Dịch giả: Lê Thành
Chương 16

     ancy bấu chặt tay vào tấm chăn bông. Trong trạng thái xúc cảm mãnh liệt, nhịp thở của nàng trở nên ngắn, dồn dập và khó khăn.
Giữ lấy các ngón tay của Nancy, bác sĩ Lendon nói:
- Nancy à, cô không nên lo sợ. Mọi người đều biết cô không làm hại các con của cô. Hẳn đó là điều cô muốn bày tỏ chứ gì?
- Vâng... vâng... người ta vẫn nghĩ rằng tôi làm hại chúng. Làm sao tôi có thể giết chúng chứ? Chúng là một phần của tôi mà. Tôi chết với chúng...
- Đúng vậy, Nancy. Chúng ta đã phần nào chết đi khi mất mát những người thân yêu. Nancy à, bây giờ chúng ta có thể gợi lại đôi chút về cái quãng đời của cô trước đây, khi những rắc rối chưa hề xảy ra? Cô hãy kể cho tôi về thời thơ ấu của cô ở Ohio.
- Thời thơ ấu của tôi ư? - Nancy thì thầm; những cơ bắp căng thẳng của nàng dần dần buông thả.
- Đúng. Hãy kể cho tôi về cha cô, người tôi không được biết.
Thanh tra Jed Coffin tỏ vẻ nôn nóng. Ông ngồi không yên khiến cái ghế gây ra những tiếng ken két trên sàn gỗ. Trước thái độ đó, bác sĩ Lendon nhìn ông và nói:
- Tôi có lý do để hỏi Nancy những câu đó. Mong ông nhẫn nại cho.
- Ba tôi ư? - Nancy thốt lên, giọng đột nhiên tươi vui - Sống với ba thì chẳng bao giờ có phiền muộn. Tôi và mẹ thường ra sân bay để đón ba sau mỗi chuyến bay. Trong những năm đó, ba luôn mang quà về cho mẹ và tôi. Chúng tôi đã du lịch nhiều nơi trên thế giới. Tôi nhớ có lần du lịch...
Ray nhìn chăm Nancy. Đây là lần đầu tiên chàng nghe nàng nói bằng một giọng như thế - một giọng tươi vui, rộn rã, lẫn với tiếng cười. Phải chăng đó là một điều gì khác ngoài cái rã rời khi phải sống trong lo sợ bị người phát hiện sự thật? Chàng mong là như thế.
Jonathan Knowles chăm chú nghe Nancy. Ông thầm ngưỡng phục bác sĩ Lendon khi thấy ông này đã gây được niềm tin nơi Nancy, buộc được nàng phải thư giãn trước khi nêu lên những câu hỏi có liên quan đến vụ mất tích của các đứa bé bảy năm về trước. Tiếng tíc tắc của đồng hồ treo tường vội vã nhắc nhở về thời gian đang trôi. Jonathan nhận thấy rằng mình không thể dằn được phải thỉnh thoảng liếc nhìn Dorothy, ông biết rằng, lúc nãy khi bà ta lên xe, ông đã nói chuyện với bà một cách khá lạnh lùng, sở dĩ như thế là vì ông cảm thấy thất vọng khi biết bà ta cố tình lừa dối ông, cho rằng bà đã từng quen biết Nancy trước đây.
Ông thầm nghĩ, tại sao Dorothy phải nói dối như thế? Phải chăng vì ông đã nhận xét rằng Nancy trông quen và làm ông nhớ đến một người nào đó từng gặp? Hay vì bà ta e ngại cái thái độ nghiêm túc của một luật sư đã có thời nổi tiếng là ông?
Dầu sao, ông thấy mình cần phải ngỏ lời xin lỗi Dorothy mới được. Khuôn mặt bà ta trông u buồn đến thảm hại với những căng thẳng hằn trên nét mặt.
Ánh đèn trong căn phòng yếu dần rồi tắt ngúm.
Đặt cái micrô lên bàn, Jed Coffin nói khi đứng dậy đi tìm cái hộp quẹt:
- Chúng tôi phải chờ thôi.
