời bà để tạo dựng cơ nghiệp cho con.
Trước con mắt nhìn soi mói của bà, ấu đế đưa mắt nhìn xuống. Tuy là đàng ông, nhưng lại có hàng lông mi dài và đen như đàn bà, phải chăng hình tướng đó đã thụ hưởng được của mẹ. Nếu người mẹ có thể truyền lại cho con được hình tướng, sao lai không truyền lai cho con được sự dũng cảm?
Bà thở dài, cắn môi, có ý muốn nhượng bộ.
- Việc người ngoại quốc chịu quỳ hay không trước ngay rồng, cái đó mẹ không cần lắm, bằng con, lúc nào mẹ cũng chỉ nghĩ đến con.
- Con biết lắn, con biết lắm. Mẹ làm gì cũng vì con. Con cũng làm một việt gì để đền đáp lại mẹ. Không phải về vấn đề chính trị, nhưng cái gì mẹ ưa thích. Một hoa viên? Một ngọn đồi biến cải thành hoa viên. Con có thể di sơn, và...
Tuy đang tức giận, song nghe con nói, bà cảm động quá.
- Mẹ có rất nhiều hoa viên và núi non.
Bà thủng thẳng nói thêm.
- Cái gì mẹ mơ ước, không có thể làm được.
- Cái gì vậy?
Ấu đế có vẻ băn khoăn muốn bà chấp thuận một thứ gì đó do ông đề nghị để bà nguôi hẳn cơn giận dữ.
Bà có vẻ trầm ngâm, thủng thẳng, nói:
- Thôi nghĩ làm chị..Đống tro tàn, con có thể làm sống lại được không?
Ấu đế hiểu ý bà nói. Bà nghĩ đến sự hoang tàn, đổ nát ở cung Viên Minh. Đã bao nhiêu lần, bà đã tả cảnh cho con nghe những mái chùa xinh xinh, những đình tạ, hoa viên giả sơn. Trong lòng bà vẫn hun đúc mối căm thù với bọn người ngoại lai.
- Nếu chúng ta cho tái lập lại cung Viên Minh; cung điện Viên Minh sẽ làm lại đúngnhư ngày trước. Con sẽ lập một thứ thuế mới vì con không muốn lấy tiền ở công khố quốc gia.
Bà như tán đồng ý kiến đó.
- Nếu con có thể làm lại được thì hay quá.
- Rất có thể.
Ông ngửng mặt lên nhìn sang bên. Đột nhiên bà cười.
- Một Viên Minh, một nơi đi thừa lương. Sao lại không?
Bà đứng dậy, ấu đế cũng đứng dậy theo. Bà lấy tay vuốt má con. Bà đi ra. Lý Liên Anh ở trong bóng tối hiện ra, để đi theo bà.
Con cái dù nghèo hèn cũng phải hành khất hay giàu sang, phú quý, nhiều khi làm trái ý cha mẹ làm cha mẹ phải buồn phiền.
Do thám tử mật báo, bà thái hậu biết con đã nói dối bà, không phải do khuyến nghị của Cung thân vương, ông đã chấp thuận cho các sứ thần ngoại quốc được vào bệ kiến, đứng bình thân trước ngai rồng, không phải quỳ. Cung thân vương đã nhắc lại cho hoàng thượng biết các tiên đế ngày trước đã khước từ đặt ân đó. Dưới triều đại Càn Long, một người Anh Các Lợi Lord Macartney vào triều kiến bằng lòng quỳ sát đất với điều kiện, một thân vương Mãn Châu phải quỳ sát đất trước tấm chân dung của hoàng đế Anh Cát Lợi, vua Georges. Khi bọn sứ thần khẩn nài xin vào bệ kiến, Cung thân vương tìm cớ này, cớ khác để trì hoãn. Chuyện khất lần đó kéo dài trong bốn tháng. Hoàng thượng đích thân chấm dứt tình trạng đó, chấp thuận cho sứ thần ngoại quốc được vào bệ kiến. Ông đã tỏ ra một sự nhượng bộ, nhu nhược, phương hại đến uy danh của Thanh triều.