Trang 6

26.- Hạnh-Nguyên cùng Mai-sinh tự-tình trên trùng đài (câu 1001-- câu 1056)
          Nàng truyền đóng lại nghỉ-ngơi,
          Lên đền dạo cảnh, xem chơi gọi là.
          Huyện-thành sắm-sửa gần xa,
          Đài vừa dọn sạch, nàng vừa xuống xe.
          Hương-đăng vừa đủ lễ-nghi,
          Tiện, nàng lên đấy lạy về gia-hương.
          Quan quân đóng chật huyện-đường,
          Một nàng Hạnh với hai chường cùng lên.
          Từng từng đợt dưới, đợt trên,
          1010.- Ngẫm xem phong-cảnh bốn bên trập-trùng,
          Cao cao thôi lại từng từng,
          Trời như khổ thấp, đất bằng dường xa,
          Bảo nhau rồi mới nhận ra,
          Đông-nam phương ấy, ấy là cố-hương.
          Xuân-sinh đón biết ý nường,
          Muốn điều từ-biệt với chường Mai-sinh.
          Một mình bước xuống làm thinh,
          Mặc ai trên ấy tự tình với ai.
          Trông chàng nàng mới rỉ tai: 1020.- "Trăm năm ghi tạc một lời từ đây.
          "Bao nhiêu tình-tự xưa nay,
          "Tóc tơ giãi một chốn này là thôi!"
          Mai-sinh nhân lúc vắng người.
          Gạt ngang nước mắt, bày lời trước sau:
          "Nói càng như gợi cơn sầu,
          "Trách vì phúc bạc xứng đâu má đào.
          "Tấc lòng thề với trời cao,
          "Quản chi trắng tóc, nỡ nào nối dây.
          130.- "Sẵn ngôi phi-hậu dành ngày vinh-hoa.
          "Riêng ai trách lẫn trời già,
          "Xe tơ sao khéo hững-hờ cợt ai."
          Nàng rằng: "Lời dạy dường sai,
          "Tấm thân đã phó cửa Mai những ngày.
          "Sông dù cạn núi dù lay.
          "Đã liền xương trắng dám thay lòng vàng.
          "Đem thân đối với cương-thường.
          "Tạ lòng người cũ treo gương dưới đời.
          "Mình nào sánh với tanh-hôi?
          1040.- Mặt nào còn đứng cõi đời được ru!
          "Khuyên chàng ghi nghĩa xuân-thu,
          "Mối tình hãy gác, nỗi thù chớ quên.
          "Cùng em cho tiện sách đèn,
          "Công-danh gặp hội thanh-niên đương vừa,
          "Một mai lộc nước phấn vua,
          "Danh mình cũng rạng, thù nhà cũng xong.
          "Thân ai đành trọn chữ tòng,
          "Suối vàng tươi mát, má hồng lây thơm.
          "Rồi đây kẻ bắc, người nam,
          1050.- "Cành thoa xin tặng để làm của tin.
          "Vật thường gọi chút làm duyên!"
          Luật Đường mới ngụ một thiên giãi-bày.
          Trùng-đài còn nhớ là đây,
          Giã nhau gọi nhớ đến ngày biệt-ly.
          Mai-sinh đôi giọt dầm-dề,
          Thoa thì chịu lấy, thơ thì Man-phương
27.- Hạnh-Nguyên cải trang (câu 1057-- câu 1074)
          Bâng-khuâng lời ít tình nhiều,
          Thị-tì đâu đã dập-dìu kéo lên.
          Cùng nhau lạy trước đài tiền,
          1060.- Lần thang bước xuống, giục liền gióng xe.
          Gia-hương tình nặng bề-bề,
          Ải-quan đâu đã gần kề tới nơi.
          Tổng-binh sửa chốn nghỉ ngơi,
          Đảng-công đã dạy cho mời cải-trang.
