Dịch giả:Phạm Xuân Thảo
Phần IV (B)

     arras liếc nhìn lên lúc ông nghe tiếng Regan rít như rắn, trông thấy cô bé ngồi thẳng đơ với đôi tròng mắt lồ lộ, còn lưỡi cô bé thì cứ thậm thụt nhoang nhoáng, đầu thì lắc lư tới lui như một con rắn hổ mang.
Lại một lần nữa, Karras cảm thấy bất ổn. Ông nhìn trở lại sách lễ.
“Xin hãy cứu vớt kẻ tôi tớ ngài”, Merrin kêu cầu, ông vẫn đứng và đọc sách lễ.
“Là kẻ tin đến ngài, hỡi Thiên Chúa”, Karras hoạ.
“Xin hãy giúp cháu bé tìm thấy nơi ngài một tháp lũy vững bền”.
“Trước mặt kẻ thù”.
Lúc Merrin xướng tiếp dòng kế đó, Karras nghe thấy tiếng thở hổn hển của Sharon sau lưng ông, ông liền quay lại và thấy cô gái đang nhìn sững sờ về phía giường. Bối rối quá, ông nhìn trở lại. Và lập tức điếng hẳn người như bị điện giật. Phía đầu giường đang bay bổng lên khỏi sàn nhà..?
Ông cứ nhìn trừng trừng mà không sao tin nổi. Một tấc. Một tấc rưỡi. Ba tấc. Tiếp đến hai chân giường phía sau cũng bắt đầu dâng lên.
“Gott in Himmel!” Karl khẽ thốt lên vì sơ hãi. Nhưng Karras không nghe thấy anh ta hay nhìn thấy anh ta làm dấu thánh giá lúc phía chân giường nâng cao lên ngang tầm đầu giường. Không thể xảy ra như thế được! Ông nghĩ, lúc ông chứng kiến đến chết trân cả người.
Chiếc giường dâng cao lên ba tấc nữa rối lượn lờ ở đó, bập bềnh và chao đảo khe khẽ như đang trôi nổi trên một hồ nước tù hãm.
“Cha Karras?”
Regan cứ bồng bềnh. Rít siên siết như rắn.
“Cha Karras?”
Karras quay lại. Nhà đuổi quỷ đang thanh thản nhìn ông, lúc này hất đầu về phía bổn sách lễ trên tay Karras. “Xin đọc lới đáp cho, Damien ạ”.
Karras lộ vẻ lúng túng và không hiểu. Sharon bỏ chạy khỏi phòng.
“Xin chớ để kẻ thù áp đặt chút quyền năng nào trên cháu bé”, Merrin khẽ lặp lại.
Vôi vã, Karras nhìn lại nội dung sách lễ và với một con tim đập bồi hồi, ông lắp bắp câu đáp: “Và đứa con của tội lỗi không có quyền làm hại gì được cháu”.
“Ôi Chúa, xin hãy nghe lời khẩn nguyện tôi”, Merrin tiếp tục.
“Và hãy để cho tiếng kêu cầu tôi thấu đến bên Người”.
“Cầu Chúa ở cùng cháu”.
“Và ở cùng linh hồn cháu”. Merrin bắt đầu một bài cầu nguyện dài hơi, còn Karras lại đảo tia nhìn trở lại chiếc giường, trở lại với những niềm trông cậy về Thiên Chúa của ông và sự lượn lờ siêu nhiên đang ở trên không kia. Một nỗi phấn chấn run rẩy khắp người ông. Đó! Ngay đó đó! Ngay trước mắt ta đó! Đó kìa! Ông chợt nhìn ra sau, lúc nghe tiếng cửa mở. Sharon tuồn vào cùng Chris, người phụ nữ này đứng sững lại, không tin nổi, mồm há hốc: “Ôi, Giê su Kitô!”
“Lạy cha toàn năng, Thiên Chúa hằng sống...”
Nhà đuổi quỷ đưa tay lên trong một cử chỉ thường nhật và thong thả vạch dấu thánh giá ba lần trên chân mày Regan, miệng vẫn không ngừng đọc lời nguyện trong sách lễ, “Là Đấng đã sai con độc sanh của ngài xuống thế gian để đập nát loài sư tử rống kia...”
Tiếng rít ngưng bặt và từ khuôn miệng căng thành hình chữ O của Regan phát ra tiếng rống nhức óc của loài bò tơ.
“... rứt khỏi sự tàn hại và khỏi nanh vuốt của loài quỷ dữ giữa ban trưa con người được tạo dựng theo hình ảnh ngài đây, và...”
Tiếng rống càng to hơn, xé rách cả thịt da, làm bủn rủn cả xương cốt.
“Lạy Thiên Chúa là Đấng Sáng tạo muôn loài...” Merrin đưa tay lên theo thông lệ và ấn một mảng khăn choàng vai lên cổ Regan, trong lúc vẫn cứ cầu nguyện. “... bởi quyền năng ngài, xa tăng đã bị ném từ trời xuống như một tia chớp, xin hãy giáng sự sợ hãi xuống loài mãnh thú đang phá hoại vườn nho của ngài...”
Tiếng rống thét ngừng bặt. Một nỗi yên lặng ngân vang. Thế rồi một cơn nôn mửa đặc sệt, hôi thối từ miệng Regan phọt ra từng đợt đều đặn, nó ứa xuống bờ môi cô bé như những đợt dung nham rồi trôi như những cuộn sóng xuống tay Merrin. Nhưng ông vẫn không hề lay động bàn tay. “Xin bàn tay quyền năng của ngài hãy đuổi loài quỷ dữ này ra khỏi Regan Teresa MacNeil, kẻ...” Karras lơ mơ nhận biết có một cánh cửa được mở ra, nhận biết Chris đang lao ra khỏi phòng.
“Xin hãy xua đuổi kẻ hành hạ đứa trẻ vô tội...”
Chiếc giường bắt đầu lắc lư khe khẽ rồi đứng yên, bất thần, nó hạ xuống một cách mãnh liệt và bay chệch đường, với trớn nôn mửa vẫn ọc ra từ miệng Regan. Merrin bình tĩnh điều chỉnh lại các thứ và ấn chặt khăn choàng lên cổ cô bé.
“Xin ban cho các kẻ tôi tớ ngài đầy lòng can đảm để dũng cảm đương cự lại con rồng bị đầy xuống âm phủ kia, kẻo nó xem khinh những kẻ đã đặt lòng tin cậy nơi ngài và...”
Thình lình, các chuyển động giảm bớt và lúc Karras nhìn như bị thôi miên, chiếc giường trôi dạt như một chiếc lông hồng, rất từ từ, xuống sàn nhà, rồi an vị trên thảm với một tiếng “thịch” nhè nhẹ.
“Hỡi Chúa, xin ban ân cho...”
Tê cóng cả người, Karras đảo tia nhìn sang phía khác. Bàn tay của Merrin. Ông không còn thấy được bàn tay của vị linh mục cao niên ấy nữa. Nó đã bị chôn lấp dưới lớp nôn mửa đùn đống, bốc khói.
“Damien?”
Karras ngước lên.
“Hỡi Chúa, xin hãy nghe lời cầu nguyện tôi”, nhà đuổi quỷ khẽ xướng.
Thong thả, Karras quay trở lại phía giường. “Và hãy để cho tiếng kêu cầu tôi thấu đến ngài!”
Merrin vén chiếc khăn choàng lên, khẽ bước tới trước, rồi ông làm rung chuyển cả phòng với giọng nói bắn ra như một lằn roi, phán truyền: “Hỡi tà linh kia, ta đuổi ngươi ra cùng với mọi quyền năng ma quỷ của kẻ thù! Cùng với mọi thứ tà ma ở địa ngục! Cùng với mọi đồng bọn hung dữ của ngươi!” Bên cạnh ông, bàn tay của Merrin vẫn nhỏ những nhão nhớt nôn mửa xuống thảm trải. “Chính Chúa Kitô là Đấng ra lệnh cho ngươi, là Đấng đã từng khiến gió, biển và dông tố phải lặng đi! Đấng đã...”
Regan thôi mửa. Ngồi lặng yên. Bất động. Đôi tròng mắt long lên vẻ ác độc mà nhìn Merrin. Từ chân giường, Karras nhìn cô gái chằm chặp lúc cơn sốc và nỗi xúc động trong ông bắt đầu dịu đi, lúc tâm trí ông bắt đầu nôn nóng mà đập, mà chọc những ngón tay của nó, một cách thúc bách, một cách tự ý, vào tận những ngóc ngách của mỗi nghi ngờ thuần lý: lũ yêu tinh quấy phá, hành động thần kích, những căng thẳng ở lứa tuổi thanh xuân và lực tâm khiển. Cau mày lúc nhớ lại một điều gì đó, ông đến bên giường, cúi xuống, đưa tay nắm lấy cườm tay Regan. Và ông đã khám phá ra điều ông hằng lo sợ. Giống như người tu sĩ shaman ở Tây bá lợi á, mạch cô bé nhảy với tốc độ không thể tưởng tượng.
Điều đó bổng rút cạn hết nắng trong ông. Vừa nhìn đồng hồ tay, ông vừa đếm nhịp tim, lúc này, giống như những lời biện bác chống lại đời sống ông.
“Chính người là Đấng phán truyền cho ngươi. Ngài là Đấng đã ném ngươi xuống tù các tầng trời!”
Lời phán nguyền mạnh mẽ của Marrin nện ầm ầm ngoài rìa ý thức của Karras bằng những cú đấm tàn nhẫn, vang dội, lúc nhịp mạch lại thoắt nên nhanh hơn. Và nhanh hơn nữa. Karras nhìn Regan. Vẫn yên lặng. Bất động. Trôi vào trong bầu không khí lạnh như nước đá là những màn hơi nước nóng như sương khói thoảng lên từ vũng nôn mửa giống như một của hiến tế nặng mùi. Karras cảm thấy bất an. Thế rồi, đôi tay ông bổng sởn gai ốc. Với một sự thong thả như ác mộng, mỗi lần một nấc một, chiếc đầu Regan đang quay, xoay như một hình nộm, kêu kin kít thứ âm thanh của một bộ máy rỉ sét, cho đến lúc hai tròng trắng đã long lanh, khủng khiếp của đôi mắt ma quái đó dán lấy ông.
“Vậy thì, hỡi quỷ xa tăng, giờ đây ngươi hãy khá run rẩy vì sợ hãi...”
Chiếc đầu nọ thong thả quay trở lại phía Merrin.
“... Ngươi, kẻ làm bại hoại công lý! Ngươi, kẻ sinh ra sự chết! Ngươi, kẻ phản bội các dân tộc! Ngươi, kẻ chiếm đoạt sự sống! Ngươi...”
Karras thận trọng quay lại lúc những ánh đèn phòng bắt đầu chao đảo, lung linh rồi mờ nhạt đi thành một màu hổ phách kỳ quái, giần giật. Ông run rẩy. Lạnh hơn rồi. Căn phòng đã trở nên lạnh hơn trước.
