Trang 5

21.- Mai hai độ nở (câu 735 - câu 814)
          Cả nhà xiết nỗi thảm-sầu,
          Tiểu-thư lập chước thưa sau giãi-bày.
          Rằng: "Xin đợi lại mấy ngày,
          "Cầu trời khấn Phật hoa này lại tươi."
          Ông rằng: "Thực có như lời,
          740.- M ai hai độ nở mới dời lòng ta."
          Tiểu-thư ra trước vườn hoa,
          Khẩn năm bảy lượt, lạy và bốn phen.
          Lòng thành thấu cửu-trùng-thiên
          Cành phàm đã chắp hoa tiên bao giờ.
          May đâu đến bữa thứ ba,
          Mai-sinh thức dậy, bấy giờ còn khuya
          Hương đâu phưng-phức tứ bề,
          Hoa đâu san-sát đầy khê một vườn.
          Tấm lòng mừng-rỡ như son,
          750.- Đề thơ tứ tuyệt thất ngôn một bài.
          Đề rồi bẻ một cành mai,
          Trao con đòi, cậy đưa lời Trần-công.
          Một nhà thấy sự lạ-lùng,
          Trước sau lũ-lượt đều cùng tới coi.
          Trần-công rằng: "Sự tỏ mười,
          "Chắc rằng Mai-thị còn người làm nên!"
          Nỗi tu gác bỏ một bên,
          Truyền đem tửu quả đặt lên hoa-đình.
          Trên bày bài-vị Mai-huynh,
          760.- Bấy giờ tình cảnh Mai-sinh thực là.
          Tìm nơi đình-tử xa xa
          Trông ngay trước mộc-vị cha, thở dài.
          Vô tình ai biết là ai,
          Tiểu-thư liếc mắt đưa chơi biết tình.
          Sinh xem biết ý chân-thành,
          Nỗi nghi dường đã bớt canh-cánh lòng.
          Nhớ tên hiệu chữ Mai-công,
          Đề vào mảnh giấy dán trong nắp hòm.
          Ra vào giấu-giếm, nom-dòm,
          770.- Gọi là tiện chút sớm hôm phụng-thờ.
          Trần-công đi lại xem hoa,
          Truyền đòi công-tử tên là Xuân-sinh.
          Rằng: "Ta xưa những ở Kinh,
          "Chẳng hay con đã học-hành tiến chưa.
          "Rày nhân nhị độ mai hoa
          "Con đề tức cảnh một thơ tiến trình."
          Còn đương khuyên-bảo Xuân-sinh,
          Trông lên đã thấy bên bình có thơ.
          Trần công đòi hỏi bấy giờ,
          780.- Mới hay đề đó là thơ Hỉ Đồng.
          Khen câu ngọc đúc vàng ung,
          Vóc trong miệng, gấm trong lòng vẽ nên.
          Xuân-sinh thấy sẵn thơ trên,
          Cũng theo vận ấy đề liền bốn câu.
          Trần-công vừa ý gật đầu,
          Tiểu-thư lại thấy ở đâu đến gần.
          Dạy rằng: "Nữ-tử, văn-nhân,
          Theo đòi con cũng họa vần thử xem.
          Tiểu-thư cầm bút vâng lời,
          790.- Bên tường cũng vịnh một bài nối sau.
          Khen tài nhả ngọc phun châu,
          Ba vần già-giặn, bốn câu thanh kỳ.
          Yên xong, ông trở ra về,
          Cùng phu nhân mới nằn-nì một hai:
          "Hỉ Đồng là kẻ có tài,
          "Ở đây chớ để tôi-dòi xem khinh."
          Mai-sinh thui-thủi bên đình,
          Một mình tính quẩn lo quanh việc nhà.
          Xưa nay nghe tiếng đồn xa,
          800.- Phồn hoa thứ nhất ấy là châu Dương.
          Hôm nay nhân buổi thanh-lương,
          Rời chân xem thử phố-phường những sao.
          Trập trùng quán thấp lầu cao,
          Tạ Vương mấy chốn, Nguyên, Đào mấy nơi.
          Xe lừa dù có chen vai,
          Kìa người đại-cổ nọ người phú-thương.
          Màn che mái, gạch ken đường,
          Bầu nhà vàng nuột, rèm hàng lưu-ly.
