- 10 -

     gày hôm đó, Từ Hy ngồi vẽ. Cô giáo dạy vẽ, ngồi bên cạnh, không nói năng, khuyên bảo gì hết, chỉ lấy mắt theo giỏi nét vẽ của người học trò vương giả. Từ Hy cũng biết khó thể vừa ý được cô này. Tuy bàa đã mất nhiều công trình tập luyện. Như vẽ một cành đào có hoa, bà nhúng ngọn bút lông vào nghiêng mực, chỉ vạch lên một nét là nom ra chiếc cánh cả bóng tối, sáng. Bà đã hoàn toàn thành công, cô giáo đã khen:
- Thưa lệnh bà, vẽ thế được lắm.
- Tôi chưa vẽ xong.
Bà lại nhúng bút vàao nghiêng mực, bà vẽ một cành nữa, cành này quấn vào cành trước. Cô giáo ngồi yên không nói năng, bình phẩm.
Từ Hy cau lông mày, hỏi:
- Thế nào? Cô không thích tôi vẽ như thấ hả?
- Thưa lệnh bà, không phải vấn đề thích hay không thích. Lệnh bà cũng đã rõ các đại danh họa không ai vẽ hai cành quấn lấy nhau như thế.
- Sao vậy?
- Về phương diện mỹ thuật, động cơ thuộc về bản năng không phải lý trí... Các đại danh họa không vẽ thế.
Từ Hy mở to mắt, cắn chặt hai môi, suy nghĩ sắp lý luận, nhưng cô giáo vẽ từ chối khéo, không muốn cãi lý với thái hậu, tuy là học trò mình.
- Nếu ý lệnh bà muốn vẽ hai cành như thế, cũng được tùy ý lệnh bà.
Cô giáo dạy vẽ nói xong ngồi yên, nét mặt suy tư, một lúc sau, cô ngửng mặt về bà "Học trò", nói tiếp:
- Thưa lệnh bà, lệnh bà vẽ theo kiểu "Tài tử", còn tôi là một nhà nghề chuyên nghiệp, tôi xuất thân ở một gia đình nghệ sĩ. Nếu lệnh bà không phải lo toan việc nước, chuyên hẳn về khoa hội họa, lệnh bà rất có thể thành một đại danh họa. Tôi nhận xét qua các tấm tranh lệnh bà vẽ. Bút pháp rất tinh vi, hùng mạnh, một thiên tài nếu chịu tập luyện, có thể phát triển mạnh. Song lệnh bà có ít thời giờ để vào nghệ thuật, lệnh bà còn phải gánh vác nhiều công việc trọng đại. Cô giáo chưa nói hết, chưa phát biểu hết cảm nghĩ. Từ Hy lắng tai nghe,hai mắt bà nhìn thẳng vào mặt cô giáo. Hai người đang ngồi bình tĩnh đàm luận, thì viên chưởng quản thái giám hớt hải chạy vào. Hai người ngoảnh nhìn hết đỗi ngạc nhiên thấy tên thái giám vẻ mặt hớt hải, thỡ hổn hển nói không ra lời, hai mắt trợn trừng, hai má bánh đúc, mồ hôi nhễ nhại. Hắn luống cuống kêu to:
- Tâu lệnh bà... Lệnh bà... Sửa soạn ngay tức thờị..
Từ Hy đứng dậy tưởng hắn đến báo tin có ai chết... Người nàọ.. Hay là...
Tiếng An Đắc Hải the thé:
- Tâu lệnh bà có sứ giả ở Quảng Đông đến. Tỉnh Quảng Đông thất thủ rồị.. Quân ngoại quốc đánh phá... đã lọt vào tỉnh... Tổng đốc bị bắt, cầm tù.
Từ Hy ngồi xuống, đó là tin về tai biến chiến họa, không phải tin có người nào chết.
Bà nói giọng rất nghiêm nghị, bảo tên thái giám đứng run lẩy bẩy:
- Bình tĩnh. Nhình mi, mới nghe ta tưởng như quân địch đã lọt vào hoàng thành.
Bà thu dọn các bút vẽ, cô giáo lặng lẽ cáo lui. Viên chưởng quản thái giám đứng chờ lệnh, lấy ống tay áo lau mồ hôi chảy nhỏ giọt trên trán.
- Đi mời Cung thân vương đến gặp ta, song mi trở về với hoàng thượng.
- Phụng chỉ.
Tên thái giám vái dài rồi lui ra.
Vài phút sau, một mình Cung thân vương đến. Ông biết được tin đó vì chính ông nhận công văn, ông mệt quá, thở không được. Chữ viết trong công văn do một người nào viết nhưng có đóng ấn của tổng đốc. Ông đem theo tờ công văm đó cho Từ Hy coi.
Sau khi đã đáp lễ thân vương, Từ Hy nói:
- Thân vương đọc tờ công văn đó cho tôi nghe.