“... Ngươi, quân vương của bọn sát nhân! Ngươi, kẻ phát kiến ra mọi điều thô tục! Ngươi, kẻ thù của loài người! Ngươi..”
Một tiếng nện nghẹt ngòi nảy ra từ căn phòng. Rồi một tiếng nữa. Rồi cứ đều đều, làm rung chuyển suốt các tường phòng, suốt dưới sàn nhà, suốt trên trần phòng, đổ vỡ xoang xoảng, đập với một nhịp độ chậm chạp như nhịp đập của một quả tim đồ sộ và bệnh tật.
“Hỡi loài quái vật kia! Hãy ra khỏi đây! Chỗ của ngươi là nơi vắng vẻ! Trụ sở của ngươi là hang rắn độc! Hãy xuống mà bò lết với chúng nó. Chính Thiên Chúa là Đấng truyền cho ngươi! Máu của...”
Các tiếng nện trở nên ầm ỹ hơn, bắt đầu xuất hiện càng lúc càng nhanh một cách đáng ngại.
“Ta truyền cho ngươi, hỡi con rắn ngày xưa...”
Và nhanh hơn nữa...
“... nhân danh Đấng phán xét kẻ sống và kẻ chết, nhân danh Đấng tạo hóa ngươi, nhân danh Đấng Sáng tạo và toàn vũ trụ, để...”
Sharon hét lên, đưa hai tay bịt chặt đôi tai lúc tiếng nện trở nên đinh tai nhức óc và lúc này chúng chợt tăng tốc và vọt lên một nhịp độ khủng khiếp.
Mạch của Regan thật đáng kinh hãi. Nó đập với một tốc độ nhanh không thể đo nổi. Phía bên kia giường, Merrin bình thản đưa đầu ngón tay cái ra vạch dấu thánh giá lên bờ ngực đầy rãi nhớt nôn mửa của Regan. Những lời cầu nguyện của ông bị nuốt chửng trong tiếng nện vang rền.
Karras cảm thấy nhịp mạch đột ngột tụt hẳn, và lúc Merrin cầu nguyện và vạch dấu thánh giá trên chân mày Regan, những tiếng nện quái đản kia chợt chấm dứt.
“Ôi, hỡi Thiên Chúa của trời và đất, hỡi Thiên Chúa của các thiên thần và các trưởng thiên thần...”
Karras lúc này đã nghe được tiếng cầu nguyện của Merrin trong khi nhịp mạch của Regan cứ tiếp tục giảm xuống, giảm xuống nữa...
“Hỡi đứa con hoang phách lối là Merrin kia! Đồ cặn bã kia! Mi sẽ thua! Con nhỏ này sẽ chết! Con heo này sẽ chết!”
Lớp sương mù lung linh đã dần hồi trở nên sáng sủa hơn. Hiện thân của con quỷ đã trở lại và trút nỗi giận dữ hằn học lên Merrin. “Đồ con công vênh váo phóng đãng kia! Đồ tà giáo xưa rích! Tao truyền cho mi, hãy quay lại mà nhìn tao đây. Nào, hãy nhìn tao đây, đồ cặn bã kia!” Con quỷ bật tới trước nhổ vào mặt Merrin, rồi ồm ồm giọng bảo ông. “Đó là cách ông thầy của mày chữa mắt cho người mù đấy!”
“Hỡi Thiên Chúa là Chúa của muôn loài thọ tạo...” Merrin cứ cầu nguyện vừa bình thản rút khăn ra lau bãi khạc nhổ.
“Nào, hãy làm theo lời dạy của thầy mày đi, Merrin! Làm đi! Hãy đút con c... thánh hóa của mày vào mồm con heo kia mà tẩy rửa nó, lau chùi nó với cái thánh tích nhăn nheo đó, thế nào con nhỏ cũng được chữa lành đấy, Thánh Merrin ạ! Một phép lạ! Một...”
“... xin hãy cứu vớt kẻ tôi tớ...”
“Đồ giả hình! Mi cóc có xót thương gì con heo đó cả. Tuyệt không! Mi chỉ dùng nó làm cuộc đọ sức giữa tao và mi đó thôi!”
“... Tôi khiêm cung...”
“Đồ dối trá! Thằng con hoang dối trá! Nói cho bọn tao nghe thử, mi khiêm cung ở chỗ nào, hở Merrin? Nơi sa mạc chăng? Nơi các phế tích chăng? Trong các lăng mộ mà ngươi đã đào thoát để trốn tránh kẻ đồng loại mi đó chăng? Để trốn tránh những kẻ thấp thỏi hơn mi, trốn tránh sự khập khiễng và què quặt của thần trí mi đó chăng? Mi có nói với những con người không, hở thứ nôn mửa kính tín kia?...”
“... xin hãy cứu vớt...”
“Trú sở của mi là ở nơi hang ổ của loài công vênh váo. Merrin à! Nơi chỗ của mi chính là ở trong con người mi! Hãy trở lên đỉnh núi mà nói năng với kẻ đồng vai phải lứa duy nhất của mi đi!..”
Merrin cứ cầu nguyện không thôi, không buồn để ý đến những lời nhục mạ tuôn đến như sóng thác. “Ngài có đói không, thưa Thánh Merrin? Đây, tôi xin dâng ngài rượu tiên và cỗ bàn thần thánh, tôi xin dâng ngài thức ăn của Thiên Chúa của ngài!” Con quỷ phát giọng ồm ồm. Nó đại tiện ra như tiêu chảy.
Quá sức tởm lợm, Karras cố chú ý vào sách lễ, lúc Merrin đọc một đoạn trong sách Phúc Âm thánh Luke.
“... Tên tôi là Đạo binh - người ấy trả lời, vì có nhiều ác quỷ đã nhập vào y. Sau đó lũ quỷ cầu xin Giê su đừng bắt chúng đi vào vực thẳm. Bấy giờ có một đàn heo đang ăn trên triền núi ở đó. Lũ quỷ nài xin Giê su cho chúng nhập vào đàn heo kia. Và ngài cho phép chúng. Lũ quỷ liền ra khỏi người nọ và nhập vào đàn heo, đàn heo liền lao xuống vách đá, rơi xuống hồ và chết chìm hết thảy. Và...”
“Willie này, ta đem đến cho mi tin tức tốt lành đây!” Con quỷ nói ồm ồm. Karras ngước lên trông thấy Willie cạnh cửa, chị ta đứng sững lại với một ôm khăn và khăn trải giường trên tay. “Ta đem đến cho mi tin tức cứu chuộc đây!” Nó hể hả. “Elvira còn sống! Con nhỏ còn sống! Nó là...”
Willie nhìn trừng trừng trong nổi chấn động. Lúc đó, Karl quay lại hét với chị. “Không, Willie! Không phải đâu!”
“... một đứa nghiện ma túy, Willie ạ, một đứa nghiện ngập vô phương...”
“Willie, đừng có nghe!” Karl kêu lên.
“Ta nói cho mi biết con nhỏ ở đâu nhé?”
“Đừng có nghe! Đừng có nghe!” Karl vội đẩy Willie ra khỏi phòng.
“Hãy đi mà thăm con nhỏ vào Ngày Lễ Các Bà Mẹ đi, Willie ạ! Hãy cho con bé ngạc nhiên một mẻ! Đi mà!”
Thình lình con quỷ ngưng ngang và chiếu mắt vào Karras. Ông lại thăm mạch và thấy mạch vượng, thế có nghĩa là an toàn để chích thêm Librium cho Regan. Ông đến bên Sharon dặn cô gái chuẩn bị chích thêm một mũi nữa. “Mi có khoái con nhỏ không?” Con quỷ liếc mắt dâm đãng. “Nó là của mi đó! Đúng, con đĩ chuồng ngựa này là của mi đó! Mi cứ tha hồ mà cỡi! Chà, đêm nào con nhỏ đó cũng tơ tưởng đến mi, Karras à! Nó vừa thủ dâm, vừa mơ tới cái của quý bự sự của bậc cha cố...”
Sharon đỏ mặt, nhìn đi chỗ khác lúc Karras dặn dò cô về vụ thuốc Librium.
“Thêm một viên tọa dược Compazine trong trường hợp bị nôn mửa nữa”, ông dặn thêm.
Sharon gật đầu nhìn sàn nhà rồi bước đi, cứng cả người.
Lúc cô bước qua giường, đầu vẫn cúi gầm, Regan ồm ồm bảo cô, “Đồ gái thúi!” rồi bật người tới trước bắn vào mặt cô một tràn nôn mửa có vòi, rồi giữa lúc Sharon đứng chết trân ở đó, người ướt đẫm dãi nhớt, thì bản ngã của Dennings xuất hiện, giọng nghiến trèo trẹo. “Đồ đĩ chuồng ngựa! Đồ mặt l...!”
Sharon chạy bay biến ra khỏi phòng.
Nhân vật Dennings lúc đó nhăn mặt lại vì nhờm gớm, nhìn quanh và hỏi. “Có ai vui lòng mở hé cửa sổ ra được không? Cái phòng này hôi thối bỏ cha đi! Đúng là...”
“Thôi, thôi, thôi, đừng!” nó đính chính sau đó. “Thôi, vì có Chúa, chớ có mở, không thôi lại có kẻ khác chết thẳng cẳng ra đấy”. Rồi nó cười khằng khặc, nheo mắt với Karras một cách quái đản rồi biến mất.
“Chính Ngài là đấng trục xuất ngươi..”
“Ngài có làm không, hở Merrin? Ngài có làm không?”
Lúc này con quỷ đã trở lại và Merrin tiếp tục phán nguyền, tiếp tục áp tấm khăn choàng và tiếp tục vạch dấu thánh giá mặc cho con quỷ cứ quất vào mặt ông những lới thô bỉ tục tĩu. Quá sức lâu, Karras lo lắng, cơn chứng này đã kéo dài liên tục quá đỗi lâu rồi.
“Bây giờ đến lượt con heo nái đến kìa! Mẹ của con heo con”. Con quỷ nhạo báng.
Karras quay lại, thấy Chris đang tiến về phía ông với một miếng gạc và một ống chích. Nàng cứ cúi gầm mặt xuống lúc con quỷ văng những lời nhục mạ, còn Karras đi về phía nàng, mặt cau lại.
“Sharon bận thay quần áo”, Chris giải thích, “còn Karl đang mãi...”
Karras cắt ngang lời nàng bằng mấy tiếng. “Được rồi”, và cả hai đến bên giường.
“À phải, hãy đến mà xem công trình của mi đây, con nái sề kia! Nào!”
Chris cố sức đến cùng cực để đừng nghe, đừng nhìn trong lúc Karras ghìm chặt đôi tay không còn phản kháng của Regan.
“Xem cái đống nôn mửa đó đi! Xem cái con chó cái sát nhân ấy đi!” Con quỷ giận dữ. “Mi hài lòng chưa? Chính mi mới là thủ phạm của vụ đó! Phải, chính mi với cái thói xem trọng nghề nghiệp hơn bất cứ chuyện gì, xem trọng nghề nghiệp của mi hơn chồng, hơn con bé đó, hơn...”
