TRUYỆN HÀ Ô LÔI

Vào năm Thiệu Hưng,thời Trần,có một người họ Đặng,tên là Sĩ Doanh,ở hương Ma La. Vợ là người họ Vũ,có nhan sắc. khi ấy,Sĩ Doanh vâng mệnh,đi sứ phương Bắc,trong hương có vị thần tên là Ma La,thừa dịp Sĩ Doanh không có nhà,liền hóa thành người chồng hình dáng,nói năng rất giống Sĩ Doanh,nửa đêm đội mưa gió tới. Vũ thị lấy làm lạ hỏi:"Chàng đã vâng mệnh đi sứ,sao lại quay về?" Thần đáp:" Hoàng Thượng đã sai sứ khác đi,gọi tôi về để hầu cận người. Tôi phải luôn chơi cờ với vua,không được ra khỏi cửa. Nhưng vì tình nghĩa vợ chồng,trở về cùng nàng chút niềm ân ái. Ngày mai lại vào chầu,không dám ở lại lâu,gà gáy thì đi ".
tâu chuyện đó lên,Vũ thị phải vào ngục. Đêm ấy,vua mơ thấy một trưởng lão đến trước bệ rồng tâu rằng:" Tôi là thần Ma La,lấy vợ đã có thai,bị Sĩ Doanh tranh đoạt ".
Vua tỉnh dậy,hôm sau sai ngục quan đưa Vũ thị tới,xử rằng:" Người vợ trả cho Sĩ doanh,đứa con trả cho Ma la". Được mấy hôm,Vũ thị sinh ra một cái bọc đen nhẻm,bọc nở ra một đứa con trai,da đen như mực,nhân thế gọi là Ô Lôi. Vì thần không có họ nên lấy chữ "Hà" làm họ.
Ô Lôi tuy đen,nhưng da dẻ mỡ màng, đến năm 15 tuổi,vua gọi vào hầu,rất được tin yêu.
Một hôm,Ô Lôi cảm thấy tinh thần sảng khoái,tuy không biết chữ,song mẫn cảm hơn người,tư chương ngâm vịnh,ngón nào cũng tinh xảo. Mỗi khi ngâm nga bên cầu,trong quán,dật hứng dạt dào,đi rồi nhưng dư âm vẫn văng vẳng không dứt,ai cũng thích nghe,nhất là đàn bà con gái càng mê mẩn. Vua có lần đã hỏi:" Ô Lôi nếu phạm tội gian dâm thì bắt bồi thường một trăm quan".
Bấy giờ,có bà quí nhân quận chúa tôn thất Kim Bồng,người rất xinh đẹp,nhan sắc khuynh thành,nụ cười của bà làm mê hoặc Vương Thành, làm ngả nghiêng Hạ Thái. Năm 23 tuổi góa chồng.Vua muốn cầu hôn mà không được,mong nhớ khôn nguôi,liền bảo Ô Lôi:" Ngươi có kế gì đoạt được nàng không?" Ô Lôi đáp:" Thần xin một năm làm kỳ hạn,nếu không thấy thần tới thì là mưu không thành,thần đã chết ". Nói đoạn rồi từ biệt ra đi. Ô Lôi cởi bỏ áo quần,trát bùn lên người,phơi nắng,dầm mưa,trở nên xấu xí. Ô Lôi mặc quần vải rách,làm mục đồng,nô lệ đến thẳng nhà quận chúa,hối lộ cho đứa canh cổng để vào vườn cắt cỏ. Bấy giờ,đang mùa lê sai hoa,Ô Lôi cắt hết cho vào sọt gánh đi. Bọn hầu báo cho quận chúa. Quận chúa sai trói lại để hỏi. Ô Lôi nói:" Tôi là người lưu lạc,không chốn nương thân,thường làm con hát đi gánh thuê. Hôm qua,thấy quan coi ngựa ở ngoài cổng thành Nam,cho tôi 5 tiền,bảo tôi cắt cỏ cho ngựa ăn,tôi mừng rỡ đi cắt,ngỡ là cỏ tốt,không biết là lê. Nay không có gì để đền,xin bắt tôi làm nô,may ra thoát tội ".Quận chúa vẫn cho là không đúng,bắt trói ở ngoài cửa hơn một tháng. Có một nô tì thấy hắn đói khát,cho ăn uống. Ô Lôi rất xúc động,trước mỗi buổi sớm,ngâm nga ca hát để đáp lại tình cảm của  nàng.Người nghe ai cũng chăm chú,quên cả xấu xí mà xúc động vì tiếng hát của hắn.