Ông đọc rất thong thả, Từ Hy lắng tai nghe, hai mắt nhìn bó hoa lan vàng, cắm trong lọ ở giữa bàn. Sáu ngàn quân Tây phương tấn công các cổng thành và đã lọt vào trong tỉnh Quảng Đông. Quân lực hoàng gia có chống đối lấy lệ, rồi mạnh ai người nấy chạy. Quân giặc người Hán trà trộn trong dân chúng, làm nội tuyến, mở cổng thành để bọn giặc Tây phương kéo vào. Viên tổng đốc tìm đường thoát thân leo lên nóc các pháo đài trong tỉnh. Bọn sĩ quan lấy dây thả ông xuống. Người Hán làm chỉ điểm cho quân thù, ông liền bị bắt. Tất cả các viên chức trong tỉnh bị cầm tù, viên tổng đốc bị đày sang Calcutta, mãi tận bên Ấn Độ. Bọn người Tây phương rất hung hãn, phách lối, đặt một chính phủ lâm thời người Hán như để thách thức Thanh triều. Trong bản công văn có nói quân hồng mao còn yêu sách nhiều thứ, lệnh của nữ hoàng, họ cần phải trực tiếp hội kiến với hoàng thượng để giải quyết nhiều vấn đề.
Trong gian phòng ấm cúng, êm ả, một giờ trước đây, Từ Hy còn ung dung ngồi vẽ những cành đào có hoa, tin khủng khiếp này làm bà rụng rời chân tay. Bà nghe thân vương đọc tờ công văn, bà ngồi im, không nói một lời. Thân vương đưa mắt nhìn chỗ khác, trong lòng nghĩ thương hại cho người đàn bà trẻ, đẹp, cô đơn, ôngnóng lòng xem bà chỉ phán ra sao? Bà nói:
- Trước hết, chúng ta không thể nào tiếp kiến bọn khốn kiếp, ngoại lai ở trong hoàng cung. Riêng phần tôi, tôi vẫn hoài nghi bọn đó hành động lấy danh nghĩa nữ vương, có lẽ nào bà ấy lại sai bọn chúng làm càn. Tôi không thể đến một sứ lạ, xa xôi, tiếp xúc trực tiếp với nữ vưong để biết rõ thực hư, cũng như tôi không thể công bố cho quốc dân biết thiên tử đang lâm trọng bệnh. Đông cung thái tử còn nhỏ quá. Việc kế vị sẽ gây nhiều mầm móng tai hại. Dù sao đi nữa và bất cứ giá nào, cũng không thể cho người ngoại quốc vào đây dù với danh nghĩa nào. Phải trì hoãn, đợi thời cơ thuận tiện, hứa nữa, vì đang tiết mùa đông.
Những sự ưu tư, ý nghĩ của thân vương đối nghịch hẳn với những xét đoán, lý luận của bà thái hậu, ông không sao thông cảm nổi. Ông ôn tồn nói:
- Tâu lệnh bà, tôi xin nhắc lại những lời tôi đã nói, lệnh bà chưa biết bản tính những hạng người đó. Bây giờ đã quá trễ, lòng kiên nhẫn của họ lên đến tột độ.
- Hãy để xem sao, mình sẽ tính.
Bà không nói gì nữa. Thân vương cố biện luận, khuyên can, bà lắc đầu lia lịa, mặt tái đi, hai mắt có quầng, rất hung dữ, kinh khủng:
- Hãy để xem sao mình sẽ tính sau.
Từ Hy nghĩ thầm: "Thật là Trời giúp ta". Năm đó rét lạ lùng, cổ kim chưa năm nào rét như năm đó, sáng ngủ dậy, Từ Hy nhìn ra ngoài khung cửa sổ, thấy lớp tuyết dày gấp bội đêm hôm qua. Công văn chạy hỏa tốc từ Quảng Đông về kinh chậm hơn mọi khi 3 lần thời gian, khứ hồi phải mất hàng mấy tháng. Viên tổng đốc chết mòn trong ngục Calcutta, nhưng Từ Hy không cần biết. Hắn đã tận trung, tuyệt đối tuân theo chỉ thị của triều đình, đến khi sa ngã không ai đoái hoài. Chẳng may, nếu chết trong ngục, bà lấy đó làm cái gương cho người còn sống để phục vụ bà, "Tôi trung chết vì chúa"
Mùa đông thấm thoát trôi qua, xuân đến, nhưng một mùa xuân đầy thù nghịch và hổn loạn. Xuân năm đó, cây nảy mầm, trúc ra măng cũng chậm hơn mọi năm. Trong hoàng thành những cây huệ trổ hoa trên đám than củi có tro phủ, những cây mai lùn nở hoa trong lòng kính, trưng bày trong các cung điện. Trong khung cảnh mùa xuân nhân tạo đó, bà Từ Hy cho treo những lồng chim, tiếng chim líu lo hót làm bà vui thích. Vận nước suy vi, giang sang nghiêng ngửa, bà lo lắng nhiều hôm mất ăn, mất ngủ, thỉnh thoảng bà lấy thú tiêu khiển, mở lồng chim cho chim bay, đậu trên hai vai, trên bàn tay, mổ những hạt mà bà cắn ở răng. Bà cũng thích chơi đùa với đàn chó. Những con vật hồn nhiên, vô tri, vô giác đó là bà lãng quên được nổi sầu muộn, tâm hồn được cởi mở.