Karras quay lại nhìn. Chris đứng chết trân. “Đi đi!” Ông ra lệnh. “Đừng có nghe! Đi đi!”
“... chuyện ly dị của mi! Đi tới tìm các linh mục, đúng không? Các linh mục sẽ không giúp đỡ được gì đâu!” Tay Chris bắt đầu run. “Con nhỏ điên rồi. Nó điên rồi! Con heo con này điên rồi! Chính mi đã đẩy nó tới chỗ điên loạn, tới chỗ giết người và...”
“Tôi không thể!” Mặt nhăn nhúm, Chris nhìn sững ống chích đang run bần bật. Lắc đầu. “Tôi không thể làm được!”
Karras rút ống chích ra khỏi mấy ngón tay nàng. “Được rồi, xoa gạc đi! Xoa trên cánh tay ấy! Chỗ này này!” Ông bảo nàng, giọng quả quyết.
“... trong quan tài của con nhỏ, đồ chó cái kia ạ, bên...”
“Đừng nghe!” Karras lại nhắc nhở, lúc này con quỷ quay ngoắc đầu lại, đôi mắt nó lồi ra giận dữ. “và mày nữa, Karras!”
Chris xoa gạc lên cánh tay Regan. “Bây giờ, ra khỏi đây ngay!” Karras lệnh cho nàng, vừa đẩy nhanh mũi kim vào lớp thịt gầy mòn.
Nàng chạy mất.
“Vâng, bọn tao đã biết về lòng nhân hậu của mi đối với các bà mẹ, Karras ạ!” Con quỷ ồ ề. Vị linh mục Dòng Tên chùn bước lại và trong khoảng khắc ông không nhúc nhích. Rồi từ từ, ông rút kim ra và nhìn thẳng vào đôi mắt đã trợn trừng hẳn vào hai hốc mắt. Từ miệng Regan phát ra một lời hát du dương, dìu dặt, gần như ngân nga, bằng một chất giọng trong trẻo, dịu dàng như một lễ sinh trong dàn hợp xướng. “Tantum ergo sacramentum veneremur cernui...”
Đó là một thánh ca được xướng lên vào lúc chúc phúc trong lễ nghi Thiên Chúa giáo. Karras đứng đó, mặt không còn chút máu lúc lời hát cứ nhặt khoan, kỳ quặc và buốt cóng. Tiếng hát ấy là một cõi chân không mà Karras cảm thấy một cách rõ ràng khủng khiếp nỗi hãi hùng của buổi tối hôm đó đã sấn vào trong. Ông bước lên thấy Merrin hai tay cầm một chiếc khăn lau. Bằng những động tác dịu dàng, mệt mỏi, ông lau sạch những vết nôn mửa dính trên mặt và cổ Regan.
“... et antiquum documentum...”
Tiếng hát. Giọng của ai vậy kìa? Karras thắc mắc. Thế rồi những mảnh vụn vỡ cũ, Dennings... Cánh cửa sổ... Lòng ngổn ngang trăm lối, ông trông thấy Sharon trở lại phòng đỡ chiếc khăn trên tay Merrin. “Thưa cha, cha cứ để cho tôi”, cô gái bảo ông. “Lúc này tôi đã ổn rồi. Tôi muốn thay quần áo cho cháu và lau người cháu cho sạch sẽ trước khi đặt thuốc Compazine cho nó, được chứ ạ? Xin hai cha vui lòng ra ngoài đợi cho một chút”.
Hai vị linh mục bước ra vùng ấm áp và cõi ánh sáng lờ mờ của dãy hành lang, rồi mệt mỏi dựa lưng vào tường.
Karras lắng nghe tiếng hát kỳ lạ, nghèn nghẹn phát ra từ trong phòng. Sau đó ít lâu, ông khẽ ngỏ lời cùng Merrin. “Cha có nói - lúc nãy cha có nói là chỉ có... một thực thể mà thôi”.
“Phải”.
Những giọng nói rất khẽ, những mái đầu cúi thấp, đúng là khung cảnh của buổi xưng tội.
“Tất cả những hình thức khác chỉ là những hình thức tấn công mà thôi”. Merrin nói tiếp. “Chứ chỉ có một... có một mà thôi. Đó là một ác quỷ”. Một lúc yên lặng. Sau đó, Merrin phát biểu đơn giản, “Tôi biết cha nghi ngờ việc này. Nhưng cha thấy đó, con quỷ này, tôi đã gặp một lần trước đây rồi. Nó rất mạnh mẽ... mạnh mẽ”.
Một lúc yên lặng. Karras lại nói. “Chúng ta nói là quỷ... không thể động đến ý chí nạn nhân được”.
“Phải, đúng như thế... đúng như thế đấy... không có gì là tội lỗi”.
“Thế thì quỷ ám để nhằm mục đích gì?” Karras cau mày, nói. “Trọng tâm của nó là gì?”
“Nào ai biết”, Merrin đáp. “Nào ai có thể hy vọng mười mươi rằng mình biết?” Ông suy nghĩ chốc lát. Rồi tiếp tục nói một cách thăm dò. “Có điều tôi cho rằng mục tiêu của quỷ không nhằm vào người bị quỷ ám, mà là nhắm vào chúng ta... những kẻ quan sát... tất cả mọi người trong ngôi nhà này. Và tôi nghĩ rằng trọng tâm của nó là nhằm làm cho chúng ta tuyệt vọng, làm cho chúng ta chối bỏ chính nhân cách của chúng ta, Damien ạ! Để rồi rốt ráo chúng ta tự xem mình là thú vật, là đê tiện và thối tha, không chút phẩm cách, xấu xí, bất xứng. Vì bởi tôi nghĩ lòng tin vào Thiên Chúa không hề là một vấn đề lý trí, tôi cho rằng rốt cuộc đó là một vấn đề của tình yêu, của việc chấp nhận rằng Thiên Chúa có thể yêu thương chúng ta...”
Một lần nữa, Merrin lại ngừng. Ông nói tiếp thong thả hơn và với vẻ tra xét nội tâm thầm kín. “Hắn biết... Quỷ biết phải đánh vào chỗ nào...” Ông gật đầu. “Đã lâu lắm rồi, tôi không hy vọng là mình yêu thương được kẻ lân cận của mình. Có lắm kẻ... cứ khiến tôi lộn ruột, gớm ghét quá đổi. Làm sao tôi yêu họ được? Tôi nghĩ. Điều đó đã giày vò tôi, Damien ạ, nó khiến tôi tuyệt vọng về chính bản thân mình... và từ đó, rất nhanh chóng thôi, đi đến chỗ tuyệt vọng về Thiên Chúa của tôi. Đức tin tôi bị đổ vỡ tan tành...”
Karras ngước nhìn Merrin, đầy vẻ chú ý. “Rồi chuyện gì xảy ra?” Ông hỏi.
“À vâng, rốt cuộc tôi nhận thức được rằng Thiên Chúa không hề đòi hỏi tôi cái điều mà tôi biết là bất khả về mặt tâm lý, rằng tình yêu mà ngài đòi hỏi tôi nằm trong ý chí của tôi chứ không hề có nghĩa là tôi phải cảm nhận được nó như một tình cảm. Không hề. Ngài đòi hỏi tôi hành động với tình yêu thương, rằng tôi hãy làm như vậy với tha nhân, rằng tôi cần phải làm như vậy đối với những kẻ tôi gớm ghét, điều mà tôi tin là một hành động yêu thương lớn lao hơn bất cứ hành động nào khác”. Ông lắc đầu. “Tôi biết rằng tất cả mọi điều này xem ra hẳn phải hết sức là hiển nhiên Damien ạ, tôi biết thế lắm. Nhưng vào lúc ấy tôi đâu có thấy được. Thật là một sự mù quáng kỳ lạ. Có biết bao cặp vợ chồng”, ông buồn bã nói, “hẳn phải tin là họ đã hết yêu thương nhau vì quả tim họ không còn đập bồi hồi mỗi khi trông thấy bóng dáng những người họ yêu dấu! Ôi lạy Chúa!” Ông lắc đầu, rồi lại gật đầu. “Damien ạ, tôi nghĩ ở đó đã nằm phục sẵn... quỷ ám rồi đó, không phải là trong thời chiến tranh đâu, như một số người có khuynh hướng tin như vậy, không bao nhiêu đâu và càng rất hiếm hoi trong những tình huống phi thường như thế này đây... cháu gái này đây... đứa trẻ tội nghiệp này.. Không, tôi thấy nó thường xảy ra nhất trong những vụ việc nhỏ nhặt, Damien ạ, trong những mối tị hiềm hèn mọn vô nghĩa, những sự hiểu lầm, trong lời lẽ cay độc, tàn nhẫn bất ưng nảy trên đầu lưỡi giữa vòng bạn bè với nhau. Giữa những người tình. Những vụ này thì ta có đủ”, Merrin thầm thì, “và chúng ta có cần gì đến quỷ xa tăng để gây ra những cuộc chiến tranh cho chúng ta đâu, trong những cuộc chiến tranh này chúng ta tự gây ra cho chính mình... cho chính mình...”
Tiếng hát du dương vẫn còn nghe thấy trong phòng ngủ. Merrin ngước lên nhìn cánh cửa phòng và lắng nghe một lúc. “Ấy thế mà thậm chí từ việc này - từ sự dữ này - vẫn sẽ nảy sinh ra điều tốt. Trong một cách thế nào đó, mà, có thể chúng ta sẽ chẳng bao giờ hiểu được hay từng thấy được... Có lẽ điều ác chính là lò thử luyện của cái thiện”, ông trầm mặc. “và, có lẽ thậm chí quỷ xa tăng - hoàn toàn bất đắc dĩ - một cách nào đó cũng đã giúp sức vào việc thực hiện ý chí của Thiên Chúa”.
Ông không nói gì thêm, và suốt một lúc, hai người cứ đứng lặng thinh trong lúc Karras suy nghĩ. Một sự phản đối khác lại xuất hiện trong tâm trí. “Một khi quỷ đã bị đuổi ra rồi”, ông dò la, “có cách gì ngăn nó không trở lại được không?”
“Tôi không biết”, Merrin đáp. “Tôi không biết nữa. Tuy nhiên, điều đó dường như không bao giờ xảy ra. Không bao giờ”. Merrin đưa một bàn tay lên mặt, khẽ véo vào các khóe mắt. “Damien... thật là một cái tên kỳ diệu”. Ông thầm thì. Karras nghe được vẻ nhọc mệt trong giọng nói đó. Và một cái gì khác nữa. Một sự xao xuyến nào đó. Một cái giống như sự đè nén một cơn đau.
Thình lình, Merrin đẩy mình ra khỏi tường, tay vẫn ôm lấy mặt, ông cáo lỗi rồi tất bật xuôi hành lang đi đến phòng tắm. Có chuyện gì vậy? Karras tự hỏi. Ông bỗng cảm thấy thèm thuồng và ngưỡng mộ đức tin đơn sơ và mạnh mẽ của người đuổi quỷ. Ông quay về phía cửa phòng. Tiếng hát. Nó đã ngừng. Rốt cuộc thì đêm đã tàn rồi chăng?