Ray vội vã thắp hai cây đèn dầu cổ treo ở hai bên lò sưởi. Một thứ ánh sáng vàng pha lẫn với ánh lửa hồng nơi lò sưởi hắt vào cái trường kỷ, nơi Nancy đang nằm, và tạo cảnh tranh tối tranh sáng ở những góc phòng.
Ray có cảm tưởng những giọt tuyết tan đang quất mạnh hơn trên những ô kính và gió càng gào rít dữ dội hơn qua những hàng thông. Chàng thầm nghĩ, “Lạy Trời, thời tiết thế này mà nếu các con tôi...” Chàng nhớ, chỉ mới đêm hôm qua, chàng đã thức dậy khi nghe tiếng ho của Missy. Nhưng khi chàng vào phòng con thì Missy vẫn ngủ say, áp má vào lòng tay. Chàng đã cúi xuống để kéo chăn đắp cho Missy và nó đã cựa quậy, thều thào: “Ba”. Rồi nó lại chùi trong giấc ngủ khi Ray đặt tay lên lưng nó.
Chàng cũng nhớ rõ hình ảnh của Michael, chỉ mới hôm qua đây, chàng đã cùng Michael đến siêu thị Wiggins để mua sữa, vậy mà tưởng chừng như đã lâu lắm rồi! Họ đã đến vào lúc ông Parrish người thuê ngôi nhà Tháp Canh, vừa ra khỏi siêu thị, ông Parrish đã nhã nhặn gật đầu chào, tuy vậy, khi nhìn ông ta ngồi vào chiếc Ford cũ kỹ, Michael đã nhăng... thận trọng”. Y cố lắng nghe tiếng nói của lương tri, nhưng sao khó quá.
Có giọng nói:
- Tôi là John Kragopoulos.
Y thấy gã đàn ông đó chìa tay ra. Y vụng về lau bàn tay ướt đẫm mồ hôi vào quần trước khi bắt tay người khách.
Y nói bằng giọng cau có:
- Tôi là Courtney Parrish.
Khuôn mặt người khách lộ vẻ nhờm gớm khi bắt tay y.
Y thầm nghĩ, “Lại một thằng pêđê nữa... phân nửa số nhà hàng phía bên này Cape đều của những thằng pêđê. Bây giờ, bọn chúng cũng muốn nuốt cả ngôi nhà này nữa. Thật ra, sẽ chẳng sao cả, vì kể từ ngày mai, y sẽ không cần đến nó nữa”.
Bỗng dưng, y nhận thức rằng, một khi ngôi nhà này được bán đi, sẽ chẳng ai thắc mắc khi không còn trông thấy Courtney Parrish xuất hiện trong vùng này nữa. Lúc đó, y có thể theo chế độ ăn kiêng để giảm cân, có thể để tóc mọc trở lại và thay đổi ngoại hình, vì y cần phải tham dự phiên tòa xử Nancy, một khi người ta đã tìm thấy xác hai đứa bé và kết tội nàng. Thật là đơn giản. Y quả là người tốt số.
Một sự sảng khoái dâng lên trong y, khiến y rùng mình. Bỗng dưng, y nói, thật tự tin:
- Ông Kragopoulos à, tôi rất hân hạnh được biết ông. Rất tiếc là ông đến xem ngôi nhà tuyệt đẹp này vào lúc thời tiết quá xấu.
Như một phép lạ, hai tay, nách và bẹn của y không còn ướt đẫm mồ hôi.
Không khí căng thẳng giảm dần giữa ba người. Thật ra, Parrish nhận thấy rằng sự căng thẳng này chủ yếu xuất phát từ Dorothy. Điều đó cũng dễ hiểu thôi. Trong những năm gần đây, y đã hàng trăm lần trông thấy bà ta ra vào nhà Eldredge, đẩy hai đứa bé trên cái đu và lái xe đưa chúng đi chơi. Y đã liệt bà ta vào hạng: một bà góa ở tuổi ngũ tuần cố tỏ ra rằng mình là người hữu ích. Một kẻ sống bám, chết chồng, không con. Cái may của bà là bà không có mẹ già đau yếu để phụng dưỡng. Hầu hết những người như bà đều gặp trường hợp này. Điều đó giúp họ có được cái hình ảnh của một người phải xả thân hy sinh cho một ai đó, được trở thành một người cần thiết. Và nếu có con, họ sẽ dành mọi quan tâm cho con họ, tương tự như mẹ của Nancy.