          Khắp người viễn khách cư kỳ,
          810.- Tây-dương chung cảng, Cao-ly riêng hàng.
          Lớp ngoài một dãy trường-giang,
          Tàu chen mũi đỗ, thuyền giương buồm về.
          Chài lan san-sát lá tre,
          Chiếc đua máy đẩy, chiếc kề bến neo.
22.- Bị lộ chân tướng, Mai sinh thú thực (câu 815 - câu 862)
          Những là mến cảnh noi theo,
          Khi về vừa bóng xế chiều tới nơi.
          Phòng riêng đã vắng tam hơi,
          Nắp hòm bỏ ngỏ, vị-bài thấy không.
          Tìm sau tìm trước lung-tung,
          820.- Nghĩ riêng lòng những giận lòng đòi cơn.
          Ai hay trong lúc du-quan
          Tiểu-thư cùng với thúy-hoànra chơi.
          Mở hòm nhác thấy một bài,
          Ngạc-nhiên cất lấy thưa lời đến ông.
          Trần-công rằng: "Sự lạ lùng,
          "Hỉ Đồng này thực Mai-công-tử rồi!"
          Đòi thúy-hoàn, mới dạy lời,
          Dặn-dò hãy thử ướm chơi thăm tình.
          Hoàn rằng: "Hơi hỡi Mai-sinh,
          830.- "Toan gieo cái vạ tày đình cho ai?
          "Bây giờ Lư-tướng nghe hơi,
          "Sai về trách-cứ một hai lấy người.
          "Kẻo còn quanh-quẩn những lời,
          "Còn nay Vương-thị, còn mai Hỉ Đồng?"
          Mai-sinh nghe tỏ sự lòng,
          Uốn lời thú thực phô sòng van-lơn:
          "Mai nay muôn đội ơn hoàn,
          "Mưu gì cứu được khỏi cơn đường cùng."
          Túy-hoàn mới ngỏ thực lòng:
          840.- "Vâng lời tôi thử ướm lời đấy thôi.
          "M ới rồi nhân thấy vị-bài,
          "Rõ tình ông dạy cho lời không sao!"
          Mai-sinh ren-rén bước vào
          Nửa mừng nửa sợ biết bao nhiêu tình.
          Ông rằng: "Sau những dấu quanh,
          "Nghĩ là ai, chẳng là mình đấy ư?
          "Thế mà bác cứ thờ-ơ,
          "Thứ cho lỗi ấy từ xưa đến rày."
          Lạy rồi, sinh mới giãi-bày:
          850.- Từ ngày về quán từ ngày nghe oan.
          Bao nhiêu tình-tự nguồn cơn,
          Sơn-đông chia bước, Hầu Loan trở lòng,
          Ơn Đồ Thân, nghĩa Hỉ Đồng,
          Dây oan khi cởi, cửa không khi nhờ.
          Bước đường xa, cái sống thừa,
          Tấc riêng riêng những nào ngờ có nay!
          Ông rằng: " Nương-náu ở đây,
          "Thù kia ắt cũng có ngày trả xong.
          "Niệm cũng công-tử một phòng,
          860.- "Anh em liệu đấy dốc lòng nghiệp nho.
          "Tình thế-nghị nghĩa giao-du,
          Văn-chương tri-kỷ, chuyện trò chiếu-tâm.
23.- Trần-công bàn gả Hạnh-Nguyên cho Mai-sinh (câu 863 - câu 878)
24.- Trước khi đi cống Hồ, Hạnh-Nguyên từ giã gia-quyến (câu 879 - câu 984)
          Ông tơ khen khéo cợt người,
          880.- Đã xe vào, lại thử rời bắc, nam.
          Làm cho chí tái chí tam,
          Rồi ra đố lại vào ngàm mới thôi.
          Phủ Trần chưa hết chuyện vui,
          Bỗng đâu có chỉ đến nơi quan-hoài.
          Đảng-công, Lư Kỷ ngồi ngoài,
          Truyền rằng có chỉ dạy đòi Trần-gia.
          Đọc rồi mới biết rằng là:
          Biên-quan có nước Sa-đà động binh.
          Khói lang, bụi ngựa tung-hoành.