Vài phút sau, Sharon từ phòng ngủ đi ra với mớ khăn trải giường và quần áo nặc mùi hôi thối. “Con bé ngủ rồi”, cô gái nói. Cô vội nhìn đi chỗ khác rồi di chuyển xuống hành lang.
Karras hít một hơi thở dài và trở lại phòng ngủ. Cảm thấy lạnh giá. Ngửi thấy mùi hôi nồng nặc. Ông chậm bước đến bên giường. Rốt cuộc, Regan đã ngủ được, và rốt cuộc Karras nghĩ, ông cũng đã có thể nghỉ ngơi.
Ông với tay xuống nắm lấy cườm tay gầy nhom của Regan, vừa nhìn chiếc kim giây chạy loang loáng trên mặt đồng hồ đeo tay của ông...
“Sao con lại làm điều này với ta, hỡi Dimmy?”
Tim ông tê cóng lại.
“Sao con lại làm điều này chứ?”
Vị linh mục không sao cử động được, không thở, không dám liếc xuống phía giọng nói sầu thảm ấy, không dám nhìn đôi mắt thực sự ở đó; đôi mắt thống trách, đôi mắt đơn độc. Mẹ ông đấy. Mẹ ông!
“Con đã bỏ mặc ta để đi làm linh mục, Dimmy ạ, con đã tống khứ ta vào Viện...”
Đừng có nhìn!
“Bây giờ con xua đuổi ta đi sao?”
Không phải bà cụ đâu!
“Sao con lại làm điều này chứ?”
Đầu ông choáng váng, quả tim như chận lấy họng. Karras nhắm nghiền mắt lại lúc cái giọng nói đó trở nên van lơn, trở nên sợ sệt, trở nên đẫm lệ. “Con luôn luôn là đứa bé ngoan mà, Dimmy! Mẹ van con! Mẹ sợ lắm! Xin đừng đuổi mẹ ra ngoài, Dimmy nhé! Van con!”
.... không phải là mẹ ta đâu!
“Bên ngoài trống vắng! Chỉ có tối tăm thôi, Dimmy ạ! Quạnh quẽ thôi!” Giọng nói lúc đó đẫm lệ.
“Ngươi không phải là mẹ ta!” Karras thì thào.
“Dimmy, van con!...”
“Ngươi không phải là...”
“Ôi, vì cớ Chúa, này Karras!”
Dennings rồi.
“Này, đuổi chúng tôi ra khỏi đây là không công bằng chút nào đấy! Thật đó. Tôi muốn nói là, chỉ nói riêng về phần tôi, chuyện tôi ở lại đây hiển nhiên là đúng rồi! Con chó nhỏ này! Nó đã cướp mạng tôi nên tôi nghĩ đương nhiên là tôi có quyền được cư ngụ trong thân thể nó, ông có nghĩ thế không? Ôi, vì cớ Chúa Kitô, Karras ạ, xin ông hãy nhìn tôi đây, nào, nhìn chứ? Nào, tôi cũng chẳng mấy khi được xuất hiện để có dịp ăn nói đâu. Bây giờ, hãy quay lại ngay đi!”
Karras mở mắt ra và trông thấy bản ngã của Dennings.
“Thế chứ, thế có hơn không! Nghe đây, con nhỏ này đã giết tôi. Chứ không phải là tên quản gia đâu, Karl thích con bé đó! Ông thấy, tôi đang mãi mê với công việc của mình ở quầy rượu thì chợt tôi ngờ là nghe thấy tiếng nó rên rỉ. Trên lầu. Với lại lúc đó tôi thấy cũng cần phải lên xem thử nó bị bệnh gì, thế là tôi đi lên và ông biết không, con nhỏ trời đánh thánh đâm đó nó chụp lấy cổ họng tôi, cái đồ oắt con đó!” Giọng nói lúc này trở nên than vãn, thương tâm. “Lạy Chúa, trong đời tôi chưa bao giờ được chứng kiến một sức mạnh khủng khiếp đến thế! Nó bắt đầu hét toáng lên rằng tôi lừa đảo mẹ nó hay một chuyện gì đó, hoặc tôi đã gây ra vụ ly dị của bố mẹ nó. Đại loại những chuyện như thế. Không rõ lắm. Nhưng tôi bảo cho ông biết cái này, cưng ạ, con nhỏ đã xô tôi ra khỏi cánh cửa sổ chết bầm đó”. Giọng nói nghiến ken két. Lúc này cao lanh lảnh. “Nó đã giết tôi! Mẹ kiếp, nó đã giết tôi! Vậy mà bây giờ ông cho rằng đuổi tôi ra là công bằng lắm à! Nào, Karras, hãy trả lời tôi đi! Ông cho rằng như vậy là thực sự công bằng sao? Tôi hỏi thật đó, ông cho là vậy sao?”
Karras nuốt nước bọt.
“Có hay không?” Nó thúc giục. “Có công bằng không?”
“Làm thế nào mà... cái đầu lại quay ngược ra đằng sau?” Karras khàn giọng hỏi.
Dennings đảo tia nhìn ra sau, có vẻ tránh né. “Ồ thì, chỉ là một tai nạn thôi... một chuyện bất thường... Tôi đụng phải bậc cấp... Chuyện đó thật bất thường”.
Karras ngẫm nghĩ, cổ họng ông khô se. Rồi ông lại nhấc cườm tay Regan lên, vừa nhìn đồng hồ tay như một động tác phủi bỏ chuyện đó.
“Dimmy van con! Đừng bắt mẹ ở một mình!”
Mẹ ông!
“Phải chi con đừng làm linh mục mà làm bác sĩ, thì mẹ đã được ở nhà cao cửa rộng, đâu có gián có bọ, đâu có thui thủi một mình trong căn hộ đó! Rồi...”
Ông rán hết sức bỏ ngoài tai không thèm nghe, nhưng giọng đó bắt đầu khóc nữa.
“Dimmy, van con!”
“Ngươi không phải là...”
“Mi không dám đối mặt với sự thật sao, hở đồ cặn bã hôi thối kia?” Đó là con quỷ. “Mi tin điều Merrin nói với mi chăng?” Nó sục sôi. “Mi tin hắn là thánh thiện, tốt lành sao? Hừ, hắn không phải vậy đâu! Hắn kiêu căng và không xứng đáng gì! Ta sẽ chứng tỏ điều đó cho mi thấy, Karras ạ! Ta sẽ chứng tỏ điều ấy bằng cách giết chết con heo con này!”
Karras mở choàng mắt. Nhưng vẫn không dám ngó.
“Phải, con nhỏ sẽ chết và Thiên Chúa của Merrin sẽ không cứu nó đâu, Karras ạ! Mi sẽ không cứu nó được đâu! Nó sẽ chết vì thói kiêu căng của Merrin và bởi sự bất tài vô tướng của mi! Hỡi tên thợ vụng về kia! Lẽ ra mi đừng chích Librium cho con nhỏ!”
Lúc đó Karras quay lại và nhìn vào đôi mắt ấy. Đôi mắt đó sáng ngời lên tia chiến thắng và niềm thù ghét sâu sắc.
“Bắt mạch con nhỏ đi!” Con quỷ cười toe toét. “Nào, Karras, bắt mạch đi chứ?”
Cườm tay Regan vẫn còn nằm trong tay ông, và lúc đó ông cau mày đầy lo ngại. Mạch đập nhanh và...
“... rất yếu”. Con quỷ ồm ồm giọng. “À, phải rồi. Chuyện vặt mà. Đối với lúc này, chỉ là tí tỉnh thôi”.
Karras đi lấy túi y khoa và một ống nghe ra. Con quỷ nói như rít. “Nghe đây, Karras! Nghe cho kỹ vào!”
Karras lắng nghe. Những tiếng tim đập nghe xa vời và bạc nhược.
“Tao quyết không để cho nó ngủ đâu!”
Karras ngước nhanh nhìn con quỷ, ông cảm thấy lạnh cóng.
“Đúng rồi, Karras!” nó ồ ề nói. “Con nhỏ không ngủ đươc đâu! Mi nghe chưa? Tao quyết không để cho con heo con đó ngủ đâu!”
Lúc Karras co cóng người lại mà nhìn sững thì con quỷ ngả ngớn đầu ra sau mà cười hể hả. Ông không nghe thấy tiếng Merrin trở lại phòng.
Nhà đuổi quỷ đứng cạnh ông bên giường và xem xét kỹ khuôn mặt ông. “Chuyện gì vậy?” ông ta hỏi.
Karras lờ đờ đáp. “Con quỷ... bảo là hắn sẽ không để cho cô bé ngủ”. Ông đưa tia mắt bị ám ảnh lên nhìn Merrin. “Tim cô bé bắt đầu làm việc yếu hẳn, thưa cha. Nếu cô bé không được nghỉ ngơi ngay, cô bé sẽ chết vì trụy tim”.
Nét mặt Merrin lộ vẻ nghiêm trọng. “Cha có thể cho cháu dùng thuốc gì được không? Một thứ thuốc gì giúp cháu ngủ được?”
Karras lắc đầu, “Không, làm thế nguy hiểm lắm. Cô bé có thể rơi vào trạng thái hôn mê”. Ông quay lại lúc Regan cục ta cục tác như một con gà mái. “Nếu huyết áp của cô bé còn tụt xuống chút xíu nào nữa...” Ông dài dài giọng.
“Có thể làm gì được?” Merrin hỏi.
“Không còn cách nào... không còn cách nào...” Karras đáp. “Nhưng tôi cũng không biết nữa. Có lẽ những tiến bộ mới...” Ông chợt bảo Merrin. “Tôi sẽ mời ngay một nhà chuyên khoa tim mạch, thưa cha”.
Merrin gật đầu.
Karras bước xuống cầu thang. Ông thấy Chris vẫn còn thức trong bếp, và từ trong phòng bên ngoài gian chứa thực phẩm, ông nghe thấy tiếng Willie nức nở, nghe thấy giọng Karl an ủi vợ. Ông giải thích sự cần thiết phải tham khảo ý kiến của bác sĩ chuyên môn, thận trọng không tiết lộ cho nàng biết về tình trạng nguy kịch của Regan. Chris chấp thuận. Karras gọi điện thoại cho một thân hữu, một chuyên gia nổi tiếng của trường Y khoa thuộc Viện Đại học Georgetown, đánh thức ông ta dậy và trình bày vắn tắt cho ông ta rõ.
“Sẽ đến ngay”, chuyên gia này nói.
Không đấy nữa giờ sau, vị này đã có mặt ở ngôi nhà. Trong phòng ngủ, phản ứng của ông là hoang mang trước cái lạnh và mùi xú uế, đồng thời hãi hùng và thương xót cho tình trạng của Regan. Cô bé lúc này đang ồm oàm những lời huyên thuyên. Lúc nhà chuyên khoa khám cô bé, cô bé cứ khi thì hát hỏng, lúc lại phát ra những tiếng súc vật inh ỏi. Rồi Dennings xuất hiện.