Y quay sang nói với Dorothy:
- Tôi đã nghe tin tức qua đài, kinh khiếp thật, chẳng hay người ta đã tìm thấy hai đứa bé chưa?
- Chưa. - Dorothy đáp.
Bà không dằn được sự nôn nóng của mình. Cái đài vẫn còn mở trong căn phòng. Bà thoáng nghe câu “bản tin đặc biệt”. Bà vội nói, “xin lỗi” và chạy ào đến bên cái đài, mở lớn tiếng, “... bão đang lớn dần. Xin quý vị hãy đề phòng những cơn gió giật với sức gió từ tám mươi đến một trăm cây số giờ. Nên tránh lái xe trong cơn bão. Việc lặn tìm trong hồ và những cuộc tìm kiếm bằng máy bay hai đưa bé con ông bà Eldredge đã bị đình lại, nhưng các xe cảnh sát vẫn tiếp tục tuần tra tại Adam Port và vùng phụ cận. Thanh tra Jed Coffin của Adam Port yêu cầu những ai biết bất cứ một thông tin nào về hai đứa bé cũng như phát hiện bất cứ một ô-tô lạ hoặc người lạ mặt nào trong vùng, hãy gọi ngay số: KC 53800. Danh tánh của người báo sẽ được giữ kín”.
Bình luận viên của đài phát thanh nói tiếp: “Theo một nguồn tin có thẩm quyển thì bà Nancy Harmon Eldredge sẽ được đưa về sở cảnh sát để thẩm vấn”.
Dorothy thầm nghĩ, bà cần phải trở về với Ray và Nancy. Bà quay sang John Kragopoulos:
- Như anh thấy đó, đây là một căn hộ tuyệt đẹp, rất xứng hợp cho một cặp vợ chồng, cảnh quang nhìn từ các cửa sổ mặt tiền cũng như các cửa sổ phía sau thật là ngoạn mục.
John Kragopoulos hỏi Courtney Parrish:
- Anh quan tâm đến thiên văn?
- Không hẳn. Tại sao?
- Chỉ vì tôi thấy ở đây có cái ống viễn kính rất hiện đại này.
Quả là muộn màng khi Parrish nhận thấy rằng cái ống viễn kính đang hướng về ngôi nhà Eldredge. Thấy John Kragopoulos bước đến gần, y nhanh tay đẩy ống viễn kính hướng lên trên.
Y ngắn gọn giải thích:
- Tôi thích quan sát các vì sao.
John Kragopoulos áp mắt vào ống ngắm rồi thốt lên:
- Tuyệt thật... quá tuyệt!
Ông nhẹ nhàng hướng ống viễn kính về vị trí trước đó của nó. Rồi, nhận thấy vẻ khó chịu của Parrish, ông rời ống ngắm và quan sát căn phòng.
Ông nói, chủ ý để Dorothy nghe:
- Căn hộ này được bố trí rất tốt.
- Tôi luôn cảm thấy thư thái khi sống ở đây. - Parrish nói.
Thật ra y đang nguyền rủa chính mình. Một lần nữa, y đã phản ứng một cách vội vã, đáng để nghi ngờ. Một lần nữa mình mẩy lại nhễ nhại mồ hôi. Y tự hỏi không biết mình có còn sơ sót một điều gì nữa? Liệu y có để sót một vết tích nào của hai đứa bé? Y đảo nhanh mắt quanh phòng. Không thấy gì khả nghi.
Dorothy nói:
- Nếu không gì bất tiện, xin ông cho phép chúng tôi được xem qua phòng ngủ và phòng tắm.
- Vâng, quý vị cứ việc.
