Trang 9

41.- Xuân-sinh gặp gỡ Khâu đề-đốc (câu 1625 - câu 1708)
          Ai hay sự bởi vì đâu,
          Quan Đề-đốc ấy, họ Khâu gọi là.
          Hiếm-hoi mới được mộng xà,
          Vân-Tiên một gái mặt hoa khuynh-thành.
          Cũng trong họ Mạc chung quanh,
          1630.- Vốn là cậu ruột Mai-sinh đấy mà!
          Từ khi khởi nạn Mai-gia,
          Phu-nhân sang đó nương nhờ bấy lâu.
          Cách đêm vừa sáng hôm sau,
          Buông rèm hỏi lũ họ Châu xem tình.
          Ngư-bà đâu dám giấu quanh,
          Mới đem sự-tích Xuân-sinh kể bày.
          Sốt lòng ông mới dạy ngay,
          Hãy đem tên rể vào đây hỏi tường.
          Xuân-sinh thấy sự rõ ràng,
          1640.- Bấy giờ chàng kể nỗi chàng đầu đuôi:
          Từ khi gặp-gỡ họ Mai,
          Khi toan xe chỉ, khi đòi xuất quan.
          Khi lánh nạn, lúc nghe oan,
          Cùng Mai-sinh, nỗi hợp tan mấy lần.
          Chàng vừa kể hết xa gần,
          Mai phu-nhân bỗng khóc lăn dưới thềm,
          Cầm tay chàng mới nhìn xem một giờ.
          Dạy rằng: "Gang tấc nên xa,
          1650.- Thế mà già vẫn còn ngờ rằng ai!"
          Khâu-công rằng: "Hãy khoan thai,
          "Dám xin mời cả vào ngồi nhà trong.
          "Thay quần đổi áo yên xong,
          "Rồi ta sẽ kể sự lòng với nhau."
          Ngư-bà chưa rõ gót đầu,
          Thôi bâng-khuâng nghĩ, lại chầu-hầu trông:
          "Ủy, sao nhà kiện, cửa công,
          "Ra tình nhìn-nhận, ra lòng yêu-thân?
          "Thư-phòng rót chén tẩy trần.
          1660.- Một ông với một chàng Xuân bàn-hoàn,
          Kể lòng mấy chuyện hợp tan,
          Nhà trong cũng mở một bàn tiệc hoa.
          Ngôi trên dường tuổi Ngư-bà.
          Hai phu-nhân với tiểu-thư hai người.
          Nhìn lâu ngợp mắt làng chài,
          Mâm vàng chồng-chất, chén mồi đầy-vơi.
          Hải vị tốt, yến sào tươi,
          Khác màu nấu chuội, khác mùi hơ qua.
          Vả trong bồi tiếp việc hoa,
          1670.- Hai nàng tiên-nữ, hai bà phu-nhân.
          Mừng thầm con đã yên thân,
          Gẫm lời thầy số mười phần chẳng sai.
          Khâu-công xong tiệc rượu ngoài,
          Mai phu-nhân mới rỉ tai vài lời:
          "Nghĩ rằng cậu mợ hiếm-hoi,
          "Điềm hùngchưa ứng, chúc trai muộn màng.
          "Nay xem công-tử họ Trần,
          "Khôi ngô vẻ mặt, đai cân dấu nhà.
          "Tòng quyền cho nghĩ nương nhờ,
          1680.- Minh-linh rồi sẽ đổi ra đông-sàng.
          Bàn rồi bèn giục-giã chàng,
          Thung-dung trước mặt, gia nương khấu đầu.
          Vâng lời theo họ là Khâu,
          Tên là Khôi, để từ sau gọi thường.
          Còn ngư-bà với Ngọc-nương,
          Cũng cho nhìn-nhận trong đường thân hơi.
          Ngư-bà xin tới bến ngoài,
          Tìm người phường bạn, giã lời với nhau,
          Ông truyền sắp kiệu theo hầu,
          1690.- Rập-rình gươm trước, ngựa sau ra tuồng.
          Ngồi trong ghé ngửa nom ngang,
          Phút đâu kiệu đã tới phường bến xưa.
          Vội-vàng bước xuống thuyền nhà,
          Kẻ quen người thuộc còn ngờ rằng ai>
          Giờ lâu nhìn rõ mặt người,
          Nọ người khoác nách, nọ người vỗ tay.