“Ôi, thật kinh khủng”, nó than vãn với nhà chuyên khoa. “Kinh khủng quá! Ôi, tôi cứ mong là ông có thể làm được một điều gì đó! Liệu có thể có một cái gì không? Ông thấy đó, chúng tôi thì có chỗ nào để đi, mặt khác, tất cả cũng tại vì...Ôi, mẹ cha cái con quỷ ngoan cố đó!” Lúc nhà chuyên khoa vừa nhìn trừng trừng đầy vẻ kỳ quặc, vừa đo huyết áp cho Regan, Dennings nhìn Regan mà than vãn. “Ông đang làm cái quái quỷ gì thế này? Há ông không thấy là cần phải đưa con nhỏ này vào bệnh viện sao? Con nhỏ cần phải ở nhà thương điên mới đúng, Karras à! Bây giờ thì ông biết rồi đó. Hẳn là vậy rồi! Vậy hãy chấm dứt ba cái vụ lễ bái lố lăng cứt đái này đi! Ông biết đó, nếu bây giờ nó chết thì đó là lỗi tại ông! Hoàn toàn là lỗi ông thôi. Ý tôi muốn nói là, chỉ vì cớ hắn ngoan cố không có nghĩa là ông cần phải cư xử như một tên chó đểu! Ông là một bác sĩ, ông phải biết rõ hơn chứ, Karras! Nào, thời buổi này nhà cửa khan hiếm kinh khủng. Nếu chúng tôi bị...”
Lúc đó, con quỷ lại tái xuất hiện, tru tréo như một con sói. Vị bác sĩ chuyên khoa nét mặt vô cảm, tháo dải quấn của huyết áp kế ra. Rồi ông gật đầu với Karras. Ông đã xong.
Họ đi ra hành lang, đến đó vị bác sĩ chuyên khoa nhìn lại cánh cửa phòng ngủ một lúc rồi quay sang Karras. “Cái quái gì đang xảy ra trong đó vậy, thưa cha?”
Vị tu sĩ Dòng Tên ngoảnh mặt đi chỗ khác. “Tôi không thể nói được”, ông khẽ nói.
“Tốt thôi”.
“Tình hình ra sao?”
Vị bác sĩ chuyên khoa lộ vẻ ảm đạm. “Cô bé cần phải chấm dứt ngay hoạt động như thế... ngủ... ngủ trước khi huyết áp tụt thấp”.
“Tôi có thể làm được điều gì không hở Bill?”
Vị bác sĩ chuyên khoa nhìn thẳng vào mắt Karras và nói, “Cầu nguyện”.
Ông chúc linh mục ngủ ngon rồi bước đi. Karras nhìn theo ông, từng mạch máu, từng sợi dây thần kinh đều cầu xin sự an nghĩ, cầu xin sự hy vọng, cầu xin phép lạ dù ông biết rõ là không thể có chuyện đó được. “Lẽ ra mi đừng chích Librium cho con nhỏ!”
Ông quay trở lại phòng, đẩy cánh cửa ra bằng một bàn tay nặng nề như tấm linh hồn ông. Merrin đứng bên giường, quan sát trong lúc Regan cứ hí lên the thé như ngựa. Ông nghe tiếng Karras bước vào, bèn nhìn người đồng liêu, vẻ han hỏi. Karras lắc đầu. Merrin gật đầu. Gương mặt ông thoáng vẻ buồn, rồi là vẻ cảm nhận, và lúc ông quay lại Regan, đã là vẻ dứt khoát quyết liệt.
Merrin quỳ xuống bên giường. “Lạy cha chúng tôi”. Ông bắt đầu.
Regan té tát vào mặt ông chất mật xanh tươi và đen ngòm, rồi ồm oàm. “Mi sẽ thua! Con nhỏ sẽ chết! Nó sẽ chết!”
Karras nhặt tập sách lễ của ông lên. Mở ra. Ngước lên và nhìn chăm Regan.
“Xin hãy cứu vớt kẻ tôi tớ ngài”, Merrin cầu nguyện.
“Trước mặt kẻ thù”.
Trong cõi lòng Karras là một nỗi đau quặn thắt cực cùng. Ngủ đi! Hãy ngủ đi! Ý chí ông kêu thét lên điên cuồng.
Nhưng Regan vẫn không ngủ.
Tảng sáng cũng không.
Trưa cũng không.
Đến đêm cũng không.
Đến ngày Chủ nhật cũng không, lúc mà nhịp mạch đã lên đến một trăm bốn mươi yếu hơn nữa, trong khi các cơn chứng vẫn tiếp tục không ngớt, trong khi Karras và Merrin vẫn liên tục hành lễ không hề ngủ nghỉ. Karras nôn nả lùng tìm những phương chữa: một tấm trải quấn chặt lấy Regan để giảm các cử động đến mức tối thiểu, cho hết mọi người ra khỏi phòng trong một thời gian để xem thử nếu không có cớ khích động, các cơn chứng có thể chấm dứt hay không. Chẳng ăn thua gì. Tiếng la thét của Regan cũng đã suy kiệt như các động tác của nó. Vậy mà huyết áp vẫn cầm cự được. Nhưng được bao lâu nữa? Karras đau đớn tột cùng. Ôi Chúa! Xin chớ để cho nó chết! Ông kêu lên không ngừng với chính mình. Chớ để nó chết! Hãy cho nó ngủ được! Hãy cho nó ngủ được! Chưa bao giờ ông ý thức được rằng những tư tưởng của ông là lời cầu nguyện, duy có điều là lời cầu nguyện chẳng bao giờ được nhận.
Lúc bảy giờ tối Chủ nhật đó, Karras ngồi câm nín cạnh Merrin trong phòng ngủ, mệt nhoài và khốn khổ, khốn nạn vì những đợt tấn công quỷ quái: sự thiếu đức tin của ông, sự bất tài bất lực của ông, sự trốn chạy của ông khỏi người mẹ để mưu tìm một địa vị. Và Regan. Lỗi của ông. “Lẽ ra mi đừng chích Librium cho con nhỏ”.
Hai vị linh mục vừa chấm dứt một đợt lễ. Họ nghỉ ngơi, lắng nghe Regan hát bài “Panis Angelicus”. Họ ít khi rời phòng, Karras chỉ một lần để thay quần áo và tắm vòi sen. Nhưng trong cái lạnh kể ra cũng dễ mà tỉnh thức, trong mùi xú uế mà từ buổi sáng hôm đó đã hóa ra cái mùi thịt thối rữa đến lợm giọng.
Nôn nao nhìn Regan bằng đôi mắt vằn vện những đường gân đỏ, Karras nghĩ là mình có nghe thấy một tiếng động. Một tiếng gì đó rin rít. Một lần nữa. Lúc ông nheo mắt. Đến lúc đó ông mới nhận ra âm thanh đó xuất phát từ đôi mí mắt be bét ghèn của ông. Ông quay lại phía Merrin. Suốt mấy tiếng đồng hồ, nhà đuổi quỷ nói rất ít, thỉnh thoảng một câu chuyện vặt về thời thơ ấu của ông, những hồi ức những chuyện vặt vãnh, một câu chuyện về con vịt ông từng nuôi tên là Clancy. Karras lo ngại cho ông. Sự thiếu ngủ. Các cuộc tấn công của quỷ. Ở vào tuổi của ông. Merrin nhắm mắt lại, tựa cằm lên ngực. Karras quay lại nhìn Regan, rồi mệt mỏi đứng lên đi lại bên giường. Ông xem lại mạch cô bé rồi bắt đầu đo huyết áp. Lúc ông quấn vòng dây vải của huyết áp kế quanh cánh tay cô bé, ông nháy mắt liên tiếp để điều tiết cho rõ tầm nhìn nhá nhem của mình.
“Hôm nay là Ngày Lễ Các Bà Mẹ đó, Dimmy à”.
Trong một thoáng chốc, ông không sao thở được, cảm thấy tim ông như bị xoắn ra khỏi lồng ngực. Rồi ông nhìn vào đôi mắt kia, đôi mắt dường như không phải là của Regan nữa, mà là đôi mắt buồn rầu trách móc. Đôi mắt của mẹ ông.
“Mẹ không tốt với con sao? Tại sao con lại bỏ mẹ chết trơ trọi một mình, hở Dimmy? Tại sao? Sao con lại..”
“Damien!”
Merrin ghìm chặt lấy cánh tay ông. “Bây giờ xin hãy đi nghỉ ngơi chốc lát đi, Damien”.
Sharon vào để thay khăn trải giường.
“Đi đi, hãy đi nghỉ ngơi một chút đi, Damien!” Merrin giục.
Cổ họng như bị nghẹn tắt lại, khô se, Karras quay lại, rời phòng ngủ. Ông đứng yếu nhược ngoài hành lang. Rồi ông bước xuống cầu thang và đứng do dự ở đó. Cà phê chăng? Ông thèm quá. Nhưng ông còn thèm được tắm vòi sen hơn, được thay quần áo, được cạo mặt một cái.
Ông rời ngôi nhà, băng qua đường trở về khu cư xá Dòng Tên. Ông bước vào, lần mò về phòng. Và lúc ông nhìn chiếc giường... Quên vụ tắm vòi sen đi. Ngủ cái đã. Nửa giờ thôi. Lúc ông với ống điện thoại định dặn phòng tiếp tân đánh thức ông, thì chuông điện thoại reo vang.
“A lô, tôi nghe đây”, ông khàn giọng trả lời.
“Có người đợi cha ở đây, thưa cha Karras, một ông Kinderman nào đó”.
Trong một lúc, Karras nín thở, rồi, giọng yếu ớt, ông trả lời “Bảo ông ấy một phút nữa tôi ra ngay”.
Lúc gác điện thoại, Karras trông thấy một tút thuốc Camel trên bàn làm việc, kèm theo là một mảnh giấy của Dyer. Ông đọc lờ mờ:
“Người ta tìm thấy một chiếc chìa khóa mở cửa vào Câu lạc bộ Trai Chơi (Playboy Club) ở ngay trên bục quỳ nhà nguyện, phía trước mấy ngọn đèn đền tạ. Phải của cha không? Cha có thể hỏi nhận lại ở phòng tiếp tân”.
Không chút biểu lộ gì, Karras bỏ tờ giấy xuống, mặc quần áo sạch sẽ rồi bước ra khỏi phòng. Ông quên mang theo thuốc lá.
Ở phòng tiếp tân, ông thấy Kinderman ở quầy tổng đài điện thoại, đang tẩn mẩn sắp xếp lại một chiếc độc bình đầy hoa. Lúc quay lại gặp Karras, ông ta đang cầm trên tay một nhành hoa trà màu hồng.
“Ồ cha, cha Karras!” Kinderman tươi tỉnh hẳn, nét mặt ông biến sang vẻ xao xuyến trước nét mặt hốc hác, tiều tụy của vị linh mục Dòng Tên. Ông nhanh chóng cắm trở lại cánh hoa trà rồi bước đến đón Karras. “Trông cha đến khiếp! Có chuyện gì vậy? Có phải là kết quả của ba cái màn chạy việt dã lòng vòng đây không? Bỏ quách cái màn đó đi! Nào, đến đây!” Ông bíu lấy khuỷu tay Karras rồi đẩy vị linh mục ra đường. “Cha có được một phút rảnh chứ?” Ông hỏi lúc họ bước qua cánh cửa lối vào.
