Trang 3

11.- Mai-công đến thăm Phùng Đô-sát (câu 301 - câu 336)
          Kíp truyền quân kiệu tháo lui,
          Sang tòa Đô-sát, họp người đồng niên.
          Phùng công ra đón rước liền,
          Chủ tân một hội, hàn-huyên mấy lời.
          Sự tình kể-lể lôi thôi,
          Ngoài ngàn muôn dặm, trong mười mấy năm.
          Xiết bao trò-chuyện tri âm,
          Khói hương cao thấp, chén chầm đầy vơi.
          Mai-công rằng lúc mới rồi,
          310.- "Tức gan mà lại nực cười lắm sao."
          Kể từ tướng-phủ mới vào,
          Thế nào khinh-dể, thế nào hỏi han,
          Miệng đường lại, mặt môn-quan,
          Kẻ xin đòi lễ, mình toan ném tờ.
          Đinh-ninh kẽ tóc chân tơ,
          Từ đầu đến cuối kể qua một hồi.
          Chư công rằng: " Hãy kín hơi,
          "Nghĩ cho chín, mới là người tri cơ.
          "Rồi đây trời cũng có ta,
          320.- "Làm bao giờ, biết bấy giờ, mới cao."
          Ông rằng: "Như thế thảo nào,
          "Bè gian trách chẳng quyền-hào lắm ru!
          "Như bây giờ việc nên lo,
          "Quấy hôi đặt miệng, bày trò Trào-châu.
          "Tôi đà tính trước nghĩ sau,
          "Muốn yên chi khỏi lấy đầu họ Lư?
          "Thôi đừng sợ oán sợ thù,
          "Rày lần mai lữa, nhập-nhù khó coi.
          "Việc này giao một mình tôi,
          330.- "Để mà xem Kỷ với Mai thế nào!
          Ví bằng giải kết làm sao,
          "Giữ-gìn Mai-thị trỏ vào lối sinh.
          "Già này dù thác cũng vinh,
          "Suối vàng khuất mặt cũng khinh-khích cười."
          Thoắt thôi từ tạ mấy người,
          Tấc lòng thề chẳng đội trời với ai.
12.- Mai-công dến mừng tiệc thọ Lư Kỷ (câu 337 - câu 410)
          Ngày xuân thấm-thoắt đưa thoi,
          Lư-công tuổi thọ sáu-mươi vừa tuần.
          Định ngày vui mở tiệc xuân,
          340.- Vua cho lễ-vật nội thầnđem ban.
          Lại truyền văn võ bá quan,
          Cứ ngày cùng đến tướng môn lễ mừng.
          Phủ-đường dọn dẹp tưng-bừng,
          Rỡ-ràng kết thái trương đăng trong ngoài.
          Vóc đề chữ, gấm thêu bài,
          Vịnh ca Thiên-bảo, chúc lời Nghiêu-hoa,
          Dập-dìu chốn vũ nơi ca,
          Trò bày bách hí, nhịp hoà bát âm.
          Chong giá nến, quạt lò trầm,
          358.- Rót bình rượu ngọc, dâng mâm đào vàng.
          Võng đầy cửa ngựa chen đàng,
          Khắp triều quan đến, khắp hoàng thân ra.
          Bày phô chén ngọc đũa ngà,
          Gia-hào mấy vị, trân-la mọi mùi.
          Tướng-công thăm-thẳm xa ngồi,
          Tiếp tân phó mặc con nuôi họ Hoàng.
          Mai-công lễ vật tầm thường,
          Miến vài cân với lạp-hoàng vài đôi.
          Hoàng Tung trông thấy mỉm cười,
          360.- Tìm Lư-công, đến tận nơi tiến trình.
          Tướng công ngồi trước thọ bình,
          Chói vàng bông mũ, ngắt xanh hoa bào.
          Tứ bề trướng gấm màn đào,
          Mùi hương-xạ ngát, tiếng thiều nhạc rung.
          Trông ra nhác thấy Hoàng Tung,
          Xem đơn lễ mới thung-dung dạy lời:
          "Ít nhiều có lễ thì thôi,
          "Hãy thu lấy đấy, khuyên mời hẳn-hoi.
          "Tay này là bậc đại tài,
          370.- Để ta mua chuộc làm tôi tớ nhà."
          Cứ lời Tung mới bước ra,
          Chào rằng: "Vâng mệnh ân-gia mời ngồi.
          "Lễ đơn đây đã thu rồi,
          "Dám xin vài chén tiệc vui gọi là!"
          Mai-công rằng: "Những ở xa,
          "Chẳng hay quí chức tuổi đà bao nhiêu?"
          Tung rằng tuổi cũng chưa nhiều,
          "Năm mươi-tư tuổi gần theo cõi già."
          Ông rằng: "Thực cũng khéo là,
          380.- "Thế mà nghĩa-phụ thế mà ân-nhi.
          "Sống lâu thấy lắm chuyện kỳ,
          "Sao xưa nay vẫn không nghe tiếng đồn?
          "Mới hay vượng-khí tướng-môn,
          "Năm lên sáu tuổi sinh con đầu lòng."
          Tung nghe ra giọng đâm hông,
          Mặt ngăn ngắt tím, mắt sòng-sọc trông.
          Các quan biết ý Hoàng Tung,
          Giả điều mời rượu Mai-công ép nài.
          Ông rằng: " Lượng rượu kém ai,
          390.- "Tiệc vui, dù chẳng đợi mời cũng say.
          "Nghe hơi tử-khí đâu đây,
          "Dẫu rằng nửa chén đưa cay chẳng màng.
230.- Trước đi tìm chốn thảnh-thơi đón mời.
