Dịch giả:Phạm Xuân Thảo
Phần III (G)

     úng chín giờ sáng ngày hôm ấy, Damien Karras đến gặp Viện trưởng Viện Đại học Georgetown xin phép đạo đạt thỉnh nguyện lên bề trên xin chuẩn y một lễ đuổi quỷ. Ông được Viện trưởng chấp thuận, ngay sau đó, ông đã đến gặp Đức Giám mục địa phận, vị này lắng nghe với sự quan tâm nghiêm chỉnh tất cà những điểm Karras tường trình.
“Cha tin là trường hợp này xác thực chứ?” Vị Giám mục rốt cuộc hỏi.
“Con đã nhận xét hết sức thận trọng và thấy rằng trường hợp này phù hợp với các điều kiện đòi hỏi trong bộ Lễ Nghi”, Karras trả lời một cách tránh né. Ông vẫn chưa dám tin. Không phải là thần bí mà chính là con tim ông đã lôi kéo ông đến khoảng khắc này. Lòng thương xót và niềm hy vọng về một phương chữa bằng ám thị.
“Cha muốn đích thân hành lễ đuổi quỷ chứ?” Vị Giám mục hỏi.
Ông cảm thấy một khoảng khắc phấn khởi phơi phới, trông thấy cánh cửa mở tung ra về phía những cánh đồng, giải thoát ông khỏi gánh nặng ưu phiền oằn oại và thoát khỏi cuộc đối đầu mỗi khi hoàng hôn xuống với bóng ma của lòng tin ông. “Vâng, hẳn thế ạ”. Karras đáp.
“Sức khỏe cha ra sao?”
“Tốt ạ”.
“Trước đây, cha có tham dự vào một việc như thế này bao giờ chưa?”
“Thưa chưa ạ”.
“Chà, để ta xem. Tốt hơn hết có lẽ nên có một người từng trải. Dĩ nhiên, những người như thế không nhiều lắm, nhưng có lẽ có một vị nào đó từ những hội truyền giáo hải ngoại trở về. Để tôi xem có ai đó quanh đây không. Lâm thời, tôi sẽ gọi cha ngay khi chúng tôi có tin tức”.
Karras về xong, Giám mục điện thoại ngay cho cha Viện trưởng Viện Đại học Georgetown, hai người lại thảo luận về Karras lần thứ hai trong ngày hôm đó.
“Vâng, ông ấy quả có biết rõ về quá trình của bệnh nhân”. Vị Viện trưởng bàn đến một điểm giữa cuộc điện đàm. “Tôi không tin là có gì nguy hiểm trong việc chỉ cử ông ấy làm phụ lễ thôi. Vả lại, cũng cần phải có sự hiện diện của một nhà tâm thần học”.
“Còn nhà đuổi quỷ thì sao đây? Có ý kiến gì không? Tôi chẳng nghĩ ra được ai”.
“Vâng, hiện nay Lankester Merrin đang có mặt ở Mỹ”.
“Merrin à? Tôi tưởng ông ấy vẫn còn ở bên Irak chứ. Tôi nhớ là tôi có được đọc về tin ông ta đang tiến hành một công trình khai quật ở vùng Ninive”.
“Vâng, ở bên dưới đô thị Mosul. Đúng thế ạ. Nhưng ông ấy đã hoàn tất công việc và đã hồi hương khoảng ba bốn tháng nay rồi, Mike ạ. Hiện ông ta đang ở Woodstock”.
“Dạy học ư?”
“Không, đang viết một cuốn sách khác”.
“Thật Chúa giúp ta! Dù vậy, cha không nghĩ là ông ấy già quá đấy chứ? Sức khỏe ông ấy ra sao?”
“Chà, hẳn là phải ổn thôi, chứ không thì ông ấy đã không còn chạy ngược chạy xuôi mà khai quật các lăng mộ như thế được mãi. Đức cha có nghĩ thế không?”
“Phải, tôi cũng nghĩ vậy”.
“Với lại, ông ta có kinh nghiệm, Mike ạ”.
“Tôi không biết điều đó đấy”.
“Vâng, ít nhất đó cũng là lời truyền tụng”.
“Chuyện ấy xảy ra bao giờ thế?”
“Ồ, có lẽ mươi, mười hai năm trước gì đó, tôi nghĩ vậy, tại Phi Châu. Hình như đâu cuộc đuổi quỷ ấy đã kéo dài hàng mấy tháng trời. Tôi nghe nói trận ấy suýt giết chết ông ấy đấy”.
“Chà, nếu thế thì, tôi không mấy tin là ông ta muốn đảm đương thêm một lần nữa đâu”.
“Ở đây, chúng ta làm những gì chúng ta được sai làm, Mike ạ. Hỡi các ông, những tu sĩ thế tục, với các ông thì mọi lời phản kháng đã chấm dứt”.
“Cảm ơn đã nhắc nhở tôi”.
“Vậy thì Đức Cha nghĩ sao?”
“Coi kìa, tôi giao hoàn toàn việc đó cho cha và Cha Giám tỉnh”.
Vào chớm buổi tối đang được lặng lẽ chờ đợi đó, có một chủng sinh đang đợi thụ phong linh mục lần bước trên sân Chủng viện Woodstock thuộc bang Maryland. Thầy đang tìm kiếm một vị tu sĩ Dòng Tên cao niên, tóc hoa râm, dáng người thanh mảnh. Thầy tìm thấy vị linh mục này trên một lối đi, đang bách bộ ngang một lùm cây. Thầy trao cho linh mục đó một bức điện tín. Con người cao niên này cảm ơn thầy, phong thái đầy thanh thản, đôi mắt thật đôn hậu, rồi quay lại tiếp tục trầm tưởng, tiếp tục cuộc bách bộ qua một cảnh trí thiên nhiên mà ông yêu mến. Thỉnh thoảng, ông dừng chân lắng nghe tiếng hót của một chú chim cổ đỏ, lặng ngắm một nàng bướm sặc sở lượn lờ trên một cành cây. Ông không mở đọc bức điện ấy. Ông biết nội dung thế nào rồi. Ông đã biết rồi. Ông đã đọc được nội dung đó trên cát bụi của những đền đài thành Ninive. Ông đã sẵn sàng.
Ông tiếp tục đi chào từ giã.