Đứa con trai bà còn nhỏ dại, thơ ngây, chỉ thích quấn mẹ, không yêu ai hơn bằng mẹ. Khi nom thấy mẹ, nó bỏ hết mọi người xung quanh, vội vàng chạy ra ôm mẹ. Đối với những người nào làm trái ý, có vẻ chống đối, bà rất thẳng tay, không một chút nhân từ, nhưng bà rất hiền hòa đối với kẻ dưới, những người có lòng yêu mếnbà. Vì thế bà nhắm mắt, bỏ qua những tính hư, tật xấu của tên thái giám Lý Liên Anh, vì tên thái giám này tận tâm phục vụ bà. Tên này có tật xấu hay ăn cặp vặt, tham nhũng, hay vòi tiền những người nào muốn xin ý kiến bà, để cầu cạnh một việc gì. Bà biết hết nhưng ngoảnh mặt làm ngơ. Bà không than phiền ông vua về tình trạng ốm yếu, bạc nhược, bất lực vì dâm dục quá độ. Vì ham của mới, ông thay đổi gái mỗi đêm, có khi ông bất lực với người ông thích; cho ông hạng gái tơ bồi tiếp thêm sức cho ông. Ngoài thể chất, không đáng kể, linh hồn ông bà nắm gọn trong tay, bà mặc để ông muốn làm gì tùy thích vì thực tìn, con người đó bà không yêu, không thích. Bề ngoài, bà tỏ ra vẻ dịu dàng, quyến luyến để che mắt mọi người và cũng trả ơn sự say mê đằm thắm của ông đối với bà.
Cung thân vương biết hết những chuyện thầm kín đó, mà Từ Hy cũng biết thân vương không là gì.
Bà suy luận trong khóe mắt, giọng nói của thân vương, hắn biến nhưng để bụng không nói ra. Bà âm thầm, khổ tâm sống cô đơn, chỉ những người tinh ý mới biết, bà kông thể thổ lộ tâm sự với ai. Thân vương không mê bà, vì vợ ông, một tuyệt sắc gia nhân, tính nết hiền hòa, đối với Từ Hy ông chỉ tận tụy trong chức vụ cố vấn.
Xuân qua, hạ tới, bà Từ Hy chưa quyết định có nên đi thừa lương ở Viên Minh không? Bà muốn đến đó để tỉnh dưỡng. Suốt cả mùa xuân, bà không bước chân ra khỏi cấm thành, bà nhớ đến cảnh trí thiên nhiên ở Viên Minh. Chưa bao giờ bà lại có ý thức như lúc này, muốn được sống giữa cảnh thiên nhiên, trời cao, núi non trùng điệp. Đêm bà không mơ tưởng đến chuyện tình dục, bà muốn hưởng cảnh trăng thanh gió mát, những khu vườn rộng lớn, xa xa núi non chập chùng.
Bà say xưa ngắm không chán mắt những phong cảnh vẽ trên lụa, rồi đưa hồn vào cõi mộng. Bà tha thẫn đi chơi dọc sông hay bờ biển, đêm ngủ trong rừng thông, trong một ngôi chùa có một bụi trúc che khuất. Khi tỉnh dậy, bà khóc, những cảnh vật đó đã tan biến, chỉ là một ảo giác.
Một hôm như một cơn giông bão đột khởi, những tin tức rất bi quan, bà như có linh tính báo trước từ lâu thể nào cũng có, đưa đến hoàng cung. Những sự ao ước, dự định đi thừa lương đành xếp hết lại. Những chiến thuyền Tây phương, theo duyên hải, ngược lên phía bắc. Những bưu trạm thay phiên nhau chạy suốt ngày đêm để tống đạt công văn thượng khẩn lên kinh thành. Làm sao công văn phải đến trước chiến thuyền quân địch đến pháo lũy Taku, tiền đồn phòng thủ Thiên Tân, một tỉnh cách xa kinh thành 20 cây số. Tất cả mọi người trong hoàng thành, lớn nhỏ, nghe thấy hung tin, hồn xiêu phách lạc. Ông vua đang nằm trên giường, lơ mơ, nghe tin giặc đến, ông giật bắn người. Ông ngồi nhổm dậy, truyền cấp tốc thuyết triều, cho triệu thỉnh toàn ban cơ mật vụ, thượng thư, thân vương, lưỡng cung đến dự trào ngồi sau tấm bình phong chạm rồng. Từ Hy đến vịn tay vào viên thái giám, ngồi trên một chiếc ngai lớn nhất. Một lúc sau, bà Đông cung Từ An đến; Bà Từ Hy theo phép lịch sự đứng dậy, nghiêng đầu chào bà. Bà Đông cung có vẻ đã già, tuy bà mới có 32 tuổi. Nhưng mặt bà dài thuỗn, hốc hác, buồn buồn, bà cố nhếch mép nở một nụ cười khi bà Từ Hy đến nắm tay.