Một hôm,quận chúa ngồi buồn một mình,xung quanh không có một bóng người,bền nổi trận lôi đình,gọi bọn nô tì tới quở mắng vì tội không chịu hầu hạ,định dùng tới roi vọt.Bọn nô tì đều khấu đầu tạ tội và thưa:"Chúng tôi không dám bê trễ công việc,chỉ mải nghe tên nô hát nên nỗi này,xin cứ đánh mắng ".Quận chúa bỏ qua không bắt tội nữa. Sau,quận chúa có lần cùng gia nô ngồi sân hóng gió,ngắm cảnh. Bỗng nghe có tiếng hát ngâm của Ô Lôi phảng phất như giai điệu nhạc trời,không giọng hát nào trên thế gian sánh nổi. Quận chúa cảm thấy tinh thần thay đổi,lòng phấp phỏng không yên,bèn cho gọi Ô Lôi vào hầu,cho ở cạnh,trở thành đứa hầu thân cận.Quận chúa thường sai Ô Lôi ngâm vịnh để giải nỗi niềm u uất của mình. Ô Lôi càng cố gắng,ngoan ngoãn hầu hạ quận chúa,rất chu đáo,từ nét mặt tới cử chỉ,không rời xa quận chúa một bước,luôn đón ý quận chúa cốt sao được bà để ý.Có bài ca trào lộng như sau:
Phong hà táp táp tự thổ nang
Xuất u cốc hề,tiệm phi dương
Hướng lai Lãng Uyển lộng thiều quang
Y thùy mạn tự lập phiên hàng
Nhập Bắc song hề xưng Hy Hoàng,
Lai Dương Đài hề ngu Tương Vương.
Tống nhân liễu hạ hề nghênh khách hải đường.
Giải cơ uẩn hề ta thử đ
di nương.
Dịch:
Gió sao phần phật,tự khe hang,
Ra khỏi động sâu bay bốn phương
Bay sang Lãng Uyển dỡn thiều quang
là ai tự dưng cờ từng hàng?
Vào cửa Bắc chừ xứng Hy Hoàng.
Tới Đài Dương chừ vui Tương Vương.
Đưa người dưới liễu chừ,đón khác bên hải đường.
Lại ngâm bài thơ giỡn trăng như sau:
Đô thị âm tinh tự ngọc bàn,
Tiến cừ vi vật tối linh đoan.
Đông tây túc bạc vô thường xứ,
Một kiến doanh hư bất nhất ban
Đô hướng bạch câu quang tá khích,
Tất dung tố nữ gián cao quan.
Trường tồn bất lão đồng thiên địa,
Cảm động thời thời bất tạm nhàn.
Dịch:
Tinh âm hết thấy,như mâm ngọc,
Phục nàng là vật rất linh thiêng
Đông tây ngơi nghỉ không cố định,
Thấy rõ đầy vơi chẳng một phường.
Đều mượn bóng câu nhờ khe cửa
Phải cho tố nữ vượt cao quan.
Không già còn mãi cùng trời đất,
Cảm động luôn luôn chẳng được nhàn.
Tiếng hát trầm bổng,điệu ngâm du dương,khiến nhạn ngẩn ngơ bay,cá bơi hờ hững. Quận chúa rất xúc động,trong lòng u uất,vài tháng sau càng thêm phiền muộn. Bọn nô tì vất vả theo hầu thuốc thang,ban đêm đều ngủ say.Quận chúa gọi không ai tỉnh dậy.Chỉ có Ô Lôi nghe gọi là dậy. Quận chúa biết bệnh đã gấp,không ngăn được tình cảm,liền nói nhỏ với Ô Lôi:"Tiếng hát của người làm tinh thần ta ủy mị,làm ta mệt mỏi nhớ mong nên mới đến nỗi này. Vả lại,xem những việc đã qua,khi người vừa cất tiếng hát ở trong sân,thì gió thu hiu hắt thổi tới,mây trắng nhởn nhơ bay về,cảnh vật còn như thế,huống chi là con người? Nay ta ngỏ lòng thành với người. Ta không để ý tới địa vị cao thấp. Nếu người biết chung lòng cầm sắt,cùng giải đồng tâm,thì hẳn không phải phiền thầy thuốc ra tay mà bệnh ta sẽ tự khỏi ". Ô Lôi nói:" Tôi thân chiếc hèn mọn,một bóng cô đơn,không có tài ứng xử cương nhu,không có chí xét cơ tiến thoái,để đến nỗi phải xông vào trong vườn,gây ra tai ách,may mà được tha tội,cho làm nô lệ,được tin yêu cho làm chân tay tâm phúc,nên Ô Lôi được sống nhờ dưới bóng chở che,không phải lo xoay xở trong cảnh cùng quẫn nữa,thực là may mắn cho ba kiếp của tôi! Còn như việc ca hát,chưa được hợp với tình người,chỉ làm vui mắt người xem,làm lạ tai thính giả,không được như Lý Nhương biết cảm động lòng người,chẳng dám sánh Quí Niên khéo so tài nghệ. Đâu có hơn người mà dám nói là cậy sở trường của mình. Chẳng ngờ bề trên lắng nghe kẻ dưới,để đến thế này,bảo tôi mau lo việc cầu hôn,vui vẻ suốt đời,đó là niềm vinh hạnh không ngờ vậy.Nhưng nghĩ tôi không phải là con nhà giàu sang,chỉ có chiếc thân nghèo hèn. Muốn khôi ngô thiên tư kỳ vĩ,lại chỉ có đầu chuột,mắt nai mà sánh đôi thì e không thỏa đáng. Xin cho tôi được từ chối ".