          Ngắm mình ra vẻ Man-phương,
          Xiêm tơi-tả bức, áo lang-lổ mùi.
          Lông cài trên mũ một đôi,
          Đổi hình khuê-nữ ra người Yên-chi.
          Ngựa đâu kéo đến tức thì,
          1070.- Mai-sinh gần đấy phù trì lên yên.
          Hình-dung ai vẽ cho nên,
          Hương xa đã đổi mã yên bao giờ.
          Hai chàng cảm nỗi gần xa,
          Đều cùng đọc một câu thơ tiễn-hành.
28.- Lúc chia rẽ mỗi người mỗi ngả (câu 1075 - câu 1094)
          Lên yên nàng cũng gửi tình,
          Đọc rồi mới giục hai sinh trở về.
          Ngại-ngùng thay, lúc phân kỳ,
          Người về cố-quốc, kẻ đi sa-trường.
          Người đồng thất, kẻ tha-phương,
          Hàng châu sùi-sụt, bước đường chia đôi.
          Nàng còn dặn với mấy lời:
          1080.- "Thù kia chớ để đội trời ở chung.
          "Sao cho tâm-lực hiệp đồng,
          "M ổ gan nghịch-tặc, thỏa lòng nữ-nhi".
          Xót người tú các hương khuê,
          Mối tình ly-biệt, đường đi phong-trần.
          Lạ tai mấy tiếng man-nhân,
          Giọng xa ríu-rít giọng gần ét-eo.
          Bên trời phong-cảnh đìu-hiu,
"Một mình tránh khỏi nguy-nàn tới đây.
"Cả liều nào quản vơi đầy,
1460.- Phúc sao, may khéo là may, gặp người."
39.- Ngư bà hứa gả con gái nuôi cho Xuân-sinh (câu 1461 - câu 1534)
          Ngư-bà nghe bấy nhiêu lời,
          Nhủ rằng: "Thôi cũng có trời chẳng không!
          "Năm xưa vớt được giữa dòng,
          "Một hòm âm-ấp những vòng với thoa.
          "Khen thầy nó dặn lão-bà,
          "Để cho con gái tên là Ngọc Thư.
          "Gặp ông thầy số năm xưa,
          "Đoán cung-mệnh cháu khen bà phu-nhân.
          "Gạo công, đòi đủ trăm cân,
          1470.- "Khen đi, khen lại phu-nhân khác thường,
          "Bây giờ may vớt được chường.
          "Mà xem tướng-mạo đường đường dáng quan.
          "Hẳn rằng thiên địa tuần-hoàn,
          "Mà cho chàng lại trôi ngang vào chài.
          "Nên nay lại vớt được người,
          "Hai phen vớt được một đôi rõ-ràng.
          "Thôi đừng quản thiệt tham hơn,
          "Băn-khoăn kén cá, phàn-nàn chọn canh.
          "Ngọc Thư cho két duyên lành,
          1480.- "Họa là phu quí phụ vinh kịp ngày.
          "Được như số đoán là may,
          "Vong-hồn cũng thỏa đến thầy nó xưa."
          Xuân-sinh nghĩ đã chót nhờ,
          Vả xem phong-dạng Ngọc Thư ra tuồng.
          Thưa rằng: "Chút phận tha hương,
          "Đã thương yêu đến, dám ruồng-rẫy ru!
          "Xin vâng, nhưng hãy xin chờ,
          "Bảng vàng rồi sẽ đuốc hoa cũng vừa."
          Bà mừng, kíp gọi Ngọc Thư,
          1490.- Một lời đã định phải ra chào mời.
          Thẹn-thùng lững-thững chân dời,
          Nàng e còn đứng, chàng coi đã tường.
          Quả nhiên nhan-sắc dị thường,
          Mai hình tú bộkhác thường ngư-gia.
          Khi vui nảy phút hứng thừa,
          Khen thầm trong bụng nên thơ một bài.