Lúc này không ai để ý đến những làn sóng ngầm. Xích mích, bằng mặt không bằng lòng giữa những cá nhân khi tất cả quốc gia đang rung chuyển. Tất cả triều thần, văn võ bá quan, hoàng thân quốc thích, trong lòng hồi hộp lo sợ, lắng tai nghe Cung thân vương đứng giữa triều đường đọc to những tin tức khủng khiếp vừa nhận được. Hoàng thượng mặc áo lông cổn, ngồi trên ngai vàng, đầu cúi xuống lấy chiếc quạt lụa che kín nửa mặt.
Cung thân vương nói rõ tất cả sự thật phủ phàng, đau đớn. "Mặc dù những thiện chí, cố gắng liên tiếp của triều đình, quân Tây phương không chịu ở phương Nam, họ muốn bành trướng, xâm đoạt toàn lãnh thổ của nước ta. Những chiếc thuyền, bộ đội, súng ống, đạn dược, theo dọc duyên hải, ngược lên phía bắc. Chúng ta chỉ còn hy vọng, không biết những pháo lũy ở Hà Khẩu có đủ lực ngăn chặn được bọn chúng khỏi lọt vào Thiên Tân không? Nếu chẳng may chúng phá được Hà Khẩu, vào được Thiên Tân, giặc sẽ tiến thẳng về hoàng thành".
Tiếng rên rỉ buồn thảm lẫn tiếng thở dài của bọn người đang quỳ mọp trước sân rồng, đầu cúi gầm, trán chạm đất.
Cung thân vương ngập ngừng một lúc rồi nói tiếp:
- Nói ra bây giờ e còn sớm quá, song tôi nghĩ quân Man Di không chịu theo luật lệ của nước mình. Dám có thể chúng kéo đến hoàng cung, chúng ta không thể đuổi chúng về phương Nam. Mình phải có can đảm nhìn vào sự thật, không phải lúc còn mơ mộng. Tình thế thật phần nguy biến, tương lai đen tối, sầu thảm.
Khi Cung thân vương dứt lời, hoàng thượng tuyên bố bãi trào, ngài cần phải suy nghĩ, cân nhắc trước khi ra quyết nghị. Vịn vào hai cánh tay của hai hoàng tùng đệ, ngài ngự sắp bước chân xuống ngai, đột nhiên có tiếng lanh lảnh của Từ Hy sau tấm bình phong nói lớn lên:
- Đúng lẽ, tôi không có quyền phát biểu, song tôi mạn phép quyết nghị vì tình thế quá cấp bách.
Hoàng thượng ngập ngừng không biết nói sao, ngoảnh đầu bên trái, bên phải, cử tọa vẫn quỳ mọp, im phăng phắc, đầu cúi gầm.
Trong bầu không khí nặng nề đó, tiếng Từ Hy lại sang sảng vang lên:
- Đối với quân mọi rợ, man di đó, tôi đã nhiều lần khuyên can triều thần nên có thái độ kiên nhẫn. Tôi cũng đã nói nhiều lần phải cố chờ cho đến khi nào mình có thời cơ thuận tiện. Bây giờ tôi nhận ra làm như thế tôi đã phạm vào lỗi lầm. Tôi thay đổi ý kiến, tôi không dùng chính sách hòa hoãn, kiên nhẫn nữa, không hẹn hò gì hết. Tôi xin tuyên chiến với quân xâm lược. Vì sự tồn vong của quốc gia, một vấn đề sinh tử, tất cả mọi người phải đồng lòng hy sinh: đàn ông, đàn bà, con nít.
Nếu lời nói đó là lời nói của một người đàn ông, cử tọa đã hoan nghênh tán thành. Nhưng tiếng nói đây là tiếng nói một phụ nữ, dù cho người đó là thái hậu. Không ai nói gì tán đồng quan điểm hay phản đối. Hoàng thượng ngồi cúi đầu chờ xem có ai nói gì không. Thấy không ai nói năng, bàn soạn ra sao, ông lại vin vào hai cánh tay của hai người em, bước xuống ngai, đi ngang qua các đình thần đang quỳ mọp, ông bước lên ngọc liễn trở về cung.
Ông vua đi rồi, hai bà thái hậu cũng rút lui, hai người không nói năng gì, trừ mấy câu xã giao cần thiết. Bà Từ Hy nhận thấy bà Từ An muốn tránh né, hai mắt bao giờ cũng nhìn đi chỗ khác. Bà Từ Hy về cung chờ không thấy hoàng thượng cho người đến triệu thỉnh.
Bà cho gọi Lý Liên Anh đến, hầu mách, ban ngày vua cho vời một, hai cung nữ đến hầu, không thấy nhắc đến bà. Tin này hắn mách là do viên chưởng quản thái giám cho biết, vì hắn túc trực bên cạnh vua. Lý Liên Anh nói:
- Tâu lệnh bà, hoàng thượng không quên lệnh bà, song ngài sợ những biến cố có thể đột khởi. Ngài chờ xem các quan đại thần nghị luận ra sao.
Từ Hy kêu lên:
- Như thế này, đại sự hỏng rồi.
Bà công khai đã kích hoàng thượng, Lý Liên Anh làm như không nghe thấy gì.