          890.- Khuấy hôi cõi Hán, chọc tanh ải Tần.
          Lư-công dâng chước hòa thân,
          Truyền đòi con gái họ Trần kết thân,
          Ban cho áo mũ Chiêu Quân,
          Đảng công vâng mệnh đưa chân cõi ngoài.
          Nghe ra xiết nỗi bồi hồi,
          Ấy ai mưu hiểm, giục người sinh-ly?
          Khởi hành đã định nhật kỳ,
          Lư-công giục-giã ngận tuỳ quân sai.
          Hạnh Nguyên ra yết nhà ngoài,
          900.- Ngứa gan tấm-tức mấy lời vân vân:
          "Vẻ chi một chút Hồ trần,
          "Những tài thao-lược, kinh luânđâu nào?
          "Dẹp yên mượn sức má đào,
          "Khen ai đặt để cái mưu cũng gìa!
          "Kiếp này không xé được da.
          "Kiếp sau quả-báo, oan gia kẻo gì.
          "Gớm tuồng mộc vị, thần vì,
          "Mãng thêu hoài chỉ, đai suy uổng vàng."
          Lư-công nghe nói ngang tàng,
          910.- Mắt sòng-sọc khóe, mặt sường-sượng gân.
          Tiền-đường dọn tiệc chủ, tân,
          Đảng-công cất lẻn vào dần nhà trong.
          Trần-công rỉ bảo Đảng-công,
          Trỏ Mai-sinh mới giãi lòng một hai.
          Rằng: "Này công-tử họ Mai,
          "Trong khi hoạn-nạn lạc-loài đến đây.
          "Em cho nương-náu những ngày,
          "Rắp đem tiểu-nữ sum-vầy kết duyên,
          "Mưu kia ai vẽ cho nên,
          920.- "Để loan chếch bóng cho uyên chia hàng.
          "Việc nhà nhờ bác sửa-sang,
          "Cho cùng Trần-điệt lên đường xuất quan."
          Thoắt thôi nghe có lệnh troàn:
          Bốn mươi thị-nữ dân-gian kén rồi.
          Trong danh-sách bấy nhiêu người,
          Cùng ra Phiên-quốc theo đòi Hạnh Nguyên.
          Lại truyền không được trì diên,
          Trong hai ngày hạn xe tiên lên đường,
          Áo Hồ đưa lại một rương,
          930.- Dạy cho nương-tử cải-trang xuất hành.
          Nàng rằng: "Quân-mệnh đã đành,
          "Tủi mình khuê-khổn, liều mình tinh-triên.
          "Bao giờ khỏi đất Trung-nguyên,
          "Bấy giờ thay áo Hồ-phiên vội gì.
          "Chịu trời chăng! Một chữ thì,
          "Áo này dù đổi, lòng kia khôn dời!
          "Đảng-công khen đã nên lời,
          "Cứng lòng,thiết-thạch hổ người tu-mi.
          Thẹn thay cho kẻ vô-nghì.
          940.- Khi này dạ Sở, lúc kia bụng Tần.
          Lời trung khêu ruột gian-thần,
          Bưng tai giả điếc, nổi gân bất bình.
          Ngoài thì quan-khách linh-đình,
          Trong thì nàng cũng đau tình biệt-ly.
          Lạy hai thân, kể mọi bề,
          Châu-chan nét liễu, dầm-dề giọt mai.
          Rằng: "Con chút phận nữ-hài,
          "Công cha nghĩa mẹ chốc mười mấy niên.
          "Môn-mi mong những nhờ duyên,
          "Ngỡ đem tấc cỏ báo dền ba xuân,
          "Hiểm thay chước kẻ gian-thần,
          "Xui nên kẻ Tấn, người Tầnnhư không.
          "Có ra chi, phận má hồng,
          "Khôn đem chữ hiếu, đền công chữ cù.
          "Rồi đây muôn dặm đất Hồ,
          "Biết câu thập nữ viết vô từ rày.
          "Xin đừng nhớ đổi, sầu thay,
          "Liều bằng muôn một những ngày một hai."
          Thoắt thôi sùi-sụt ngắn dài,
          960.- Gập-ghềnh mới ngụ một bài biệt thi.