          Hỏi săn hỏi đón đã đầy,
          Kiệu làm sao đấy? kiệu này của ai?
          Bà rằng: "Kiện-cáo gì tôi,
          1700.- "Này này! anh nó vào ngồi với quan!
          "Từ rày phường bạn đừng nhờn,
          "Đủ trăm văn-lý, dư muôn thế-trần!
          Giang Khôi rày hẳn biết thân.
          "Hôm xưa thầy tớ một sân chịu đòn.
          "Kẻo còn bắt những gầu non,
          "Kẻo còn hống-hách, kẻo còn dọa hơi."
          Cùng nhau từ -giả mấy lời,
          Lại ngồi lên kiệu, kíp dời về dinh.
42.- Tình cảnh Mục-Vinh khi về ở Châu phủ (câu 1709 - câu 1744)
          Khâu Khôi yên phận đã đành,
          1710.- Đường xa này chuyện Mục Vinh còn dài.
          Phủ Châu nương-náu cửa người,
          Án-tờ xem đỡ, văn-bài tập riêng.
          Tài mẫn-tiệp, tính thông-miêng,
          Phần chăm việc khách, phần siêng việc mình.
          Há-nam một tỉnh chính thanh,
          Châu-công biết sức, thêm tình yêu-đương.
          Nghĩ mình có gái Vân-nương,
          Quyết lòng đành rắp đông-sàng đợi ai.
          Xa nhà chưa dám ngỏ lời,
          1720.- Tin đâu đã có chỉ đòi lai Kinh.
          Tỏ tin, bàn với Mục-Vinh:
          Khuyên chàng về phủ Đại danhquê nhà.
          Băn-khoăn muôn dặm đường xa,
          Tư thư mới gửi cho bà phu-nhân.
          Trong thư mọi nỗi xa gần,
          Dặn-dò lấy lễ sư-tânđãi chàng.
          Đinh-ninh một việc đông-sàng,
          Chuyện riêng lại phụ mấy hàng dặn sau.
          Mục-Vinh sắm-sửa quân hầu,
          1730.- Trỏ đường tư-thất họ Châu trở về.
          Tay cung, thanh quất, cây tỳ,
          Ngao-du sơn thủy, đề-huề gió trăng.
          Hề-đồng theo bốn năm thằng,
          Thơ ninh-ních túi, rượu lưng-lửng bầu.
          Đường xa giong-ruổi vó câu,
          Thoắt đà tới phủ họ Châu bao giờ.
          Phu-nhân biết ý trong tờ,
          Tình riêng đâu dám hững-hờ như ai.
          Riêng mình chàng, một thư-trai,
          1740.- Đồ cung-cấp hậu, vẻ bài-trí thanh.
          Cổ thư, cổ họa, buông tranh,
          Bên giường triện-bách, trước bình phong-lan.
          Giá bày túi sách cạp đàn,
          Sẵn hiên ngoạn nguyệt, sẵn vườn thưởng hoa.
43.- Mai-sinh tưởng nhớ Hạnh-Nguyên (câu 1745 - câu 1786)
          Phòng riêng ngày tháng lân-la,
          Khi buồn mới giở chiếc thoa ra nhìn.
          Càng đau-đớn nỗi Hạnh-Nguyên,
          Nhớ câu thơ biệt ở trên trùng-đài.
          Sẵn nghiên-bút, vẽ ra chơi,
          1750.- Vừa buông tay viết, chẳng rời miệng ngâm.
          Càng như khêu mối khổ tâm,
          Giấy loè nét tủi, nghiên dầm giọt thương.
          Hay đâu đầy tớ Vân-nương,
          Liễu-hoàn một ả Xuân-Hương tinh đời.
          Thói thường dòm liếc thư-trai,
          Gặp chàng vào lúc nhớ người, xem thoa.
          Trở về tấp-tểnh, tấp-ta,
          Thày-lay mách ả Vân ta mấy lời:
          Rằng: "Tướng-công ở nhà ngoài,
          1760.- "Thình-lình lắm lúc, tôi coi cũng kỳ,
          "Tay cầm chẳng biết việc gì,
          "Mắt thì nhìn kỹ, mặt thì buồn tênh.
          "Kỳ này ra khổ thất tình,
          "Kém nhan-sắc trước, khác hình-thù xưa.
          "Tôi lừa khi vắng lẻn ra,
          "Chỗ ngồi bắt được cái thoa lạ đời"