Tuy rằng quán khách hẹp-hòi,
Chốn nằm cũng tĩnh, chốn ngồi cũng thanh.
Thung-dung hỏi chuyện trong Kinh:
Lư, Hoàng lũ ấy tung-hoành ra sao?"
Thưa rằng: "Chức trọng quyền cao,
"Triều-quan quá nửa ra vào làm tôi.
"Ai ai khóa miệng bịt hơi,
"Ngang vua phú-qúi, nghiêng trời uy-linh.
"Đại-gia rày ở quan Kinh,
240.- "Theo đòi nhiều ít, thế tình là xong."
Mai-công nổi giận đùng đùng,
Rằng: "Phen này quyết chẳng dung loài hồ.
Vào đây ta sẽ hay cho,
"Đừng Tung, đừng Kỷ, hết Lư, hết Hoàng!
"Mặt nào bắt-chước thế thường,
"Thiết-tha ban tối, khoe-khoang giữa ngày."
Gan càng tức, ruột càng đầy,
Truyền thôi cuộc rượu, vào ngay trong bình.
Sáng mai thức dậy trông quanh,
250.- Treo trên thấy có bực tranh Di, Tề.
Như khêu tấm dạ trung-nghì,
Dạy đem nghiên-bút thơ đề mấy câu.
Than rằng: "Thanh ứng khí cầu.
"Người kim cổ, bụng trước sau một đường."
9.- Quang cảnh nơi kinh-đô (câu 255 - câu 264)
10.- Mai-công vào chầu và qua tướng-phủ (câu 265 - câu 300)
          Tìm vào Lại-bộ tới nơi,
          Truyền nha-môn định, ngày mai tiến chầu.
          Ngắm xiêm, sụa mũ giờ lâu,
          Uốn lưng năm lạy, Khấn đầu ba phen.
          Lạy rồi ren-rén tâu lên,
          270.- Chúc câu vạn-tuế, dâng lên cửu-trùng.
          Tiếng trời đưa lại bệ rồng:
          "Đặt tòa gián-viện kén dùng kẻ trung.
          "Sau cho sắt đá một lòng,
          "Miệng hùm chớ sợ, vảy rồng chớ ghê."
          Tâu rằng: "Hổ phận ngu-si,
          "Đem lòng khuyển mã đền nghì bể sông."
          Tan triều lệnh ngự vào trong,
          Bách quan lui xuống đều cùng bước ra.
          Mai-công toan trở lại nhà,
          280.- Tiện gần tướng-phủ sang qua vào liền.
          Nghiêm-trang cụa thế sân quyền,
          Trước bia hạ mã chật lèn ngựa xe.
          Ông bèn giả cách vô tri,
          Ngồi trăm-trắm kiệu, vào kề nghi-môn.
          Môn quan trông thấy thét dồn,
          Xôn-xao bẻ-bót, ôn-tồn hỏi tra.
          Ông rằng: "Đâu chẳng biết ta,
          "Huyện-quan về bộ Lại-khoa ngày rày.
          "Buổi chầu nhân tiện sang đây,
          290.- Nhờ ai trong ấy bẩm thay cho tường."
          Môn-quan rằng lệ phủ-đường,
          "Có đồ yết lễ, có vàng mấy bao.
          "Có thì sẽ bẩm cho vào,
          "Bằng không hãy chực ngoài rào xa xa."
          Ông rằng: "Lệ đặt bao giờ,
          "ấy là quốc-pháp hay là phủ-qui?
          "Ta đây vốn chẳng cần chi,
          "Vào thì cũng được, ra thì cũng nên!"
          Không xuống kiệu vẫn ngồi trên,
          300.- Tay cầm thủ-bản ném bên thềm ngoài.
Chú thích:
    trọng lỵ: tiếng nói tôn cũng như trọng nhâm
    phật sinh
    : bởi chữ: Nhất lộ phúc tinh và vạn gia sinh Phật.
    lại tệ dân tình
    : Tình tệ nha lại và dân chúng
    mạch tuệ
    : Đời Hán, Trương Kham làm Thái-thú quận Ngư-dương, khuyên dân chăm-chỉ cấy lúa trồng dâu, dân được no ấm, có câu ca tụng rằng: "tang vô phụ chi, mạch-tuệ lưỡng kỳ", nghĩa là cây dâu không có cành phụ, bông lúa mạch có hai chẽ, ý nói dâu tươi lúa tốt.
    cam đường
    : Đời Chu, Thiệu Bá đi tuần thú thay vua, thường nghỉ dưới gốc cây cam-đường xử kiện, dân có thơ khen rằng: "tế phế cam-đường, vật tiễn vật phạt, Thiệu Bá sở bạt" nghĩa là rườm-rà cây cam-đường (phải chăng cây bàng) chớ cắt chớ chặt, nơi Thiệu Bá nghỉ-ngơi.
    lai Kinh
    : lại kinh cũng như đăng kinh đã nói trên.
    hồ thỉ
    : Hồ thỉ do chữ: tang hồ bồng thỉ, cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng: ngày xưa nhà vua sinh con trai thì dùng hai thứ ấy treo ra cửa cung, nhân thế người ta mượn làm biểu-hiệu phái con trai chí ở bốn phương, như cung tên bắn tung khắp bốn phương trờ/B>: Kinh-đô nhà vua.
    Sân Đào, Đông-ly
    : sân Đào là sân nhà ông Đào Tiềm, một hưu quan đời Tấn. Đông-ly là dậu bên đông, nơi trồng cúc và các thứ hoa.
    Vương tên gọi Hỉ Đồng
    : Sau khi được nhà sư cứu sống, Mai-sinh mang tên Vương Hỉ Đồng, người đầy tớ có nghĩa đã chết thay Mai-sinh ở Nghi-trưng.
    Trần-phủ
    : dinh Trần-công, người ta quen gọi nhà các quan là "phủ".
    tham thuyền
    : thăm cảnh chùa.
    Sinh-ly
    : sống mà phải lìa nhau. mỗi người mỗi ngả, không được sum-họp.
    huyện-đình
    : sân cỏ huyện, trỏ người mẹ- xem chú thích trên.