          Thấy chàng, nàng cũng mừng vui,
          Dáng người thanh-thú, vẻ người văn-chương.
          Chắc rằng có phận giàu-sang,
          1500.- Hứng lòng cũng ngụ luật Đường bốn câu.
          Dần-dà quen thuộc bấy lâu,
          Mới hay nương-tử họ Châu ấy là.
          Nực cười thay! thú ngư-gia,
          Sớm qua Tầm-thuỷ, tối về Hàn-san.
          Ca chèo, nhịp nhặt, nhịp khoan,
          Trăng lòn sau lái, gió đàn trước song.
          Bốn mùa mặt nước sinh nhai,
          Lưỡi câu, sợi chỉ, tay chài mặt sông.
          Mặc ai danh-lợi trong vòng,
          Xiêm vằn-vặn lưới, đai long-lỏng thừng,
          Thoi đưa nấn-ná ba đông,
          1510.- Trải phần đông-quí, sang chừng xuân qua.
          Tết trung náo-nức gần xa,
          Neo thuyền giặt lưới, giăng bè dựng nêu.
          Ngư-bà mới bảo Ngọc Kiều,
          Mượn điềm bói cá thay gieo tú cầu:
          "Lưới này như được cá đầu,
          "Duyên con thì định xuân sau kén ngày.
          "Ví bằng ba lưới không tay,
          "Thành thân thong-thả sau này sẽ hay."
          Bàn rồi chia việc làm ngay,
          1520.- Kẻ buông tay lưới, người gay cột chèo.
          Cầm sào chàng cũng đẩy theo,
          Ngọc Thư đỡ lấy có chiều lần-khân.
          Lạ gì đôi lứa vừa xuân,
          Ai hay rơm bén, lửa gần với nhau?
          Ngư-bà liếc thấy vừa hai,
          Nghĩ thầm chuyện ấy có người, có ta!
          Người yểu-điệu, kẻ tài-hoa,
          Khi vào sát áo, khi ra chạm quần.
          Nghe nặng lưới, kẻo lên dần,
          1530.- Lý-ngư đâu đấy trần-trần một đôi.
          Sinh rằng: "Ăn những ngồi rồi,
          Này xin đem bán chợ chơi một lần"
          Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
          Mà cho trải với thế-nhân đủ điều.
40.- Cướp gái đẹp Giang-Khôi bị phạt (câu 1535 - câu 1624)
          Chàng vừa đi khỏi chợ chiều.
          Thuyền ai đâu đã ghé chèo tới nơi.
          Trên mui ngồi tốt một người,
          Nghênh-ngang dáng cậu, nói cười giọng quan.
          Một thuyền vâng dạ đã rân,
          1540.- Tiểu-hầu, đầy tớ một đoàn như rươi.
          Khoe-khoang một tấc đến trời,
          Quần hồ sột-soạt, áo mồi trai lơ.
          Trông sang nhác thấy Ngọc Thư,
          Xúm quang,rắn ếch, bướm hoa, động lòng.
          Đặt ra một mẹo hư không,
          Bạc năm mươi lạng một phong sẵn-sàng.
          Giao cho đầy tớ đưa sang,
          Mua làm tiểu-thiếp, mong đường ép duyên.
          Thuận lòng bao quản sang hèn,
          1550.- Tam-bành bà đã nổi lên một hồi.
          Ngọc Thư ngấm-nguýt một hai,
          Trong khi quá giận, lắm lời sam-sưa.
          Khuyển, Ưng một lũ mắt đưa,
          Để phong bạc, bắt Ngọc Thư đem về.
          TIếng nàng kêu dậy giang khê,
          Một đoàn thuyền-hộ kéo bè la om.
          Vác sào quơ gậy ỳ-òm,
          Lao-xao nổi tép nổi tôm một vùng.
          Lời thô tiếng tục như ong,
          1560.- Kẻ toan cướp lại, người hòng đánh nhau.