          Vân-Anh xem của nghe lời,
          Gẫm tay này hẳn có người tình chung.
          Thoa này ai dễ cho không.
          1770.- Dễ hầu biết mặt tin lòng được ai?
          Mục-Vinh phải buổi ra ngoài,
          Về xem hòm sách tơi-bời giở tung.
          Thấy khác dấu, đã chột lòng,
          Xem cành thoa ấy lại không thấy rồi.
          Khóc-than vật-vã một hồi,
          Trách mình lơ-đễnh, giận người tham-lam.
          Nghĩ rằng kẻ bắc người nam,
          Chắc còn thoa ấy, để làm duyên sau.
          Gẫm duyên mỏng-mảnh vì đâu,
          1780.- Tỉ-ti vật mọn cũng hầu tìm đi.
          Bệnh đâu dắt đến tức thì,
          Cơm hoa biếng nhắp, giấc hòe kém yên.
          Chiêm-bao mê-mẩn liền liền,
          Trùng-đài trước mặt, Hạnh-Nguyên bên mình.
          Phu-nhân những hậu vì tình,
          Mời thầy thuốc, cắt đồng-sinh giữ-gìn.
44.- Hạnh-Nguyên tưởng nhớ Mai-sinh (câu 1787 - câu 1800)
          Nỗi ngoài họ Mục chưa yên,
          Não người, còn nỗi Hạnh-Nguyên trong nhà.
          Phải khi ngồi với Vân-thư,
          1790.- Thấy cành thoa ấy chân hư rành rành.
          Giờ lâu nhìn dấu của mình,
          Trùng-đài lưu tặng Mai-sinh những ngày.
          Người đâu mà của thấy đây?
          Hẳn rằng bóng hạc xe mây đã đành.
          Duyên này đã hẳn ba sinh,
          Gặp nhau đành giữ chung tình kiếp sau.
          Tấm thương chẳng đánh mà đau,
          Lan-sươngbiếng kẻ, mai-câu biếng giồi.
          Tấc riêng riêng những ngậm-ngùi,
          1800.- Bữa thường miệng đắng, đêm dài bóng chung.
45.- Trong khi ốm năng hai người cùng dặn Châu phu nhân (câu 1801 - câu 1834)
          Phu-nhân rối tợ bồng-bong,
          Khuê phòng ép thuốc, thư-phòng nài thang.
          Dạy mua hai cỗ thọ-đường,
          Phòng khi nhất đán phi-thườngcho ai!
          Bỗng đâu một lúc tơi bời,
          Nỗi trong nhộn-nhịp, nỗi ngoài dở-dang.
          Liễu-hoàn nối gót thư-đường,
          Thấy hai phương cũng hung-phương một giờ.
          Phu-nhân ghé hỏi sau xưa,
          1810.- Gọi lên đã thấy tiểu-thư tỉnh dần.
          Thưa rằng: "Lưu-lạc chút thân,
          "Bao dong kể đã đội ân nghìn trùng.
          "Hay đâu số phận mỏng-manh,
          "Xưa nay mệnh bạc chữ chung má đào.
          "Phòng khi muôn một thế nào,
          "Xin ba tấc đất để vào hướng nam.
          "Con dù chín suối cũng thơm,
          "Bấy lâu công-đức đã cam phụ người."
          Phu-nhân khuyên-giải mấy lời,
          1820.- Cùng Vân-Thư tới nhà ngoài thăm lênh.
          Kề tai mấy tiếng gọi sinh,
          Vừa lim-lỉm giấc, thoắt tinh-tỉnh dần.
          Xuân-Hương trình trước phòng văn:
          "Tiểu-thư vâng mệnh phu-nhân trong phòng.
          "Ra đây thăm bệnh tướng công,
          "Dám xin gượng kẻo bỏ lòng chủ-nhân."
          Sinh rằng: "Chút phận gia-thần,
          Ân lòng đãi lễ sư-tân bấy chầy.
          "Những mong báo-đáp có ngày,
          1830.- "Ai ngờ nên nỗi nước này như không?
          "Vẻ chi thân nhẹ lông hồng,
          "Thăm lênh để nặng tấm lòng tiểu-thư.
          "Dù khi giải kết bao giờ,
          "Phong phần chính bắc xin nhờ ghi cho."

