Chương 9

Dịch giả: NGUYỄN VĂN QUANG
Chương II
CHÚNG TÔI RƠI VÀO MỘT Ổ PHỤC KÍCH TRÒ CHƠI QUỈ QUÁI

    
húng tôi đi trên tuyết giữa bốn bên hoàn toàn vắng lặng. Môn đi trước, giơ cao cái đèn lồng có lưới sắt bao bọc, hắt xuống đường một vùng sáng hình rẻ quạt… CHúng tôi vừa bước khỏi cổng trường đồ sộ, thì từ sau cái cầu thang thăng bằng cua thị trấn dựa vào tường nhà chơi của chúng tôi nhảy vọt ra cùng một lúc hai tên, đầu trùm kín mít, nhanh như hai con đa đa con bị động bất ngờ. Hoặc để chế nhạo, hoặc khoái chí vì trò chơi quái quỉ của mình, hoặc thần kinh bị kích động, hoặc sợ bị tóm, chúng vừa chạy vừa nói hai ba câu gì đó, rồi cất tiếng cười sằng sặc.
Môn buông chiếc đèn xuống tuyết, bảo tôi:
- Theo tớ, Phrăngxoa!
Bỏ mặc hai ông già, không đương nổi một tốc độ lớn như vậy, chúng tôi lao đuổi theo hai bóng đen, lúc đầu chúng đi theo đướng Viây-Plăngsơ chạy vòng quanh cuối thị trấn một hồi, rồi sau đó cương quyết ngược lên về hướng nhà thờ. Chúng chạy bình thường thôi, không qúa nhanh, chúng tôi đuổi gần kịp không vất vả lắm. Chúng chạy xéo phố nhà thờ hoàn oàn yên ắng, rồi chạy ra sau nghĩa địa vào một khu toàn những phố nhỏ và ngõ cụt nhằng nhịt.
Đây là một khu của các nhà báo, thợ dệt và thợ khâu mà người ta gọi là những Góc Nhỏ. Khu này chúng tôi không thạo vì chưa bao giờ đến vào ban đêm. Ban  ngày nó vắng lắm: nhà báo đi xa hết, thợ dệt cấm cung trong nhà. Trong cái đêm hoang vắng này, nó càng trống trải và câm lặng hơn các khu khác của thị trấn. Cho nên chẳng thể có chuyện may là ai đó thình lình xuất hiện và giúp mình.
Tôi chỉ biết một con đường. Đó là con đường chạy giữa những ngôi nhà bé nhỏ như hom các-tông bạ đâu đặt đấy, rồi dẫn đến nhà một bà thợ khâu được đặt biệt hiệu là “Con Câm”. Trước tiên xuôi xuống một cái dốc rắn đanh, lát đá vài đoạn, sau đó ngoặt hai ba chỗ, giữa những chuồng gia súc rỗng hay các mảnh rào chật hẹp của các nhà thợ dệt, người ta đến một cái ngõ cụt rộng rãi bị chặn bởi một cái sân trại từ lâu bỏ hoang. Ở nhà Cô Câm, trong khi Cô vừa liếng thoắng đan với những ngón tay nhoay nhoáy tít mù, vừa thủ thỉ trò chuyện với mẹ tôi không lúc nào ngơi, chỉ thỉnh thoảng mới bị những tiếng kêu bênh tật ngắt quãng, tôi có thể đưa mắt qua cửa sổ nhìn những bức tường cao của nhà cô, ngôi nhà cuối cùng của thị trấn về hướng này, nhìn hàng rào chắn bao giờ cũng đóng cửa cái sân khô nẻ, chẳng rơm cỏ, chẳng có người, ngựa đi qua bao giờ…
Hai tên lạ mặt lủi theo chính con đường này. Đến chỗ ngoặt, chúng tôi lại sợ mất hút chúng. Nhưng lạ thay, bao giờ chúng tôi cũn đến chỗ ngoặt sang phố sau, khi chúng chưa chạy hết phố ấy. Tôi nói “lạ”, bởi vì các dãy phố này ngắn ngủi, nếu chúng không chạy chậm lại, khi đã khuất khỏi tầm nhìn của chúng tôi, thì không thể có chuyện đó được.
Cuối cùng, không đắn đo, chúng chạy vào ngõ cụt nhà Cô Câm. Tôi hét lên với Môn:
- Ngõ cụt! Ta tóm được chúng rồi!
Nói cho đúng, chính chúng đã tóm gọn chúng tôi. Chúng đã dẫn chúng tôi đến chỗ chúng muốn. Chạy đến bức tường, chúng cố tình quay về phía chúng tôi, môt tên rúc lên một hồi còi giống hai hồi chúng tôi đã nghe thấy trong tối hôm ấy.
Ngay tức khắc, khoảng một chục đứa xông ra từ cái nhà bỏ hoang, nơi dường như chúng đóng chốt chỗ chúng tôi. Đầu đứa nào cũng trùm kín, mặt gần như khuất hẳn sau khăn quàng cổ.