          Bàn dày, bàn mỏng giờ lâu,
          Xuân-sinh trong chợ may đâu vừa về
          Can rằng: "Xin hãy im đi,
          "Khôn không qua lẽ, phép thì có quan."
          Bảo nhau tìm chốn kêu oan.
          Giắt theo chứng tá, một đoàn ngư-nhân.
          Bước đi bóng đã xế dần,
          Nửa đường gặp lũ quan-quân dài dài.
          Đèn lồng trước kiệu hàng hai,
          1570.- Hiệu đèn Đề-đốcchữ nhồi nét son.
          Giữa đường quì xuống kêu dồn.
          Nghe truyền dừng kiệu, ôn tồn hỏi tra.
          Thưa rằng: "Chút phận ngư-gia,
          "Gặp chàng công-tử, họ là họ Giang.
          "Khinh người hèn, cậy mình sang.
          "Lấy điều thân-thế, toan đường hiếp ai.
          "Kề thuyền cướp lấy vợ người,
          "Chuyện này, muôn đợi đèn trời xét cho.
          "Cao-minh xin thứ dân ngu,
          1580.- "Vội-vàng kêu miệng, nào lo kịp tờ."
          Lệnh quan một tiếng truyền ra:
          "Con quan quen ỷ thế cha, cũng thường.
          "Tên này phong-dạng ra tuồng,
          "Nhìn xem chưa hẳn là phường ngư-gia!"
          Kịp truyền tới bến đại hà.
          Bắt Giang công-tửvề nha tức thì.
          Nguyên-đơn cũng bắt đem về,
          Kiệu đi một lúc đã kề đại-doanh
          Hiên-mônvẽ hổ trước bình,
          1590.- Giáo thăm-thẳm dóng, quân sình-sịch hơi.
          Thung-dung xuống kiệu sảnh ngoài,
          Tiếng loa thị-sự, hồi còi thu quân
          Hầu bên hai dãy biền-thân,
          Nệm trăm-trắm trải, nến rần-rật giong (chong ).
          Ngậm tăm lặng ngắt như không,
          Trại ngoài điểm trống, dinh trong đóng kèn.
          Một vòng quân khảo như nêm
          Hàng giăng giá nọc, chật lèn túi roi.
          Giao canh trống mới sang hai,
          1600.- Phạm tù đã thấy lôi-thôi điệu về.
          Giang Khôi dường cũng khiếp uy.
          Liếc trông mặt sắtlặng nghe tiếng đồng.
          Quở rằng: "Cậy thế thị hùng,
          "Ra ngoài văn-pháp vào trong dâm-tà.
          "Án này cứ miệng ngư-gia,
          "Phỏng như tội ấy, nghĩ đà đáng chưa?"
          Kiên gan Khôi cũng lôi-la,
          Rằng mua rằng bán, rằng lừa trăm khoanh.
          Rồi ra chứng-tá phân minh,
          1610.- Dường cưng-cứng lưỡi, dường quanh-quẩn lời.
          Quan-môn biết sự chẳng sai,
          Lấy điều nhỏ-nhặt truyền đòi Ngọc Thư.
          Hỏi ra mới biết rằng là:
          "Liễu dù gặp gió, sen chưa nhuốm bùn!"
          Đòi Giang tri-phủ quở dồn:
          "Khen làm dân-mục dung con bất tài.
          "Mắt trông tay trỏ đủ mười,
          "Phép vua khôn thứ, miệng người khôn che.
          "Tội con phạt bốn mươi bê,
          1620.- "Cha đà biết tội tha về lượng cho.
          "Nguyên-đơn một lũ họ Châu,
          "Chờ mai thẩm lại mới hồ tha xong."
          Truyền cho ở lại nha-phòng,
          Sáng mai sẽ hỏi xem trong tình đầu.
Chú thích:
    môn-đệ: Học-trò hay là người chịu ơn, thuộc viên cũng xưng được là môn-đệ.