“Không hơn”. Karras thì thầm. “Có chuyện gì?”
“Nói chuyện tí tỉnh. Tôi cần lời khuyên, chỉ lời khuyên thôi, không hơn”.
“Về việc gì?”
“Chỉ một phút thôi mà”, Kinderman huơ tay ra dấu phỉ phui. “Bây giờ ta bách bộ. Ta hít khí trời. Ta hưởng đời”. Ông luồn tay mình qua tay linh mục và dẫn nhà tu sĩ băng chéo qua góc phố Prospect. “Ồ này, nhìn kìa! Đẹp! Lộng lẩy thật!” Ông trỏ mặt trời đang lặn trên sông Potomac, và trong cảnh tĩnh mịch vang lên tiếng cười, tiếng nói đồng thanh của các sinh viên Viện Đại học Georgetown phía trước phòng giải khát cạnh góc phố Ba Mươi Sáu. Một cậu đấm rõ mạnh vào tay một cậu khác rồi cả hai ôm nhau vật lộn chí chóe. “Chà, đại học, đại học...” Kinderman thì thào ra vẻ phiền muộn, vừa gật gù vừa nhìn đăm đăm. “Tôi chưa được đến đó, nhưng tôi ao ước... tôi ao ước...” Ông thấy là Karras đang nhìn cảnh hoàng hôn. “Tôi nói nghiêm chỉnh đó, trông cha thật hốc hác”, Ông nhắc lại. “Có chuyện gì vậy? Cha bị ốm chăng?”
Chừng nào Kinderman mới vào đề đây? Karras thắc mắc. “Không, chỉ bận việc thôi”, ông đáp.
“Vậy thì, hãy từ từ lại”, Kinderman khò khè “Hãy từ từ. Cha biết rõ hơn mà. À này, cha đã xem đoàn vũ balê Bolshoi diễn ở Watergate chưa?”
“Chưa”.
“Tôi cũng chưa. Nhưng tôi muốn xem quá! Họ múa thật là duyên dáng... thật là yêu kiều!”
Họ đã đi đến chỗ vách tường nhà chứa xe điện. Tựa cánh tay lên tường, Karras đối diện Kinderman lúc đó đã chắp hai tay đặt trên gờ tường, vừa nhìn đăm chiêu qua bên kia sông. “Nào, ông đang bận tâm vì chuyện gì thế, thưa trung úy?” Karras hỏi.
“Chà, thưa cha”, Kinderman thở dài. “Tôi e là mình gặp chuyện rắc rối”.
Karras bắn nhanh một tia nhìn lên khung cửa sổ lá sách ở phòng Regan. “Có tính cách nghề nghiệp chăng?”
“Chà, phần nào thôi... chỉ phần nào thôi”.
“Chuyện gì vậy?”
“Chà, chủ yếu đó là...” Ngập ngừng, Kinderman nhìn nghiêng ngó. “Chà, chủ yếu là câu chuyện đó có mang tính chất đạo lý, cha Karras ạ, cha có thể gọi nó... là... một câu hỏi...” Nhà thám tử quay lại tựa vào tường. Ông cau mày nhìn vệ đường. Rồi ông nhún vai. “Đơn giản là không có một người nào tôi có thể giải bày được câu chuyện đó, đặc biệt không thể là ông sếp đại úy nhà tôi, cha thấy đó. Đơn giản là tôi không thể. Tôi không thể kể cho ông ta nghe câu chuyện đó được. Cho nên tôi nghĩ...” Mặt ông ta sáng lên vẻ linh hoạt bất ngờ. “Tôi có một bà cô... Cha nên nghe chuyện này, ngộ lắm. Trong hàng bao nhiêu năm, bà ta sợ ông chú tôi đến chết khiếp - chết khiếp thật đó - Chưa bao giờ dám nói với ông một lời. Chưa bao giờ dám cao giọng. Chưa bao giờ! Vậy mà bất cứ khi nào bà nổi điên với ông về chuyện gì - về bất cứ chuyện gì - ngay lập tức, bà chạy nhanh vào cái tủ quần áo trong phòng ngủ, rồi ở đó, trong bóng tối, một mình với đám mọt nhậy và đám quần áo treo trên móc, bà cứ thế mà chửi - tha hồ chửi - ông chú tôi suốt hai mươi phút có lẽ! Nói toạc ra ý nghĩ của bà về ông ta! Thật vậy đó! Tôi muốn nói là bà cứ hét tướng! Rồi bà đi ra, bà cảm thấy dễ chịu hơn, bà đến hôn má ông. Nào, thưa cha Karras, cái đó là cái gì? Đó là một biện pháp tốt hay không?”
“Rất tốt”, Karras đáp, mỉm cười ảm đạm. “Và bây giờ tôi là cái tủ quần của ông chứ gì? Có phải ông định nói thế không?”
“Đúng trên một phương diện”, Kinderman đáp. Ông ta lại nhìn xuống. “Trên một phương diện. Nhưng nghiêm trọng hơn, thưa cha”. Ông dừng lại. “Và cái tủ đó có bổn phận phải nói”, Ông tiếp thêm một cách nặng nề.
“Có thuốc lá không?” Karras hỏi với đôi tay run rẩy.
Nhà thám tử ngước nhìn ông. “Tình trạng tôi như thế này mà tôi còn hút thuốc sao?”
“Đúng, ông thì không hút được”, Karras thì thào, chắp hai tay trên gờ tường và cứ nhìn chăm đôi tay. Thôi, đừng run nữa chứ!
“Bác sĩ với chẳng bác sĩ! Cầu Chúa tránh cho tôi cái cảnh bị bệnh trong rừng mà thay vì bên cạnh tôi là bác sĩ Albert Schweitzer thì lại chỉ là cha! Cha vẫn chữa mụn cóc bằng mấy con nhái đấy chứ, phải không bác sĩ Karras?”
“Cóc chứ”, Karras trả lời, giọng đè nén.
“Hôm nay cha không cười nhỉ”, Kinderman lo lắng. “Có chuyện gì không ổn chăng?”
Lặng thinh, Karras lắc đầu. Rồi ông nói khẽ, “Nào, có gì thì cứ nói đi”.
Nhà thám tử thở dài rồi nhìn ra sông nước. “Tôi đang định nói là...” ông khò khè. Ông lấy móng tay cái gãi chân mày. “Tôi đang định nói - chà, cứ cho là tôi đang điều tra một vụ án, thưa cha Karras. Một vụ giết người”.
“Dennings chăng?”
Karras gật đầu.
“Vụ này xem ra có vẻ không giống như một vụ giết người trong nghi lễ phù thủy”, nhà thám tử nói tiếp với vẻ trầm ngâm. Ông cau mày, thong thả lựa từng tiếng. “Ta cứ cho là trong ngôi nhà này - ngôi nhà giả thiết này - có năm người cư trú, và một người phải là tên sát nhân”. Ông dùng bàn tay làm những động tác chặt, để nhấn mạnh. “Bây giờ thì tôi biết điều này. Tôi biết điều này rõ mười mươi”. Rồi ông ngừng nói, chậm rãi thở ra. “Nhưng vấn đề là ở chỗ này... Tất cả mọi chứng cớ, chà, đều quy về một đứa trẻ, cha Karras ạ, một đứa bé gái đâu khoảng mươi, mười hai tuổi... chỉ là một em bé mà thôi. Có lẽ như một đứa con gái của tôi vậy thôi”. Ông cứ dán mắt nhìn bờ đê mãi xa tít tắp. “Vâng, tôi biết, nghe ra sao mà quái đản... sao mà nực cười... nhưng mà lại có thật. Bây giờ, xuất hiện trong ngôi nhà này, thưa cha, là một linh mục - rất danh tiếng - và cái trường hợp hoàn toàn giả thuyết này, thưa cha, tôi được biết đến cũng do sự liên tưởng có tính chất giả thuyết rằng vị linh mục này đã có lần cứu chữa một chứng bệnh thuộc dạng đặc biệt. Một chứng bệnh thuộc tâm thần, một sự kiện mà nhân tiện tôi chỉ nêu sơ qua ở đây cho cha tham khảo mà thôi”.
Karras cảm thấy mặt mình tái nhợt nữa vào lúc đó.
“Cũng có... không hẹn mà nên... cả đạo thờ xa tăng dính líu đến chứng bệnh này, thêm nữa... sức mạnh... vâng, cái sức mạnh khủng khiếp đó. Và rồi... cái cô bé trong giả thuyết này, ta cứ gọi là như vậy, đã vặn tréo ngoe đầu một gã đàn ông, cha thấy đó. Phải. Phải. Cô bé có thể làm điều ấy”. Lúc đó ông ta cứ gục gặc đầu. “Phải... phải, cô ta có thể lắm. Vậy thì vấn đề...” Ông nhăn mặt trầm ngâm. “Cha thấy... cha thấy đó, cô bé không chịu trách nhiệm gì cả, thưa cha. Nó bị loạn trí mà”. Ông nhún vai. “Và nó chỉ là một đứa trẻ thôi! Một đứa trẻ con!” Ông lắc đầu. “Vậy mà chứng bệnh nó lâm phải... có thể là nguy hiểm. Con bé có thể giết một người khác nữa. Ai mà biết được?” Ông lại liếc nhìn qua bên kia sông. “Vấn đề là ở chỗ đó. Làm gì bây giờ. Ý tôi muốn nói là trên mặt giả thuyết. Quên nó đi chăng? Quên đi và hy vọng cô gái sẽ..” Kinderman ngập ngừng, “sẽ lành mạnh trở lại chăng?” Ông vói lấy chiếc khăn tay. “Thưa cha, tôi không biết... tôi không biết nữa”. Ông hỉ mũi. “Thật là một quyết định kinh khiếp, quả thật đáng sợ”. Ông lần tìm một khoảng khăn tay còn sạch, chưa lau. “Đáng sợ thật, và tôi không thích là người phải làm cái quyết định ấy chút nào hết”. Ông lại hỉ mũi và khẽ chấm lỗ mũi. “Cha à, trong trường hợp đó thì phải làm sao cho phải đây? Cứ giả thuyết như vậy? Cha tin là phải hành động ra sao cho đúng đây?”
Trong một khoảng khắc, vị linh mục Dòng Tên cứ thảng thốt cả người với mầm nổi loạn, với cơn giận mệt mỏi, ảm đạm trước gánh nặng ngày càng thêm chồng chất. Ông để cho cơn thảng thốt lắng xuống. Ông bắt gặp tia nhìn của Kinderman và khẽ đáp. “Tôi sẽ trao việc đó cho nhà chức trách cấp trên”.
“Tôi tin là vào lúc này nó đang ở đó rồi”. Kinderman thì thào.
“Vâng... và tôi cứ để nó ở đó”.