Sáng hôm sau, bà nghe nói không chống cự lại quân ngoại xâm tây phương. Việc đó trái với ý nghĩ, đường lối của bà. Theo lời đề nghị của hội đồng liên bộ, hoàng thượng đề cử một phái đoàn, ba người có uy tín để điều đình với quân hồng mao ở Thiên Tân. Trong số ba người được đề cử có Quế Liên, nhạc phụ Cung thân vương, một người có tiếng khôn ngoan và thận trọng. Bà Từ Hy nghe tin này, bà rít lên:
- Hỏng, hỏng, ông già này làm sao đối thủ được với quân mọi. Ông vừa già nua, ốm yếu, quá thận trọng, ôm một mớ lý thuyết thánh hiền để nói chuyện với quân man di. Hỏng. Hỏng quá.
Bà xét đoán rất hữu lý. Ngày 04 tháng 7, ông già Quế Liên ký với quân giặc một bản thỏa ước. Bản thỏa ước đó, một năm sau, được đức vua phê chuẩn. Thỏa ước bị cưỡng bách ký kết dưới áp lực của sức mạnh, súng đạn và lưỡi lê, lại được sự hậu thuẫn của quân đội Nga, Mỹ, quân đội hồng mao và Phú Lăng Sa đã thu hoạch rất nhiều thắng lợi, được thõa mãn hầu hết các yêu sách. Theo thỏa ước này, hai quốc gia (Anh, Pháp) có quyền đặt lãnh sự tài phán ở Bắc Kinh, các nhà truyền giáo, thương mại, có đặc quyền đi lại trên khắp lãnh thổ Trung Quốc, không bị luật lệ bản xứ chi phối. Hán Khẩu một giang cảng ở trung tâm nội địa cách Bắc Kinh khoảng 1500 cây số được mở cho người da trắng thông thương. Họ có quyền xây các nhà cửa, cơ sở, doanh trại.
Từ Hy đọc xong những điều khoản trong thỏa ước, bà ngồi lỳ trong phòng ba hôm liền, không ăn, không ngủ, không thiết làm một việc gì. Bà cấm không cho các thể nữ, a hoàn vào phòng bà. Người a hoàn hầu cận thấy bà thế, lo ngại quá, ngầm báo Lý Liên Anh đến nói cho Cung thân vương biết. Bà Tây cung mấy hôm nay nằm liệt giường như một xác chết. Bà khóc hết nước mắt.
Cung thân vương được tin đó, vội đến cung bà thái hậu. Bà Từ Hy chịu cho tắm rửa, thay quần áo, ăn uống trở lại. Bà tiếp thân vương ở thư viện hoàng gia nghe thân vương trình bày lý lẽ về bản thỏa ước.
- Tâu lệnh bà, lệnh bà nghĩ coi một người có uy tín thận trọng như nhạc phụ tôi phải chịu khuất phục ký bản thỏa ước vì không còn cách nào hơn. Chúng ta không được do dự, không được lựa chọn. Nếu chúng ta khước từ họ, họ sẽ tiến quân lên kinh thành.
Từ Hy bĩu môi:
- Chỉ là một cái lối cưỡng bách dọa nạt mình.
- Không phải họ dọa nạt. Tôi biết quân hồng mao họ nói gì là họ làm.
Thân vương nói đúng hay sai, bà cũng không nói gì. Sự việc đã rồi, bà đành khoanh tay, bà thấy lòng buồn vô hạn. Con bà còn nhỏ quá, làm sao cầm quyền bính, bảo vệ được nhà, được nước. Bà bồn chồn, nóng ruột, đứng dậy, như ngầm bảo thân vương cáo lui, bà trở về cung.
Suốt bao nhiêu ngày đêm, bà ngồi một mình nghiền ngẫm kế hoạch. Để dấu kín tâm tư, bà tỏ ra rất niềm nở, bặt thiệp với tất cả mọi người, chiều theo ý vua, chờ đợi thời cơ, bà luyện rèn tâm trí.
Quân đội tây phương đã được thỏa mãn các yêu sách, đóng quân tại chỗ, không tiến lên mạn Bắc.
Ngày tháng trôi qua, mùa hè sang năm, bản thỏa ước được đem ra phê chuẩn, bà đã làm việc phê chuẩn bản thỏa ước không thành tựu. Việc đó bà đã thắng không phải bằng lời nói hay dọa nạt nhưng bằng những mánh khóe bà lung lạc được ông vua hèn yếu.
Suốt một năm trời hết sức chiều chuộng ông vua đầu mày, cuối mắt, bà đã làm ông bị mê hoặc, tất cả tinh thần thể chất ông bà nắm được cả trong tay. Theo kế hoạch của bà, ông đã dùng thể lực mật phái, các sứ giả, nhờ các vị quan sở tại làm trung gian và môi giới, đút lót vàng bạc tiền nong cho bọn bạch chủng để họ không tiến quân lên mạn Bắc.