 

Chú thích:

    mộng xà: Mơ thấy rắn, do câu: Duy huỷ duy sa, nữ tử chi tường, mơ thấy loài rắn, điền đẻ con gái.
    khuynh-thành
    : Nghiêng thành, tức sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành.
    khởi nạn Mai-gia
    : nghĩa là nhà họ Mai gặp nạn.
    Thư-phòng
    : Buồng sách
    tẩy trần
    : Rửa bụi, tiệc đãi người ở xa mới đến gọi là tẩy trần.
    Điềm hùng
    : Do câu: duy hùng duy bi nam tử chi tường: nằm mơ thấy loài gấu là điềm sinh con trai, đây nói điềm hùng chưa ứng, nghĩa là chưa có con trai.
    Minh-linh
    : một giống sâu như con nhện con. Tò vò bắt đem về nuôi, 7 ngày thì thành tò-vò, khoét thủng tổ bay đi. Kinh Thi có câu: " Minh tinh hữu tử, quả khỏa phụ chi " Giống minh-linh có con, tò-vò cắp lấy, người ta mượn chữ minh-linh để trỏ về con nuôi.
    đông-sàng
    : Đã chú-thích ở trên.
    gia nương
    : Ông, bà hay là cha, mẹ, tiếng gọi tôn.
    khấu đầu
    : Cúi đầu, nghĩa là lạy.

    [Back to the top]

    mẫn-tiệp, tính thông-miêng: Mẫn-tiệp: siêng năng, nhanh nhẹn ; Thông-miêng: thông minh, sáng suốt.
    chính thanh
    : Chính sự trong sạch.
    Vân-nương
    : Tức Vân Anh tiểu-thư
    Đại danh
    : Tên một phủ trước, nay là đạo, thuộc tỉnh Trực-lệ.
    sư-tân
    : Vừa là thầy, vừa là khách.
    thư-trai
    : Phòng sách, nơi đọc sách.
    Cổ thư, cổ họa
    : bức chữ viết và bức tranh vẽ đời cổ.
    ngoạn nguyệt
    : Xem trăng.
    thưởng hoa
    : Coi hoa.
    khổ tâm
    : Nỗi khổ chứa trong lòng.

    [Back to the top]

    giấc hòe: tức giấc mộng, do tích "Hòe an" đã chú thích ở truyện " Bích câu Kỳ ngộ ".
    đồng-sinh
    : Trẻ trai, trò nhỏ, đứa hầu trai.
    chân hư
    : Thực, hư.
    bóng hạc xe mây
    : bởi chữ hạc giá vân xa,nói bóng là đã chết, đã quy tiên.
    ba sinh
    : Ba đời luân-chuyển kiếp này sang kiếp khác.
    Lan-sương
    : Giọt sương đọng ở hoa lan. Mai câu: Vòng hoa mai. Đây nói về những phẩm-vật trang-sức trau-dồi của các cô khuê-các.
    thọ-đường
    : tức là áo quan, quan tài.
    nhất đán phi-thường
    : một sớm bất thần nghĩa là chết.
    hung-phương
    : Phương hướng xấu, dữ.
    mệnh bạc chữ chung má đào
    : Bởi chữ hồng nhan đa bạc mệnh
    tướng công
    : Tiếng gọi tôn cũng như tiên-sinh, đại nhân.
    gia-thần
    : Người giúp việc trong nhà, tôi-tớ.
    Phong phần
    : Đắp mả.