Tia nhìn của họ xoắn lấy nhau. Rồi Kinderman bỏ khăn tay vào túi. “Vâng... vâng, tôi nghĩ thế nào cha cũng nói như vậy”. Ông gật đầu, rồi ngắm trời hoàng hôn. “Đẹp quá. Thật là một cảnh sắc huy hoàng”. Ông kéo tay áo lên để xem đồng hồ. “Ái chà, tôi phải đi đây. Chắc lúc này bà K. đang réo bữa ăn tối nguội lạnh hết rồi!” Ông quay lại Karras. “Cảm ơn cha. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn... dễ chịu hơn nhiều. À, mà nhân tiện, cha giúp tôi một việc được không? Nhắn hộ một tin. Nếu cha có gặp một người tên là Engstrom, bảo hộ ông ta là - chà, cứ nói là - ‘Elvira đã nhập viện, cô ta ổn cả rồi’. Ông ta khắc hiểu. Cha sẽ giúp chứ? Ý tôi muốn nói là nếu cha có gặp được ông ấy”.
Karras bối rối. “Dĩ nhiên...” Ông nói “Dĩ nhiên là được”.
“Này, ta không thể xem phim với nhau một tối nào đó được sao, hở cha?”
Vị linh mục nhìn xuống, thì thầm “Một ngày gần đây”.
“Một ngày gần đây! Cha giống như một giáo sĩ Do Thái khi ông ta nhắc đến đấng Messiah: lúc nào cũng là một điệp khúc muôn thuở, “Một ngày gần đây”. Mà cũng xin giúp tôi thêm một việc này nữa, thưa cha”. Nhà thám tử lộ vẻ ưu tư. Lo lắng. “Hãy chấm dứt cái màn chạy việt dã này một dạo đã. Chỉ nên bách bộ thôi. Bách bộ. Thong thả lại. Cha hứa chứ?”
“Đồng ý”.
Hai tay thủ trong túi, nhà thám tử nhìn xuống vệ đường vẻ cam chịu. “Tôi biết”. Ông ta thở dài mệt mỏi. “Một ngày gần đây. Lúc nào cũng là một ngày gần đây”. Lúc bỏ đi, đầu ông vẫn cứ cúi gầm, ông với tay lên vai vị linh mục. Siết mạnh. “Elia Kazan gửi lời chào thăm”.
Trong một lúc, Karras cứ đứng nhìn ông ta lúc ông ta đi nghiêng ngả xuống đường. Nhìn với sự kinh ngạc. Với niềm trìu mến. Và ngạc nhiên về những đường quanh ngã rẽ trong chốn mê cung của tâm hồn con người. Ông nhìn lên những đụn mây thẫm sắc hồng bên trên sông, rồi nhìn tít tắp mãi phía tây, ở đó mây trôi trên riềm thế giới khẽ hừng lên, như một lời hứa được nhớ lại. Ông chống cạnh nắm tay lên bờ môi rồi nhìn xuống nỗi buồn lúc nó tuôn từ cổ họng dâng tràn lên khóe mắt. Ông chờ đợi. Không dám liều lĩnh nhìn cảnh hoàng hôn một lần nữa. Ông nhìn lên cửa sổ phòng Regan, rồi quay lại ngôi nhà đó.
Sharon đón ông vào và cho biết không có gì thay đổi. Tay cô gái ôm một bó đầy các thứ chăn màn quần áo hôi thối nồng nặc mang đi giặt. Cô ta cáo lỗi. “Tôi còn phải mang mấy thứ này xuống máy giặt ở nhà dưới”.
Ông nhìn cô gái. Tơ tưởng đến cà phê. Nhưng lúc đó ông nghe thấy tiếng con quỷ ồm oàm rủa xả Merrin rất dữ tợn. Ông tiến đến cầu thang. Lúc đó ông mới chợt nhớ đến lời nhắn. Karl. Anh ta đâu rồi? Ông quay lại định hỏi Sharon, thấy cô gái đang khuất dạng trên lối bậc cấp dẫn xuống tầng hầm. Trong tâm trạng hoang mang, ông đi vào bếp.
Không có Karl. Chỉ có Chris ở đó. Nàng đang ngồi trên bàn cuối xuống xem... một tập ảnh? Những tấm ảnh chụp được dán vào từng trang... Những rẻo ảnh cắt trong báo ra. Đôi tay khum lại ôm lấy trán làm che khuất mất tầm nhìn của nàng.
“Xin lỗi”, Karras nói rất khẽ. “Karl có trong phòng anh ta không?”
Nàng lắc đầu. “Anh ta đi công chuyện rồi”, nàng thì thầm, giọng khàn khàn. Karras nghe thấy nàng khụt khịt mũi. “Có cà phê đó, thưa cha”. Chris nói khẽ. “Chỉ cần hâm lại một chút là xong”.
Lúc Karras nhìn ánh đèn báo trên chiếc bình lọc, ông nghe thấy tiếng Chris đứng lên khỏi bàn. Lúc quay lại, ông thấy nàng đi nhanh qua ông, mặt ngoảnh phía khác. Ông nghe một giọng run run. “Xin lỗi”. Nàng rời bếp.
Ông nhìn sang tập ảnh. Ông bước đến, cúi xuống xem. Những tấm ảnh chụp bất ngờ, trung thực. Một cô gái nhỏ. Với nỗi đau đớn bàng hoàng. Karras nhận ra ông đang ngắm Regan: đây này, cô gái đang thổi nến trên chiếc bánh sinh nhật phủ đầy kem; đây nữa, cô ngồi trên bến tàu, trước mặt hồ nước, mặt quần soọc, áo thun, đang giơ tay hoan hỉ vẫy vẫy máy ảnh. Một chữ gì đó được in vào ngực áo thun: CAMP... Ông không đọc ra được là chữ gì.
Trên trang đối diện, một tờ giấy kẻ hàng mang tuồng chữ viết của một trẻ thơ:
Phải chi thay vì đất sét,
Con lấy được tất cả những gì đẹp nhất.
Như chiếc cầu vòng.
Hay mây trời, hoặc điệu chim hót,
Có lẽ lúc đó, ôi mẹ dấu yêu,
Nếu gom cả chúng lại,
Con có thể tạc một tượng của mẹ, đích thực.
Dưới bài thơ đề: CON YÊU MẸ! CHÚC MỘT NGÀY LỄ CÁC BÀ MẸ ĐẦY HẠNH PHÚC! Ký tên, bằng bút chì, Rags.
Karras nhắm mắt lại. Ông không thể kham nổi cuộc hội ngộ tình cờ này. Ông mệt mỏi quay đi chỗ khác, đợi cho cà phê sôi. Đầu cúi gầm, ông víu lấy quầy bếp và lại nhắm mắt. Đừng thèm thấy gì hết! Ông suy nghĩ. Đừng nhìn thấy gì hết cả. Nhưng ông không thể, và lúc nghe tiếng máy lọc cà phê kêu đánh “xịch” một cái, hai tay ông bắt đầu run rẩy và niềm thương xót bất ưng trào dâng và mù quáng biến thành nỗi giận dữ trước bệnh tật và niềm đau, trước sự đau khổ, chịu đựng của trẻ con và sự mong manh, nhu nhược của thân xác, trước sự lũng đoạn quá quắt và tàn bạo của cái chết.
“Phải chi thay vì đất sét...”
Cơn giận vắt cạn thành nỗi sầu muộn và niềm tuyệt vọng cố cùng.
“... tất cả những gì đẹp nhất...”
Ông không thể nào chờ đợi cà phê. Ông phải đi... ÔNG PHẢI LÀM MỘT VIỆC GÌ ĐÓ... GIÚP MỘT AI ĐÓ... RÁNG SỨC...
Ông rời bếp. Lúc tạt ngang phòng khách, ông nhìn vào. Chris ngồi trên trường kỷ khóc tức tưởi. Sharon đang an ủi nàng. Ông quay nhìn chỗ khác rồi bước lên cầu thang, nghe tiếng quỷ đang gầm thét điên dại nhắm vào Merrin. “... lẽ ra mày đã thua lâu rồi! Lẽ ra mày đã thua lâu rồi và mày quá biết điều đó! Thằng mạt hạng Merrin kia! Đồ con hoang kia! Lại đây chứ! Trở lại đây để mà...” Karras cố bỏ ra ngoài tai.
“... hoặc điệu chim hót...”
Lúc bước vào phòng ngủ, ông nhận ra mình quên không mặc áo len. Ông nhìn Regan. Đầu cô gái quay chỗ khác không nhìn ông, lúc ngoắc bên này, khi nguẩy bên nọ theo đà thịnh nộ của quỷ dữ.
“... tất cả những gì đẹp nhất...”
Ông thong thả đi về phía ghế của mình và nhấc lấy một tấm mền, mãi đến lúc đó, trong cơn mệt mỏi rã rời, ông mới nhận ra sự vắng mặt của Merrin. Lúc quay trở lại bên Regan để đo huyết áp cho cô bé, ông suýt vấp phải vị linh mục cao niên. Mềm nhũn và rã rời, ông lão nằm sải người, mặt úp sấp trên sàn nhà, bên cạnh giường. Rúng động toàn thân, Karras quỳ xuống. Lật ngửa ông lão lại. Ông trông thấy sắc mặt ông lão xanh xám. Thăm mạch. Rồi trong một khoảnh khắc đau đớn quặn thắt, buốt nhói, Karras nhận ra rằng Merrin đã chết.
“... thói tự cao thánh thiện! Chết rồi phải không? Chết? Này Karras, hãy chữa cho hắn đi!” Con quỷ lồng lộn. “Hãy lay tỉnh hắn dậy cho chúng tao kết liễu, cho chúng tao...”
Trụy tim. Động mạch vành. “Ôi, Chúa ôi!” Karras rên thầm. “Chúa ôi, không!” Ông nhắm mắt lại, lắc đầu với tâm trạng không sao tin được, đầy tuyệt vọng, rồi bất thần, với trào dâng của một nỗi thống khổ, ông thọc ngón tay cái thật mạnh bạo vào cườm tay xanh ngắt của Merrin như muốn vắt lấy từ những đường gân của nó cái nhịp sự sống đã mất.
“... kính tín...”
Karras khuỵu người ra sau, hít một hơi thở rõ sâu. Rồi ông trông thấy những hoàn thuốc nhỏ li ti vàng tung tóe trên sàn. Ông nhặt một viên lên và trong sự nhận thức đau đớn, ông thấy rõ là Merrin đã biết trước. Thuốc Nitroglycerin. Ông ấy đã biết trước. Mắt Karras mọng đỏ và đầy ắp lệ. Ông nhìn khuôn mặt Merrin. “... bây giờ hãy đi nghỉ ngơi một lát đi, Damien”.
“Thậm chí giòi bọ cũng không muốn ăn cái xác thối rữa của mi đâu, đồ...”
Karras nghe mấy lời con quỷ nói đó và ông thoắt run lẩy bẩy vì một cơn phẩn nộ bừng bừng sát khí.
Đừng nghe!
“... đồng tính luyến ái...”
Đừng nghe! Đừng nghe!