    ân sư
    : Thày dạy, người chấm trường cho đỗ cũng gọi là ân-sư.
    Hà-nam
    : Một tỉnh bên Tàu. Tỉnh lỵ là huyện Khai-phong bây giờ.
    tuần-hành
    : Đi tuần xét phong-tục chính-trị, cũng như kinh-lý.
    xích-tử
    : con đỏ, trỏ vào dân-chúng địa-phương.
    Văn-chương tài-mạo
    : Chữ nghĩa tài hoa và bóng dáng người.
    Cánh bằng
    : Con chim to, nói bóng về công danh bay nhảy (xem chú thích ở dưới)
    tân-phục
    : Quần áo mới.
    nhật trình
    : Đồ hành-lý đi đường.
    phó lỵ
    : Đến chỗ làm quan đây trỏ Châu-công.

    [Back to the top]

    tiến kinh: Lên kinh, đây trỏ Phùng-công.
    Nhiêu-châu
    : Tên một phủ thuộc tỉnh Giang-tây. Bây giờ là huyện Phiên-dương.
    biên-phong
    : Tịch-biên và niêm-phong, nhà có tội người bị bắt, gia-sản bị tịch-biên, nhà cửa bị niêm-phong.
    biện oan
    : Phân-trần cho rõ sự oan-uổng.
    cô-đan
    : Lẻ-loi, một thân một mình, cô đơn.
    Hồng-nhan
    : Má hồng, câu này nói về Hạnh Nguyên, chị gái của Xuân-sinh phải đi cống Hồ, chả biết còn hay đã chết.
    chu-tuyền
    : chữ chu-tuyền đây có nghĩa là săn-sóc.
    Mai-kha
    : Anh họ Mai, trỏ Mai-sinh.
    trần ai
    : Bụi-bậm, chữ trần-ai đây có nghĩa là nơi hiểm-nghèo.
    oan thác
    : Chết oan, trỏ Mai-sinh.

    [Back to the top]

    ngục hình: Phải giam-cầm, trỏ ông bà Trần-công.
    bất minh
    : Không sáng-suốt.
    gian-đảng
    : Đảng gian-nịnh.
    hiền-tài
    : Bậc hiền-lành, tài giỏi.
    lông hồng
    : bởi chữ Hồng-mao, lông chim hồng, thứ lông rất nhẹ.
    khí sinh
    : Bởi chữ sinh-khí: Hơi sống.
    gian-thần
    : Bầy tôi gian-nịnh.
    hòa Man
    : Hòa với rợ Man tức nước Sa đà.
    phó giam
    : Bắt giao giam giữ tại ngục.
    Ngọc Thư
    : Sau là chính-thất của Xuân-sinh.

    [Back to the top]

    thiên địa tuần-hoàn: chữ tuần-hoàn đây có nghĩa như giong-ruổi.
    Mai hình tú bộ
    : mai hình: vóc mai ; Tú bộ: gót thêu. thủa xưa con gái Tàu ưa thân hình mảnh-khảnh và bó chân, đây nói về tướng người con gái lịch-sự bóng-bảy thanh-thấu.
    nên thơ một bài
    : Thơ của Xuân-sinh:
        Quốc-sắc thiên tư khởi tại trang,
        Bố quần ngư tráo thắng nghê-thường.
        Nhược xuyên hoàn-bội nghinh phong lập,
        Nghị thị Hằng-nga hạ thử phương.
    Nghĩa là:
          Sắc đẹp thiên-nhiên không phải ở đồ trang-sức,
          quần vải lưới cá hơn cả nghê-thường,
          nếu đeo vòng xuyến mà đứng trược gió,
          thì ngờ là ả Hằng-nga đã giáng-hạ nơi này.
    luật Đường bốn câu
    : Thơ của Ngọc Thư:
        Cốt cách thanh kỳ thực khả khoa,
        Thân xuyên ngư phục tác ngư gia,
        Nhược đắc xuân bôi long báo tín,
        Bất thì thượng-uyển hảo khan hoa.