Lúc nãy, y đã trải lại khăn phủ giường và nhét hộp phấn talc vào hộc tủ nhỏ đầu giường.
- Phòng tắm ở đây rộng tương đương với phòng ngủ của một ngôi nhà hiện đại - Dorothy nói với John Kragopoulos. Rồi trông thấy cái bồn tắm đầy nước, bà thốt lên - Ồ, tôi bậy thật! Chúng tôi quấy rầy ông khi ông đang chuẩn bị tắm.
- Tôi không có thời gian để chờ đợi! - Parrish đáp với thái độ cho thấy y đang bực mình.
John Kragopoulos đi lùi ra khỏi phòng tắm. Ông biết rằng ông đang làm Parrish khó chịu và việc để đầy nước bồn tắm là cách thức thô thiển nhất để buộc Dorothy và ông phải hiểu điều đó. Ông thắc mắc, nhưng sao lại có con vịt bằng cao su trong bồn tắm. Một món đồ chơi của trẻ nít. John Kragopoulos trề môi khinh tởm. Ông đưa tay vuốt nhẹ lên cánh cửa tủ hốc tường, tò mò trước vẻ trơn bóng của gỗ. Ông biết mình có trực giác bén nhạy trong kinh doanh và trực giác này cho biết ông nên đầu tư vào ngôi nhà này. Văn phòng địa ốc kêu giá ba trăm năm chục ngàn đô-la... ông sẽ trả hai trăm chín chục ngàn và nếu cần sẽ lên đến ba trăm hai chục. Với giá đó, ông chắc sẽ làm chủ ngôi nhà tuyệt đẹp này.
Sau khi đã âm thầm quyết định, John Kragopoulos quan sát căn hộ với sự quan tâm của một chủ nhân.
Ông nói:
- Tôi mở cái tủ hốc tường này được chứ?
Đó là câu hỏi chiếu lệ vì ông ta đã cầm lấy nắm cửa tủ.
Parrish lắc đầu:
- Rất tiếc, tôi đã thay ổ khóa và không nhớ để chìa khóa ở đâu. Ông có thể xem cái tủ hốc tường kia, nó cũng tương tự như cái này.
Dorothy xem xét cái nắm cửa tủ và ổ khóa mới; chỉ là thứ hàng ngũ kim loại, rẽ tiền.
Bà nói:
- Tôi hy vọng anh còn giữ cái nắm cửa trước đây. Mọi nắm cửa ở đây đều được đúc bằng đồng khối.
- Vâng, tôi còn giữ. Chỉ cần kêu thợ đến gắn là xong.
Y thầm nghĩ, liệu con mụ này có khăng khăng đòi mở tủ cho bằng được? Nếu cái ổ khóa mới không đủ sức chịu đựng? Nếu nó bung ra khỏi khung gỗ? Hoặc nếu nó tự động bung ra thì sao?
Dorothy không nằn nì thêm. Bà thấy chuyện đó chẳng có gì là quan trọng và chút bực tức của bà đã nhanh chóng biến mất.
Parrish phải cắn môi, cố đèn nén nỗi ao ước tống xuất con mụ địa ốc và thân chủ của mụ ra khỏi nhà. Y tự hỏi, không biết đã bịt miệng lũ nhóc kỹ chưa? Liệu chúng có nghe giọng nói quen thuộc và cố tìm cách gây ra tiếng động? Phải đưa hai người này ra khỏi đây nhanh mới được.
Nhưng Dorothy cũng muốn rời khỏi đây. Bà thấy trong căn hộ này phảng phất một cái mùi khá quen thuộc - một mùi thơm làm bà rất nhớ Missy.
Bà quay sang nói với John Kragopoulos:
- Nếu anh muốn, chúng ta có thể ra về.
- Vâng. Ta đi thôi.
Lần này, John Kragopoulos không bắt tay Parrish khi rời căn hộ. Bước ra theo John Kragopoulos, Dorothy quay đầu lại, nói vội:
- Xin cám ơn ông Parrish. Tôi sẽ cho ông biết tin sau.