Dù đây là ai, chúng tôi nhận ra ngay, chúng tôi cũng nhất quyết không thưa gì với ông Xơren, người mà công việc của chúng tôi không có gì liên quan đến. Có Đơlusơ, Đơnix, Girôđa và các bạn khác. Chúng tôi nhận ra các bạn trong cuộc vật lộn nhờ kiểu chơi quen thuộc và tiếng la hò đứt quãng mọi khi. Nhưng có một điểm đán glo ngại, và xem chừng khiến Môn kinh hãi: đó là trong các bạn, có một tay chúng tôi không biết, và hình như là kẻ cầm đầu…
Tay này không đụng đến Môn, mà chỉ nhìn quân lính của mình tả xung hữu đột, hè nhau lao vào chàng trai cao ngộc thở đứt hơi, mặc dù nhiều ohen ngã lăn trong tuyết, các bạn rách toạt từ chân đến đầu. Hai bạn được phân công “đả” tôi, gắng còng tôi đứng im rất vất vả, vì tôi chống cự như một con quỷ. Tôi ngã ngồi, đầu gối gập, cả người dồn lên hai gót chân. Các bạn giật cánh khuỷu hai tay tôi, và tôi ngồi xem vừa háo hức vừa e sợ.
Bị bốn thằng cùn lớp móc bám lấy áo blu, Môn xoay mình thật mạnh khiến cả bốn văng ra trên tuyết… Đứng thẳng trên hai chân, nhân vật không quen theo dõi cuộc đấu một cách hứng thú, nhưng bình thản, luôn mồm nhắc đi nhắc lại bằng một giọng dứt khoát.
- Dũng cảm lên… Làm lại… Gâu-on, Mai-boi… (tiếng Anh)
Hiển nhiên, hắn ta chỉ huy… Hắn từ đâu tới? Ở đâu và bằng cách nào hắn lôi kéo được các bạn tôi vào trận đấu? Đấy là một bí mật đối với chúng tôi. Cũng như quân của mình, mặt hắn lấp kìn gần hết trong khăn quàng cổ. Nhưng khi Môn thoát khỏi bốn địch thủ, tiến về phía hắn với vẻ hăm dọa, thì động tác mà hắn làm để nhìn cho rõ và đương đầu với tình thế đã để lộ một dải vải trắng quấn quanh đầu như băng vết thương.
Chính lúc đó, tôi hét bảo Môn:
- Cảnh giác phía sau! Có một thằng!...
Anh chưa kịp quay lại, thì từ hàng rào chắn sau lưng, một con quỷ cao lêu đêu hiện ra, tung thật chuẩn cái khăn quàng quấn lấy cổ bạn tôi, giật anh ngã ngửa. Nhanh như cắt, bốn tên địch vừa bị Môn cho cắm mũi xuống tuyết liền bâu lại trói nghiến hai chân anh bằng một sợ dây và hai tay anh bằng cái khăn quàng, khiến anh hết cựa quậy, còn nhân vật đầu đeo băng thọc tay vào lục trong túi anh… Tên địch xuất hiện cuối cùng, người có khăn quàng làm dây thòng lọng, thắp lên một ngọn nến nhỏ mà y phải lấy tay che cho khỏi tắt. Mỗi khi tìm được một tờ giấy mới, tay chỉ huy lại đến gần ngọn nến leo lét xem kỹ. Cuối cùng, hắn gập tờ bản đồ mà Môn đã vẽ và ghi chú kín cả sau chuyến phiêu lưu trở về, rồi thốt lên mừng rỡ.
- Phen này chúng ta thắng rồi! Bản đồ đây! Chúng ta sẽ xem  xem tôn ông này có đến đúng cái nơi mà tớ tưởng tôn ông đã đến không…
Tên đồng bọn tắt nến. Các tên khác nhặt cát-két hay xanh-tuya lên. Rồi cả bọn âm thầm chuồn đi như khi đến, để mặc tôi tự do cuống cuồng cởi trói cho bạn mình.
- Chúng chưa đi xa đâu, tấm bản đồ… - Môn vừa đứng lên vừa nói.
Chúng tôi đi không nhanh, vì Môn hơi tập tễnh. Đến đường nhà thờ, chúng tôi gặp lại ông Xơren và bác Paxkiê.
- Các vậu không thấy gì à? – hai người hỏi – Chúng tôi cũng vậy.
Nhờ trời tối mịt, cả hai chẳng nhận ra tí gì. Bác hàng thịt cáo lui, còn ông Xơren vào đi ngủ ngay.
Nhưng trong ánh sáng cây đèn mà Mili để lại trên bàn trong buồng mình, hai chúng tôi còn thức mãi, vừa vá víu qua loa cái áo blu bật chỉ vừa to nhỏ với nhau về chuyện vừa xảy đến với chúng tôi, chẳng khác nào hai bạn chiến đấu trong một đêm thất trận.