Các sứ giả được phái đi vào cuối năm trước, sang đầu năm sau, vua truyền lệnh cho tăng cường phòng thủ ở Hà Khẩu, với những vỏ khí mua lén lút của người Mỹ. Những sự kiện này do bà Từ Hy hoạch định, khuyến dụ vua trong phòng kín, trong khi bà giải trí cho vua, chịu khuất phục, chiều ý khích động ông, bà đọc những chuyện dâm ô, đĩ thõa của một loại sách bà lấy trong tủ sách của bọn hoạn quan.
Mọi người ở trong hoàng thành nhốn nháo, lo sợ, không biết vì lẽ gì mà vào đầu mùa hạ, những công văn thượng khẩn cấp báo, người tây phương không chấp thuận sự sửa đổi, trì hoãn việc thi hành thỏa ước đã được hai bên kí kết. Dưới quyền chỉ huy của viên thủy sư đô đốc, người hồng mao tên la Hope, hạm đội chiến thuyền của họ tiến về mạn Bắc, vượt quá tỉnh Thượng Hải. Người dân ở ngoài phố cũng như các triều thần cho là một sự dọa nạt, mọi người vẫn bình tĩnh, không sợ. Các đồn ải ở Hà Khẩu đã được phòng thủ đến mức tối đa, quân đội hoàng gia được tăng cường để khích lệ ba quân, nhà vua còn treo giải thưởng cho những đơn vị lập được chiến công.
Nhờ có "Hoàng thiên hậu thổ", án trợ, phù hộ, quân thù đã bị đẩy lui thực sự, ba chiến thuyền bị đánh đắm, giết được hơn 300 quân giặc. Được tin cấp báo thắng trận, vua hết sức vui mừng, cảm ơn bà Từ Hy đã có sáng kiến rất hay đem lại vinh quang cho Thanh triều. Nhân cơ hội đó bà khuyên vua từ khước hết không chấp nhận một điều gì. Thỏa ước vì thế không được phê chuẩn.
Quân bạch chủng cuốn cờ, rút lui, sự thanh bình trở lại. Cả nước ngưỡng mộ thiên tử cho là một vị anh quân, mưu thần, chước quỷ, đã biết lợi dụng thời cơ để hành động. Một trận toàn thắng rực rỡ, vẻ vang, nhờ về mưu thuật, dùng kế hoãn binh, hư hư thực thực, gieo rắc sự hoài nghi cho quân thù có một ý niệm sai lầm về thực lực của quân đội hoàng gia. Đúng vậy, đối với thần dân cả nước, hoàng thượng là một đấng anh quân, minh chúa, lỗi lạc, tài ba. Cương vị của ông sáng chói như vầng nhật nguyệt.
Tuy nhiên, cũng có nhiều người biết người nào trong bóng tối đã giật dây ông. Những người biết chuyện vô cùng ngưỡng mộ bà Tây cung, họ còn phao truyền bà có ma uy thần lực ám trợ, họ còn ca tụng bà có một sắc đẹp tuyệt luân.
Người ta tuy khen nhưng không dám nói to vì sợ phạm thượng, ở trong cung bọn thái giám hết lòng phục vụ, chiều theo ý bà từng tý.
Duy chỉ có Cung thân vương vẫn thấy e ngại, ông tuyên bố:
"Bọn người Tây phương như loài cọp báo, khi chúng bị thương chúng lẫn trốn, nhưng coi thường chúng vồ mình lúc nào không biết"
Có lẽ ông vương này quá lo xa, vì suốt cả một năm trong nước yên tĩnh, thái bình. Bà Từ Hy tiếp tục trau dồi học vấn, thái tử lớn như thổi, mạnh khỏe, tuấn tú. Người ta có đem dâng thái tử một con ngựa đen rất đẹp, loại tuấn mã, để thái tử học cưỡi ngựa. Tính cậu nhỏ hay hát, mồm cười toe toét suốt ngày. Địa vị được củng cố vững vàng, bà Từ Hy bây giờ không phải e ngại gì hết. Sang hạ trời nắng ráo, bà có ý định đi thừa lương ở Viên Minh với thái tử và các thể nữ đi tháp tùng. Sau một năm thái bình, tứ phương vô sự, bà muốn đi thừa lương tĩnh dưỡng.
Nhưng chao ôi! Ai có thể tiên tri biết được ngày mai ra sao? Triều đình, vua quan, lưỡng hậu, thái tử vừa tới địa hạt Nguyên Minh Nguyên, hạt sở tại cung Viên Minh thì có tin cấp báo quân hồng mao nóng lòng phục thù, bất thần tấn công duyên hải miền Bắc với sự tán trợ của quân đội Phú Lang Sa. Tháng 7 năm đó, hai trăm chiến thuyền với một quân số hai mươi ngàn người, chiếm hải khẩu Yên Bài; trong tỉnh Sơn Đông. Quân ngoại xâm không cần điều đình, ký kết gì hết, sửa soạn tiến quân thẳng về hoàng thành.
Ngày đêm công văn tới tấp bay đến, đem toàn những hung tin. Tình thế quá cấp bách, nguy kịch, không phải lúc còn che đậy, dấu giếm hay bàn cãi. Lão trượng Quế Liên lại được đề cử cùng mấy người đi điều đình với địch quân.