    [Back to the top]

    tang-du: khi mặt trời sắp lặn, bóng nắng còn sót lại trên cành dâu, cành bưởi, người ta nhân đó mới mượn chữ tang-cành dâu, cành bưởi, người ta nhân đó mới mượn chữ tang-cành dâu, du-cành bưởi- ví với cảnh già, nên có chữ tang du mộ cảnh: cảnh về chiều của cây dâu cây bưởi.
    Sơn-đông
    : nơi Mai phu-nhân lánh nạn, tức là chỗ em bà làm quan.
    Nghi-trưng một nắm cát vùi
    : nói về mả Hỉ Đồng táng ở Nghi-trưng.
    Thành sầu cao ngất tầng tầng
    : đoạn này tả Mai sinh nhớ mẹ và thương đầy-tớ.
    hắc vận, trao tơ xích-thằng
    : Hắc vận: vận đen. Xích-thằng: dây đỏ, dây xe duyên của Nguyệt-lão trong truyện Vy-Cố.
    hoàn
    : tức liễu-hoàn: con đòi đầy-tớ gái.
    cung Quảng
    : tức Quảng-hàn-cung, cung trăng.
    đài Dương
    : tức Dương-đài, nơi Sở Tương-vương cùng thần nữ hội-ngộ.
    Chữ tư đề dưới chữ tương
    : tức là tương-tư.
    tiên-tân
    : tươi tốt, mát-mẻ.