Một đường gân hằn lên giận dữ trên trán Karras, giật rần rật. Lúc ông nâng hai tay Merrin lên, âu yếm xếp chúng lại thành hình thập tự giá, ông nghe con quỷ ồm oàm. “Nào hãy đút vào tay hắn đi!” Rồi một cục đờm thối hoắc khạc ngay vào mặt người chết. “Lễ nghi cuối cùng đấy!” Con quỷ nhạo báng. Nó ngửa đầu ra sau, cười man dại.
Karras cóng cả người mà nhìn cục đờm dãi, mắt ông muốn bật khỏi tròng. Ông không nhúc nhích. Không thể nghe được gì hơn là tiếng gầm thét trào sôi của chính dòng máu ông. Rồi từ từ - trong những cơn giật bắn người sang hai bên, lẩy bẩy - ông ngước khuôn mặt lúc đó đã là một tiếng gầm gừ thâm tím, đã là một khối co giật vì hận thù và phẫn uất. “Đồ chó đẻ!” Karras sôi sục thành một tiếng thì thầm, nó rít vào không khí giống như thép nung chảy. “Đồ khốn kiếp!” Dù vẫn bất động, ông có cảm tưởng như mình đang tháo ra từ một cuộn tròn, gân cổ ông căng thẳng như những sợi dây cáp.
Con quỷ thôi cười và nhìn ông vẻ nham hiểm. “Mày thua đến nơi rồi! Mày là đứa thua cuộc. Mày bao giờ cũng là đứa thua cuộc!” Regan mửa bắn vào mặt ông tung tóe. Ông chẳng lý tới điều đó. “Đúng, mày tỏ ra rất giỏi bắt nạt trẻ con!” Ông bảo, run lẩy bẩy. “Những đứa trẻ gái! Nào! Ta hãy xem mày thử sức với một cái gì lớn hơn đi! Nào! Tới đi!” Ông vươn ra hai bàn tay như hai chiếc móc vĩ đại, nung núc thịt, thong thả ngoắc. “Ra đây! Nào, thằng thua cuộc kia! Nào, hãy thử tao xem! Hãy rời con bé mà ám tao đi! Ám tao đi! Hãy nhập vào...”
Không đầy một phút sau thì Chris và Sharon đã nghe những tiếng ầm ầm ở trên lầu. Họ đang ở trong văn phòng và mắt ráo hoảnh. Chris ngồi trước quầy rượu còn Sharon ở sau quầy đang pha rượu cho cả hai. Lúc cô gái đặt vốt ka và rượu bổ lên mặt quầy, cả hai người phụ nữ đều ngước nhìn lên trần. Những tiếng vấp ngã. Những tiếng va chạm mạnh vào đồ đạc, bàn ghế. Vào tường. Thế rồi tiếng của... con quỷ? Con quỷ rồi. Những lời tục tĩu. Nhưng còn một giọng nữa. Cứ thay đỗi nhau. Karras chăng? Đúng rồi, Karras. Nhưng nghe lạ hơn, trầm hơn.
“Không, tao sẽ không để cho mày hãm hại họ đâu! Mày đừng hòng làm tổn thương được họ! Mày sẽ ra với...”
Chris làm đổ nhào ly rượu lúc nàng rúm người lại vì một tiếng đổ vỡ dữ dội, vì một tiếng kinh bể. Trong chớp mắt, nàng và Sharon tuôn khỏi văn phòng, băng lên lầu, đến cửa phòng Regan, ào vào. Họ trông thấy mấy cánh cửa chớp của cửa sổ nằm trên sàn nhà, bị bứt đứt ra khỏi bản lề! Còn cửa sổ! Toàn bộ kính cửa đã bị đập vỡ tan tành!
Hoảng hốt, họ vội xông lại phía cửa sổ, trong lúc chạy, Chris trông thấy Merrin nằm trên sàn nhà, cạnh bên giường. Nàng đứng mọc rễ vì sốc mạnh. Rồi nàng chạy lại ông. Quỳ gối xuống. Nàng há hốc. “Ôi, Chúa ôi!” nàng thút thít. “Sharon! Shar, lại đây! Nhanh lên, lại...”
Từ cửa sổ, Sharon thét lên, và lúc Chris ngẩng lên, mặt mày tái mét, thở hổn hển, cô gái lại chạy đến cửa ra vào.
“Shar, cái gì vậy?”
“Cha Karras! Cha Karras!”
Cô gái băng ra khỏi phòng như điên dại, còn Chris đứng lên, run rẩy chạy đến cửa sổ. Nàng nhìn xuống dưới và cảm thấy tim nàng rớt ra khỏi thân thể. Ở dưới chân dãy bậc cấp trên phố M. nhộn nhịp, Karras nằm gục một đống giữa một đám đông đang túm lại.
Nàng nhìn sững, kinh hoàng. Tê cóng. Nàng cố nhúc nhích.
“Mẹ ơi!”
Có tiếng gọi nhỏ, yếu ớt nức nở phía sau nàng. Chris muốn nghẹt thở. Không dám tin ngay. “Có chuyện gì vậy, hả mẹ! Ôi, mẹ ơi! Xin mẹ hãy đến đây đi! Mẹ ơi, con xin mẹ! Con sợ!...”
Chris vội quay lại và trông thấy những giọt nước mắt bối rối, vẻ khẩn cầu và nàng chợt bổ xô lại giường, khóc nức nở. “Rags! Ôi! Bé con của mẹ! Bé con của mẹ! Ôi! Bé con của mẹ! Bé con của mẹ! Ôi! Rags!”
Bên dưới lầu, Sharon lao ra khỏi nhà, chạy như điên cuồng đến Khu Cư xá Dòng Tên. Cô xin gặp gấp Dyer. Ông ta ra ngay phòng tiếp tân. Cô gái kể cho ông nghe. Ông tái người lại.
“Đã gọi xe cứu thương chưa?”
Dyer cấp tốc chỉ thị cho điều hành viên tổng đài, rồi ông băng ra khỏi hành lang, bám sát theo Sharon. Băng qua đường. Chạy xuống bậc cấp.
“Làm ơn cho tôi qua!” Lúc ông chen qua đám người bàng quan đứng ngó, Dyer nghe được những tiếng thì thầm của một bài kinh dửng dưng. “Chuyện gì vậy?” “Một gã ngã bậc cấp”. “Thế anh có...?” “Chắc là xỉn rồi. Thấy ói đây đó không?” “Thôi, đi đi, không thôi lại không kịp...”
Rốt cuộc, Dyer đã lách được người qua, và trong một khoảnh khắc đứng tim, ông cảm thấy người đông thành nước đá trong một tầm mức đau thương vô tận, trong một không gian mà khí trời trở nên quá sức đau đớn đến không thể thở nổi. Karras nằm ngửa, dập nát, quằn quại, đầu bơi giữa vũng máu càng lúc càng loang rộng. Tia mắt ông nhìn trừng trừng, lơ đãng, cằm xệ hẳn. Rồi tia mắt ông quay sang phía Dyer, đờ đẫn. Chợt bừng sống. Dường như ngời lên với vẻ hân hoan. Một vẻ khẩn cầu nào đó. Một nét gì đó khẩn cấp.
“Nào, lui ra sau đi! Lui ra phía sau đi!” Một viên cảnh sát. Dyer quỳ xuống, đặt một bàn tay mảnh dẻ, nhẹ tênh như một cái vuốt ve, lên trên khuôn mặt bầm dập, xây xát đó. Có quá nhiều vết đứt. Một dòng máu từ miệng rỉ ra như một dải ruy băng. “Damien...” Dyer dừng lại để trấn an cơn run rẩy nơi cổ họng ông, và nơi đôi mắt kia ông đã trông thấy tia nắng thiết tha, yếu ớt, vẻ khẩn cầu nồng nàn đó.
Ông cúi sát hơn. “Cha nói được chứ?”
Chậm rãi, Karras với tay lên cườm tay Dyer. Nhìn chăm chú, ông nắm chặt lấy cườm tay bạn. Siết chặt giây lát.
Dyer cố ngăn dòng lệ. Ông cúi sát hơn nữa, kề miệng vào tay Karras. “Cha có muốn xưng tội bây giờ không, hở Damien?”
Một cái siết chặt.
“Cha có ăn năn về tất cả mọi tội lỗi trong đời Cha và vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa Toàn Năng không?”
Một cái siết chặt.
Lúc này, Dyer nghiêng người ra sau, vừa thong thả làm dấu thánh giá trên Karras, ông vừa đọc lời giải tội: “Ego te Absolvo...”
Một giọt lệ lớn lăn xuống từ khóe mắt Karras, và bấy giờ Dyer cảm thấy cườm tay ông ta bị siết chặt hơn nữa, liên tục, lúc ông kết thúc lời giải tội: “... in nomine Patris, et Filii, et Spiritus Saneti. Amen”.
Dyer lại cúi người xuống nữa, miệng kề tai Karras. Chờ đợi. Ông cố đè nén nỗi nghẹn ngào trào lên ở cổ họng. Rồi ông thì thầm, “Cha...?” Ông ngưng ngang lúc sức ép trên cườm tay ông chợt lơi lỏng. Ông ngẩng đầu lên và thấy đôi mắt ấy chan chứa sự bình an, và tràn ngập một cái gì khác nữa: một vẻ gì huyền nhiệm, giống như niềm vui thỏa khi lòng không còn ham muốn gì nữa. Đôi mắt vẫn nhìn đăm đăm. Nhưng không nhằm vào một cái gì hết trên thế gian này. Không một cái gì ở đây hết.
Thong thả và dịu dàng, Dyer vuốt đôi mi mắt. Ông nghe tiếng còi hụ của xe cứu thương từ xa. Ông mới bắt đầu nói, “Tạm biệt”, nhưng không sao nói dứt được. Ông gục đầu xuống và khóc.
Xe cứu thương đến. Họ đặt Karras lên băng ca, và lúc khuân ông lên xe, Dyer trèo lên theo ngồi cạnh viên bác sĩ nội trú. Ông vói tay ra nắm lấy tay Karras.
“Cha không còn làm gì được cho ông ấy nữa đâu, thưa cha”. Viên bác sĩ nội trú tử tế nói. “Đừng chuốc thêm đau buồn cho mình hơn nữa làm gì. Cha đừng đi nữa”.
Dyer vẫn dán chặt tia nhìn lên khuôn mặt rách nát, sứt sẹo kia. Ông lắc đầu.
Viên bác sĩ nội trú ngước nhìn cửa sau xe, nơi người tài xế vẫn còn kiên nhẫn đợi. Ôn gật đầu. Cửa xe đóng “kịch” lại.
Đứng ở vệ đường, Sharon nhìn sững sờ lúc chiếc xe cứu thương chậm chạp lăn bánh. Cô nghe những tiếng xầm xì của khách qua đường.
“Chuyện gì vậy?”
“Ai biết đâu, anh bạn? Có ai biết cái quỷ gì đâu?”
Tiếng còi xe cứu thương cứ rít mãi vào trong đêm trên mặt sông cho đến lúc người tài xế chợt nhớ là thời gian không còn quan trọng gì nữa. Ông tắt còi hụ. Dòng sông lại lặng lẽ chảy, đến một bãi bờ êm ả hơn.