Dorothy và John Kragopoulos lặng lẽ xuống cầu thang rồi ngang qua nhà bếp. Khi mở cánh cửa sau nhà, Dorothy mới thấy rõ sự chính xác của bản thông báo về thời tiết. Sức gió đã gia tăng nhiều trong khi họ tham quan ngôi nhà.
Dorothy nói:
- Chúng ta phải chạy nhanh về nhà xe.
Vẻ đăm chiêu, John Kragopoulos gật đầu và nắm lấy cánh tay Dorothy với những loạt gió đang quất mạnh tuyết tan vào mặt, họ chạy nhanh vì không thấy cần phải men theo tường nhà nữa.
Vào đến nhà xe, Dorothy đi vào giữa chiếc Buick và chiếc xe của Parrish để mở cửa xe. Trong khi khom người ngồi xuống trên băng ghế phía sau tay lái, bà liếc nhìn xuống và trông thấy một mẩu vải đỏ trên nền nhà xe. Bà ra khỏi xe, cúi lượm mẩu vải và ngả người xuống băng ghế xe, áp mẩu vải lên má.
Trông thấy thái độ lạ thường của Dorothy, John Kragopoulos lo lắng hỏi:
- Có chuyện gì thế, thưa bà Prentiss?
- Đúng là cái bao tay! - Dorothy thốt lên - Bao tay của Missy! Hôm qua, khi tôi đưa Missy đi ăn kem thì cháu mang cái bao tay này. Missy hẳn đã làm rơi nó trên xe và lúc nãy, có lẽ nó đã vướng vào giày tôi và rơi xuống đất khi tôi rời xe. Missy vẫn thường đánh rơi bao tay. Sáng nay người đã tìm thấy một cái cùng cặp với cái này ở nơi cái đu.
Dorothy nức nở khóc - những tiếng nấc khô khốc mà bà rán nén bằng cách áp cái bao tay lên miệng.
John Kragopoulos dịu dàng nói:
- Tôi không biết nói gì hơn. Tôi chỉ biết tin rằng có một Thượng đế đầy thương yêu và từ tâm, biết xót thương trước nỗi khổ của ta và trước nỗi tuyệt vọng của các bậc làm cha mẹ. Ngài sẽ không bỏ rơi ta. Tôi tin chắc như thế. Bây giờ, xin chị vui lòng để tôi cầm lái cho.
- Vâng. - Dorothy nói, giọng nghẹn ngào. Bà nhích người sang ghế bên.
Bà nhét cái bao tay vào túi áo, thầm nghĩ không nên để Ray và Nancy trông thấy nó. Bà tưởng chừng đang trông thấy Missy cởi cái bao tay để ăn kem. Mới hôm qua đây thôi! Tội nghiệp hai đứa bé!
John Kragopoulos cảm thấy thích thú khi được cầm lái. Lúc nãy khi ở trong căn hộ đó, ông cảm thấy bồn chồn khó chịu. Có cái gì đó nhầy nhụa, nhờm tởm, toát ra từ con người Parrish. Đã vậy, lại có cái mùi phấn talc dành cho con nít thoang thoảng trong phòng, và món đồ chơi lạ lùng thả trong bồn tắm. Ông thắc mắc chẳng hiểu tại sao một kẻ đã trưởng thành như Parrish lại cần những thứ đó?
Nép bên cửa sổ ở tầng ba, Parrish nhìn chiếc xe mất hút sau khúc quanh. Rồi, bằng bàn tay run rẩy y lấy chìa khóa ra khỏi túi và mở cái tủ hốc tường.
Thằng bé trai vẫn tỉnh. Nó nhìn y bằng đôi mắt mở lớn in đậm vẻ sợ hãi câm nín. Tay chân nó vẫn bị trói chặt và miệng bịt kín.
Parrish thô bạo đẩy nó sang một bên để nắm lấy con bé. Y nhấc tấm thân bé bỏng, mềm nhũn đó lên và đặt xuống giường. Rồi y gào lên một tiếng giận dữ, tuyệt vọng, khi trông thấy đôi mắt khép kín và khuôn mặt tái nhợt...