Vua sợ quá run lập cập, dặn dò ông trưởng phái đoàn:
- Họ đòi gì, yêu sách gì, nhận hết, nhận hết, nhượng bộ, nhượng bộ, không cần bàn cãi, thảo luận. Tình thế nguy quá rồi, trẫm chết mất.
Bà Từ Hy đứng cạnh vua lúc đó, bà nói:
- Không thể thế được, không thể thế được. Như thế nhục nhã quá, còn ra thể thống gì nữa. Hoàng thượng đã quên trận chiến thắng mới rồi sao? Bây giờ là lúc mình cho quân đội nghênh chiến, lúc này là lúc mình phải phô trương binh lực của mình. Mình phải đánh, phải đánh, đâu có thể nhượng bộ dễ dàng như thế được.
Ông vua không nghe bà nói, lấy cánh tay phải đẩy bà ra xa (Cánh tay phải bây giờ đã khỏe, cử động được), ông quay mặt về ông già Quế Liên, ông nói:
- Khanh đã hiểu ý trẫm nói chưa?
- Tâu hoàng thượng hạ thần đã nghe rõ và xin phụng chỉ.
Viên sứ giả của hoàng thượng và quân lính hộ tống ngồi trên mấy chiếc xe cọc cạch, có mấy con la kéo, thẳng đường Thiên Tân. Quân ngoại xâm đã chiếm hết đồn lũy ở Hà Khẩu. Phái đoàn đi rồi, bà Từ Hy lo quá, bà lại dùng sắc đẹp, mánh khóe lung lạc ông vua để từ bỏ quyết nghị của ông.
Đêm hôm đó, trong phòng hoàng thượng bà tỉ tê nói:
- Thế ngộ quân bạch chủng không chịu tin mình thì sao? Mình phải khôn ngoan, tiên liệu những sự bất thành có thể xảy đến.
Bà đã thành công khuyến dụ ông vua tin tưởng, phái thân vương Sinh, một vị tướng Mông Cổ đem một đạo quân mai phục quân ngoại xâm. Ông tướng này rất gan dạ, đã cầm quân ngăn chặn quân giặc ở miền Nam khỏi tràn lên miền Bắc. Ông đã đánh bại quân giặc trong hai trận chiến thắng vẻ vang.
Bây giờ bà Từ Hy nghĩ đến con người bách chiến bách thắng đó. Ông vua đã chịu nghe bà một lần nữa, ông dấu cả Cung thân vương không dám nói. Thân vương Sinh nhận được mật chỉ, đem quân mai phục gần chiến lũy Hà Khẩu. Ông có nhiệm vụ trục xuất quân bạch chủng ra ngoài biển như ông đã làm một lần với quân giặc người Hán.
Tin tưởng vào lá cờ trắng đình chiến, phái đoàn Anh Pháp ung dung tiến, không đề phòng để gặp phái đoàn của hoàng triều do ông già Quế Liên hướng dẫn. Ông tướng Sinh cho trương lá cờ trắng đầu hàng, ông phất cờ, quân đội của ông xông lại phái đoàn tây phương, bắt cầm tù hai trưởng phái đoàn, trói hết bọn người tùy tùng dẫn đi. Lá cờ trắng bị xé nát, lấy chân đi xuống đất, những người bị cầm tù bị ngược đãi vì ngang nhiên xâm phạm đến bờ cõi.
Hỷ tín đó được cấp báo về kinh thành, một lần nữa quân bạch chủng rút lui. Hoàng thượng hết lời ca tụng Từ Hy, tặng thưởng một hộp bằng vàng đầy đồ nữ trang quý giá. Vua xuống chỉ cho toàn quốc ăn mừng thắng trận trong bảy hôm và truyền diễn tuồng cho đình thần thưởng ngoạn. Ông tướng Sinh được một phần thưởng rất đích đáng, vàng bạc và phẩm tước.
Nhưng ăn mừng vội quá, khánh hỷ bảy hôm vừa mới bắt đầu đã phải hủy bỏ.
Khi quân tây phương nhận được tin phản bội đó, người đồng chủng bị sát hại và cầm tù, họ tập trung tất cả lực lượng, tấn công viên tướng Mông Cổ, đánh một trận như vũ bão, xác xếp thành núi, máu chảy thành sông. Quân của ông tướng Mông Cổ chỉ có những vũ khí cỗ lỗ thô sơ, không có khí giới tối tân nên đã thảm bại. Bọn quân ngoại xâm toàn thắng, tiến thẳng về kinh thành, như vũ bão, không có sức gì ngăn cản nổi, đến cầu Bá Lý Kiều cách Bắc Kinh 15 cây số, qua sông Bành Hổ.
Được tin thất trận của thân vương Sinh, người ta cuống cuồng phái mấy đại đội cấp tốc ra phòng thủ chiếc cầu địa đầu. Cuộc giao phong của quân đội phòng thủ cầu để ngăn chặn quân ngoại quốc, vừa mới chạm súng đã tán loạn bỏ chạy về kinh thành. Quân lính hoàng gia chạy chen vào bọn dân quê, đàn ông, đàn bà, con nít, gồng gánh lếch thếch theo sau, mong tìm được nơi an toàn khỏi lọt vào tay giặc hung hãn.