Quận chúa nói:" Ôi,người lầm rồi!việc động phòng hoa trúc chỉ cốt điều chủ yếu. Kẻ khéo dùng người,thì lấy sở trường,bỏ sở đoản. Vả lại,xem việc đã xảy ra,xét về tiết hạnh thì Hồ Dương nối lại duyên mới,xét về giàu sang thì Tiên Dung lấy con trai của người câu cá. Nếu đáng chê cười,thì các bậc tiền bối có dư chuyện rồi. Huống chi nhân tình chỉ yêu thanh sắc mà thôi. Đem thanh tuyệt thế so với sắc tuyệt thế thì có gì là không được? Sao lại nhiều lời thế?Nếu ngươi quá cố chấp,ngang nghạnh không nghe,chậm mấy tháng nữa thì bệnh ta không thể làm gì được nữa ".
Ô Lôi nói:" Vâng,vâng,quả như lời dạy!Thực đúng là vững vàng không lay chuyển,dám đâu không nghe lời!"
Thế là chúa khỏi bệnh.Từ đó về sau,say sưa kết chặt tâm thần,mê mẩn tấm thân tài sắc,biết có Ô Lôi mà không biết có nô tì,định chia ruộng đất cho Ô Lôi làm nhà cửa vườn tược. Ô Lôi nói:" Tôi vốn không có gia sản,nay gặp nàng là phúc của tiên trời. Tôi không muốn đất đai nhà cửa,chỉ mong được đội thử cái mũ đính ngọc Kim Lăng của nàng,thì dẫu chết cũng có thể nhắm mắt được rồi ".
Quận chúa chả tiếc thứ gì,đem chia cho Ô Lôi.Ô Lôi được mũ,bí mật đi gắp vua. Vua cả mừng,lập tức cho vời quận chúa,sai Ô Lôi đội mũ đứng hầu ở bên.
Vua hỏi quận chúa:" Có biết Ô Lôi không?" Quận chúa rất hổ thẹn.Từ đó,Ô Lôi vang danh thiên hạ ;con gái nhà Vương hầu làm thơ châm biếm như sau:
Kỷ niệm sương tuyết độc miên cô.
Nhất tiết vô khuy thủ tiết phù .
Tự thị đàn khuynh văn xướng hậu
Sô phu dĩ nhận tác nan phu.
mấy năm sương tuyết phủ đơn côi
Trinh tiết bảo toàn,chẳng để vơi
Từ buổi nghiêng đàn nghe tiếng hát
Chồng hờ đã nhận hẳn chồng tôi
.
Hiển động nhân hề vưu vật vi,
Vật tùy nhân động hữu thùy tri
Khán lại thanh sắc vô ưu liệt,
Sắc vị thanh di,thanh sắc di.
Lay động con người vưu vật kia
Vật theo người động có ai hay.
Xem ra thanh sắc không ưu liệt
Sắc vị thanh dời,thanh sắc dời .
Nhan sắc khuynh thành tập điệp phong,
Đoạn huyền bất khả cánh trùng giao.
Vị hà đồ thủ quân vương kế,
Quản giáo nô lai giải phát phong.
Nhan sắc khuynh thành tụ bướm ong
Đứt  dây chẳng thể gắn cho xong ,
Cớ sao dùng kế quân vương đó
Hãy bảo nô ra cởi tóc bồng.
Nhưng tiếng hát của Ô Lôi rất được người đời chú ý,dãu tránh cũng không được. Ô Lôi thường tư thông với con gái Vương Hầu,nhưng không ai dám giết nó. Một hôm,Ô Lôi thông dâm với em gái Uy Minh Vương,bị người nhà bắt được mà chưa dám giết. Minh vương vào triều tâu rằng:" Ô Lôi đang đêm lẻn vào nhà thần,trắng đen khó phân biệt,thần lỡ giết nó rồi,biết làm sao bây giờ?" Vua nói:" Lỡ giết rồi thì không xét ".Vương trở về,đặt Ô Lôi lên cối đá,giết chết.Khi sắp chết,Ô Lôi có bài thơ quốc ngữ như sau:
Hễ hỏi lam kiều sắc dễ ghen.
Một ngày ân ái tả muôn ngàn
Tri âm chốn khác dầu than hỏi,
Rằng sắc theo nòi Nam nhạc tiên.
Lại nói,trước đây,Lã Động Tân nói với Ô Lôi:" Thanh sắc của người,được mất  ngang nhau".
Đến đây,lời nói ấy đã linh nghiệm.Sau khi Ô Lôi chết,thanh âm nhập vào chày đá. Đời sau nghe tiếng chày đá vẫn có cảm xúc.