    [Back to the top]

    hoa đình: đình hoa, vòm cao xây ở vườn hoa, làm nơi thờ hoa-thần.
    Mai-huynh
    : ông anh họ Mai, lời xưng-hô của anh em bạn.
    thưởng mai
    : ngắm cảnh hoa mai.
    bội thường
    : gấp đôi lúc thường, nghĩa là hơn lên.
    xuất-gia
    : đi tu, đi ở chùa.

Truyện Nhị Độ Mai Giới thiệu Trang 1 Trang 2 Trang 3 Trang 4 Trang 5 Trang 6 Trang 7 Trang 8 Trang 9 Trang 10 Trang 11 Trang 12 i.
đai cân
: bởi chữ cân đới, trỏ về phái quan chức mũ cao áo dài.
thanh vân
: mây xanh, bước thanh-vân nói về công-danh bay nhảy.
loan hoàng
: câu này đại ý như câu chữ nho: "Chỉ cức phi loan phượng sở thê" nghĩa là khóm cây gai không phải chỗ đậu của loài chim loan-phụng, Nguyên Cừu Hương đời Hán, mới bổ chức Đình trưởng, có người đàn bà góa đến kiện đứa con ngỗ-nghịch là Trần Nguyên, Hương khuyên-bảo trở về, rồi thân đến nhà, đem nghĩa lý hiểu bảo, Trần Nguyên cảm-đông nghe theo, trở nên người con chí hiếu. Quan Huyện-lệnh là Vương Hoán khen ngợi cất lên làm Chủ-bạ và hỏi: " Nhà ngươi không trị tội Trần Nguyên, lại chịu khó đến khuyên bảo, chả cũng kém mất sự lập oai như giống chim cắt với đàn chim nhỏ hay sao? Hương thưa: "Giữ kỳ làm chim cắt, sao bằng làm chim loan-phụng!" Vương Hán cười nói: "Vậy thì khóm cây gai (trỏ vào chức chủ bạ) không phải chỗ đậu của chim loan-phụng!" Bèn đem tiền lương tháng giúp cho Hương vào nhà Thái học, sau trở nên bậc đại tài.

[Back to the top]

tiếp lỵ: người thay chân, kế tiếp nhận chức.
lễ cách quan dân
: bởi câu tục ngữ: quan dân lễ cách.
ái mộ
: yêu-mến
Khấu quân
: Câu này do tích Khấu Tuân đời Đông Hán làm quan Thái-thú quận Dĩnh-xuyên, dựng nhà học-hiệu, đem văn-hóa dạy dân, sau Dĩnh-xuyên có giặc, khấu Tuân đi tòng-chinh, lúc khải hoàn, Trăm họ đón đường kêu xin để Khấu lưu nhậm một năm nữa. Vua Quang Vũ thấy dân tình Trường xã, Dĩnh-xuyên như thế cũng ưng cho Khấu ở lại.
Huyện-tể
: Chức chủ-tể trong một huyện, tức là Tri-huyện.
Miệng sàm dệt gấm thêu hoa
: Câu này bởi câu trong Kinh Thi:
Thê hề phỉ hề,
thành thị bối cẩm,
bỉ trấm nhân giả,
diệc dĩ thái thậm"
nghĩa là những thứ rau cỏ tạp nhạp có thể họp thành gấm vóc, những kẻ hay gièm-pha cũng đã quá lắm.
vạn dân tản, vạn dân y
: Tản và áo của muôn dân- cũng như câu nói " bách gia chi sản", nghĩa là của chung mọi nhà- Đây là một lễ chung của dân huyện Lịch-thành đem tiễn Mai-công.
tạc dạ ghi xương
: bởi chữ "minh tâm khắc cốt"
phân bào
: chia vạt áo, nói về khi giã nhau mỗi người mỗi nơi.
tử-lý
: tử: cây tử (cây lộc vừng), lý: làng. Kinh Thi có câu "duy tang giữ tử, tất cung kính chỉ,": ví cây dâu với cây tử tự cha mẹ trồng, nên phải cung kính. Người ta nhân đó mới mượn chữ tang tử để trỏ về quê-hương.