Toàn kinh thành nhốn nháo, hỗn loạn, dân chúng mạnh ai nấy chạy mong tìm nơi trú ẩn; Đàn bà con nít kêu khóc như ri, đàn ông hò hét, chưởi thề ầm ỉ, người thì ngửa mặt cầu Trời cho tai qua nạn khỏi, thanh bình trở lại. Các hiệu buôn ở phố, đóng cửa, gài then, sợ bị tàn phá, cướp bóc. Những người giàu có đem vợ cả, vợ lẻ, con gái, con hầu, bồng bế, dắt díu nhau chạy đến các làng mạc để tìm nơi ẩn nấp. Trong cung điện Viên Minh cũng náo loạn không kém. Các thân vương, quốc thích, tập họp để bảo vệ ngai vàng, thái tử, công chúa, lưỡng hậu, cung tần, mỹ nữ. Trong lúc cấp bách thập phần nguy kịch, chưa có một đường lối nào nhất định.
Trong khi mọi người cả nhau như mổ bò, người nói cách này, người bàn lối khác, ông vua sợ quá run như cầy sấy, khóc thút thít, dọa uống thuốc phiện với dấm thanh để về chầu Tiên đế.
Duy chỉ có Cung thân vương vẫn bình tĩnh, ông tự chủ được. Ông vào trong nội tẩm, bà Từ Hy, Đông cung thái tử, và bọn thái giám đang xúm xích quanh vua, năn nỉ ông đừng vội về chầu phụ hoàng, tất cả mọi người nguyện xin phò giá, cứu nguy.
Nom thấy thân vương bà Từ Hy reo lên:
- May quá, có thân vương đây rồi. Thấy một người bình tĩnh, can trường như ông cũng được vững lòng.
Sau khi khấu đầu chào hoàng thượng, thân vương nói với ông vua, không phải lấy tư cách một người em nói với anh cả mà là một quốc trưởng theo lẽ quân thần.
- Tâu Thiên Tử, kẻ hạ thần xin được phép luận bàn.
Ông vua rên gừ gừ:
- Nói lên... Nói lên...
- Hạ thần xin được phép thả một giác thư cho quân xâm lược để xin đình chiến. Giác thư đó, hạ thần xin được phép đóng ngọc tỷ.
Từ Hy lắng tai nghe, không biết nói làm sao, nên hay không. Những gì thân vương tiên đoán nay đã thành sự thật, con cọp trở lại phục thù. Bà ôm con sát vào người, gục má xuống đầu con. Thân vương nói tiếp:
- Còn hoàng thượng, thái tử, lưỡng cung và triều thần tạm lánh về Nhiệt Hà.
- Phảị.. Phảị.. Phảị..
Ông vua gật đầu lia lịa, có tiếng xầm xì trong bọn thái giám, thể nữ tán thưởng cho là kế vẹn toàn.
Từ Hy đang ngồi, đứng phắt dậy, tay vẫn bồng con, bà nói:
- Hoàng thượng không nên rời bỏ kinh thành, thần dân sẽ ra sao nếu hoàng thượng bỏ ra đi? Rắn mất đầu, làm sao đương đầu được với quân thù? Sự nghiệp đã tan tành, chỉ có thái tử ở một nơi nào an toàn, còn thiên tử phải ở lại. Lúc nào tôi cũng ở cạnh thiên tử.
Bao nhiêu con mắt đổ dồn lại nhìn bà, ai cũng công nhận bà có một nhan sắc phi thường. Với một giọng bình tĩnh, Cung thân vương ôn tồn nói, giọng nói đượm một vẻ bùi ngùi, thương hại:
- Tâu lệnh bà, hạ thần rất thán phục lòng quả cảm của lệnh bà, song theo kế hoạch của hạ thần phải làm cho dân chúng tưởng hoàng thượng đi sạ liệp (đi săn) ở Nhiệt Hà. Theo như thường lệ, hoàng thượng sẽ xuất cung ngự giá đi sạ liệt, hạ thần sẽ đề nghị một cuộc hưu chiến làm trì hoãn cuộc tiến quân của chúng, và để lấy lòng chúng, trong giác thư nói sẽ trừng phạt tên tướng Mông Cổ.
Từ Hy thấy lần này bà thất bại, tất cả mọi người, từ ông vua đến tên hạng quan đều không đồng ý với bà. Bà không thể làm gì được, thiểu số phải phục tùng đa số. Bà lặng lẽ giao con cho người vú nuôi, rồi khấu đầu trước hoàng thượng, bà trở về tư cung với bọn thể nữ.
Năm hôm sau, vua quan rời khỏi Viên Minh lên đường về đất Mông Cổ. Bốn cửa thành đóng kín. Đoàn xa giá có khoảng 1000 người, võng kiệu, song loan, phu khênh vác, những xe bò lộc cộc, có ngựa, la, lừa kéo, đi tập hậu.