    Nghĩa là cốt cách thanh-nhã lạ-lùng thực đáng khoe, vì mình mặc áo chài nên làm nhà thuyền chài. Nếu được tiếng sấm mùa xuân rồng báo tin, bất thần có lúc xem hoa tại vườn Thượng-uyển.
    Sớm qua Tầm-thuỷ, tối về Hàn-san
    : Tầm thủy: Sông Tầm, bên Tàu có hai con sông là Tầm-giang thuộc tỉnh Quảng-tây và Tầm-dương thuộc tỉnh Giang-tây, nơi Bạch-cư-Dị bị biếm.
    Hàn-san: Tên một ngôi chùa ở ngoài thành Cô-tô thuộc tỉnh Giang-tô bên Tàu. Chữ Tầm-tủy và Hàn-san trong câu này, chỉ là mượn tên để nói về cảnh sông nước.
    đông-quí
    : Cuối mùa đông.
    Ngọc Kiều
    : tức Ngọc Thư.
    tú cầu
    : quả cầu bằng vóc. Tục kén rể bên Tàu: Con gái ngồi trên lầu tung quả cầu xuống, ai nhặt được là trúng tuyển.
    Lý-ngư
    : Cá chép.
    rắn ếch, bướm hoa
    : Câu này ý nói thấy gái đẹp như rắn thấy ếch, như bướm thấy hoa.

    [Back to the top]

    Tam-bành: Ba vị hung-thần trong mình người ta hay xui giục người nổi cơn giận dữ.
    Khuyển, Ưng
    : Khuyển: chó ; Ưng: chim cắt. chó săn chim cắt là hai vật dữ tợn, dùng ví với bọn đầy tớ hung tợn đắc lực.
    giang khê
    : Đây trỏ nơi sông bến.
    thuyền-hộ
    : Đây trỏ về dân chài lưới.
    ngư-nhân
    : Người thuyền chài, người đánh cá.
    Đề-đốc
    : Một chức quan về ngành võ quan cao cấp.
    Giang công-tử
    : Công-tử họ Giang tức Giang Khôi.
    Nguyên-đơn
    : người đứng tên trong đơn đi kiện, tục quen gọi là bàn nguyên.
    đại-doanh
    : Dinh lớn, đại bản-doanh, nơi võ-quan đóng.
    Hiên-môn
    : hay viên môn: Quan tướng đóng đâu có xe chất lên làm cổng, gọi là viên-môn.
    sảnh
    : tức sảnh đường: Một nơi dinh-thự to, nơi công đường.
    thị-sự
    : Coi việc: tức là buổi xét xử công việc quan.
    biền-thân
    : Nha lại, thuộc viên.
    Phạm tù
    : Kẻ can-phạm
    Giang Khôi
    : tức kẻ bị cáo.
    mặt sắt
    : bởi chữ thiết diện. Nói về ông quan nghiêm-nghị, đanh thép, không tư-vị ai.
    Quan-môn
    : cửa quan.
    Giang tri-phủ
    : Quan Tri-phủ họ Giang, bố Giang Khôi.
    dân-mục
    : Người chăn nuôi dân, tức là quan đầu hạt.
    bất tài
    : Chẳng có tài, mất nết, chữ bất tài đây có nghĩa là nết xấu.
    Mắt trông tay trỏ đủ mười
    : Câu này bởi chữ thập mục sở thị, thập thủ sở chỉ: Mười mắt cùng trông, mười tay cùng trỏ.
    bốn mươi bê
    : có lẽ là 40 trượng hay 40 roi.
    họ Châu
    : Họ của Ngọc Thư.
    nha-phòng
    : Nơi phủ-nha.


Nguồn: VansonNguyen
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 14 tháng 2 năm 2004