[Back to the top]

ngọc kinh: Kinh-đô nhà vua.
vương-sự
: việc nhà vua, việc công.
gia mang
: việc riêng bận rộn của tư gia, việc tư.
tràng đình
: Mỗi cung đường có một trạm nghỉ chân gọi là đình, nghĩa là dừng chân. Cung ngắn (5 dặm) gọi là đoản-đình, cung dài (10 dặm) gọi là trường-đình.
hương thân
: Người văn học trong làng, bậc văn thân địa-phương.
kinh quốc
: tức kinh-đô, kinh-sư nhà vua.
kià chài sớm nọ cày trưa, gió gần giọng địch, mây xa tiếng tiều.
: câu này tả đủ bốn cảnh: Ngư (chài), canh (cày), mục ( giọng địch), tiều (tiếng tiều)
hoàng hôn
: Hoàng là vàng, hôn là tối, lúc chiều hôm gần tối, mặt trời lặn còn sót một ánh vàng vàng, nên gọi là hoàng-hôn.
Lư, Hoàng
: tức Lư-Kỷ, Hoàng Tung: hai tên gian-thần đối đầu với Mai-công.
đại-gia
: nghĩa đen là cha, tiếng gọi tôn những bậc quan-trưởng cũng như chữ tướng công hay đại nhân.

[Back to the top]

thiết-tha ban tối, khoe-khoang giữa ngày: Câu này đại ý cũng như câu chữ nho: " Hôn dạ khất ái nhi, kiêu nhân bạch nhật"
trong bình
: là tên bức bình phong, nơi ngăn phòng ngoài với phòng ngủ.
Di, Tề
: Bá Di, Thúc Tề là hai nghĩa-sĩ đời nhà Thương, Chu Vũ-Vương đánh vua Trụ - Vua nhà Thương- hai ông can không được, sau khi nhà Chu đã được nước, hai ông liền lên ẩn cư trên đỉnh núi Thú-dương, hái rau vi ăn thay cơm, dù đói chết cũng không ăn thóc của nhà Chu.
mấy câu
: Thơ đề tranh Di, Tề nguyên văn chữ Hán:
"Côn trọng đương niên ngã Thú-dương,
Chí Kim lưu đắc tính danh hương,
Nhược giao liệt-sĩ như kim tại,
khởi nhẫn quần gian lập miếu đường,"
Ý nói bấy giờ hai anh em ông chết đói trên núi Thú-dương, mà vẫn còn để họ tên thơm tho đến bây giờ. Nếu ngày nay còn có liệt-sĩ như thế, há chịu để cho lũ gian thần đứng ở triều-đình.
Có người đã dịch:
Thủa xưa ở núi Thái hái rau Vi,
Muôn kiếp danh thơm, miệng ấy bi,
Ví khiến đời nay còn kẻ ấy,
Miếu-đường chi để lũ gian-phi.
thanh ứng khí cầu
: nghĩa là cùng tiếng thì hưởng-ứng với nhau, cùng chí khí thì tìm nhau.
phủ trời
: do chữ thiên-phủ, ý nói vững vàng như kho nhà trời.
hoàng-thành
: thành nhà vua.
kỳ-đài
: cột cờ
nước nhược
: bởi chữ nhược-thủy, nơi tiên ở.
nguồn đào
: bởi chữ đào-nguyên: cõi tiên
n "tuế nguyệt như thoa".

[Back to the top]

nội thần: quan trong, tức nội giám, hoạn quan.
kết thái trương đăng
: kết hoa trưng đèn.
Thiên-bảo
: Một chương trong Kinh Thi (Nhã phong), có 9 chữ như chúc tụng nhà vua:
Như sơn như phụ,
như cương như lăng,
như xuyên như phương chí dĩ mặc bất tăng,
như nguyệt chi hằng,
như nhật chi thăng,
như nam sơn chi thọ, bất khiên bất băng,
như tùng bách chi mậu, vô bất nhĩ hoặc thừng.
Người ta gọi "Thiên bảo cửu như" là thế.
Nghiêu-hoa
: Vua Nghiêu đi tuần thú đến đất Hoa, có Phong-nhân (người coi ấp) chúc vua giàu có, sống lâu và nhiều con trai, nên có câu: "Hoa-phong tam chúc". Nghĩa là 3 điều chúc của Phong-nhân ấp Hoa.
bách hí
: Trăm trò chơi.
bát âm
: tám thứ âm-nhạc.
triều quan
: Quan trong triều.
hoàng thân
: Họ nhà vua.
Gia-hào
: đồ nhắm ngon.
trân-la
: rau thơm, rau quí.

[Back to the top]

lạp-hoàng: tức hoàng lạp, sáp vàng.
thiều nhạc
: bản nhạc đời vua Thuấn bên Tàu. Đây chỉ nói về âm-nhạc.
ân-gia
: nghĩa là cha nuôi, Lư Kỷ là bố nuôi của Hoàng Tung.
Lễ đơn
: tờ kê lễ-vật.
nghĩa-phụ
: cha nuôi.
ân-nhi
: con nuôi.
vượng-khí tướng-môn
: bởi chữ: tướng môn vượng khí, khí thịnh vượng trước cửa nhà quan Tướng.
nghi-môn
: cửa chính ở các dinh-thự hay lâu đài nào, nhà lớn.
bạn đảng
: đảng làm phản, bọn phản đối.
long-nhan
: mặt rồng, mặt vua.

[Back to the top]

biên-quan: quan coi ngoài biên-giới.
giặc Thát
: tức rợ Thát-đát nguyên là biệt bộ nước di dịch về hạng Hung nô, Đột-quyết, về sau là Mông-cổ, một dân tộc thượng võ đã có phen làn rung-động hoàn cầu.
đoản biểu
: tờ biểu ngắn.
chính-pháp thị-tào
: xử theo phép chính, nghĩa là đem chém. Thị tào: nơi chém người, cũng như nói "pháp trường".
Đường-hoàng
: vua nhà Đường
tham tán, người quyền Đổng binh
: Tham-tán, Đổng-binh: hai chức coi việc hành quân đánh giặc.
lòng kiến
: do chữ nghĩ khốn.
chẩn-mễ, tiểu-di
: chẩn-mễ: gạo phát chẩn, Tiểu-di: quân mọi-rợ nhỏ.
chẩn-thải
: phát chẩ và cho vay.
qua-giáp
: qua: ngọn giáo; giáp: áo giáp che tên đạn. Qua-giáp là nói về quan võ.

[Back to the top]

văn-chương: nói về quan văn.
hoãn binh
: làm chậm việc binh lại, có ý để chờ dịp gì đáng ngờ.
đao-phủ
: đao búa, thứ khí-giới để hành-hình kẻ bị phạm tội chết.
cửu-nguyên
: cũng như cửu tuyền: chín suối, đường âm.
cách quyền hồi dân
: bị cách chức về làm thường dân
Mai Bạch
: người gia-đinh theo hầu Mai công.
Tướng-quốc
: nghĩa đen là giúp nước, cũng như hộ quốc, tên một ngôi chùa ở kinh-đô bấy giờ.
Họa chí vô đơn
: bởi câu họa vô đơn chí, tai vạ bao giờ cũng bị dồn-dập chứ không khi nào chỉ đến lẻ-loi có một việc mà thôi.
lệnh-tiễn hỏa-bài
: lệnh-tiễn: lá cờ nhỏ của các quan tướng dùng làm hiệu lệnh để ban phát. Trong lá cờ có đề chữ "lệnh", ngọn cờ hình nhọn như mũi tên.
hỏa-bài: Phiến gỗ có viết chữ, cầm làm hiệu-lệnh của các nha-môn, việc gì khẩn cấp thì phê chữ "hỏa" nghĩa là nóng như lửa, hỏa tốc.
đồng-bào
: cùng bọc sinh ra, anh chị em ruột, câu này nói người làm quan đó là em ruột của Mai phu-nhân.

[Back to the top]

Hỉ Đồng: thư-đồng của Mai-sinh.
Nghi-trưng
: Một huyện thuộc đạo Duy-dương tỉnh Giang-tô bên Tàu đời bấy giờ.
Nhạc-thân
: Bố vợ Mai-sinh.
sinh môn
: cửa sống, lối sống, con đường sống.
Phủ-binh
: lính phủ, tức lính ở phủ Thường-châu, sở tại, quê Mai-công.
thủy-đạo
: đường thuỷ.
phạn-điếm
: hàng cơm.
viêm-lương
: viêm: nóng ; lương: mát.Thói đời viêm-lương: ý nói thói đời cứ tùy theo kẻ suy người thịnh mà coi trọng coi khinh, cũng như tiết trời lúc nóng lúc lạnh thay đổi thất thường.
chu-tuyền
: làm cho trọn vẹn.
tì-sương
: vị thuốc độc.

[Back to the top]

môn lại: người coi cửa.
bán-tử
: nửa con, tức là con rể.
Tội-nhân
--!!tach_noi_dung!!--


Nguồn: VansonNguyen
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 14 tháng 2 năm 2004

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--