          Giờ lâu lưỡng lự vân vi,
          Gọi Xuân-sinh lại nằn-nì rỉ tai:
          "Nặng vì chút nghĩa họ Mai,
          "Ngẫm ra âu cũng có trời ở trong.
          "Lời cha mẹ nghĩa vợ chồng,
          "Nhân-duyên chưa ghép, chữ đồng đã in.
          "Vả xem bậc ấy không hèn,
          "Rõ gương khoa-giáp, rõ niềm tướng-khanh.
          "Nhờ em đãi lấy lòng thành,
          970.- "Ngoài tình bầu-bạn, trong tình anh em.
          2"Mọi bề trong ấm ngoài êm,
          "Chị dù chín suối cũng cam tấc lòng.
          "Chị nhờ em gánh hiếu-trung,
          "Chồi huyên gần cỗi, gốc thung gần già
          "Công-danh tuổi ấy đương vừa,
          "Trâm-anh, chung đỉnh dấu nhà sẵn đây.
          "Dù thương đến chị sau này,
          "Hoặc tuần hàn-thực, hoặc ngày thanh-minh.
          "Suối vàng rưới một giọt tình
          980.- "Nén hương, tờ giấy, chén canh cũng là!"
          Lôi-thôi xiết nỗi gần xa,
          Trông Mai-công-tử dường đưa mối sầu.
          Thẹn-thùng khôn nói-năng đâu,
          Sóng thu một lét, hạt châu đôi hàng.
25.- Mai-sinh và Xuân-sinh đi tiễn Hạnh-Nguyên (câu 985 - câu 1000)
          Cửa ngoài chực sẵn xe hương
          Lư-công giục-giã lên đường xuất quan.
          Kiệu-phu bước nhặt, bước khoan
          Đảng-công một ngựa điệu đoàn vệ-binh.
          Đoản-đình thôi lại tràng-đình,
          990.- Bên xe Mai Bích, Xuân-sinh hai chàng.
          Bắc, Nam ai kéo đôi đàng,
          Ải-quanai khéo chia đường biệt-ly.
          Khi sao cửa các phòng khuê,
          Giờ sao thui-thủi một xe đất này.
          Hồn mai tỉnh tỉnh say say.
          Mới trong vài bữa xem rày mấy niên.
          Trông xa, khi khoác rèm lên,
          Vòng thành chát-ngất, toà đền trai lơi.
          Kiệu-phu quì bẩm mấy lời:
          1000.- "Hàm-đan huyện ấy có nơi trùng-đài."

 

Chú thích:

    cửu-trùng-thiên: Chín tầng trời.
    Cành phàm, hoa tiên
    : Cành cây tầm thường-phàm tục- Hoa tiên: Bông hoa tươi đẹp - thần tiên- Câu này đem chữ phàm chọi với chữ tiên cũng là lối chơi chữ.
    tứ tuyệt thất ngôn
    : Lối thơ 4 câu mỗi câu 7 chữ. Thơ của Mai-sinh vịnh hoa mai hai độ nở nguyên văn chữ Hán:
    Thốc thốc mai hoa sổ trượng cao,
    Minh triêu vũ lộ hạ thiên tào,
    Tạc tiêu hoa bản thành khôi thổ,
    Nhị thứ mai hoa vạn cổ tao.
    Dịch nghĩa:
    Lớp lớp hoa mai cao mấy trượng,
    sớm mai mưa móc từ trên trời rủ xuống.
    Đêm qua đáng lẽ hoa đã thành đất bùn,
    hoa mai nở hai lần thật là dịp gặp-gỡ muôn đời mới có một.
    bài-vị
    : Cái bàn gỗ viết danh-hiệu người chết dán vào để thờ.
    đình-tử
    : Tức là vòm xây ở vườn hoa, Mai-sinh đứng đằng xa trông về chỗ đặt bài-vị.
    mộc-vị
    : Tức bài-vị gỗ nói trên.
    chân-thành
    : Thực-thà.
    Nỗi nghi
    :mối ngờ
    Xuân-sinh
    : Con trai Trần-công, khi tị nạn mạo tên là Khâu Khôi. Sau thi đỗ Bảng-nhãn.
    nhị độ mai hoa
    : Tức Mai hai độ nở hoa.

    [Back to the top]

    Vóc trong miệng, gấm trong lòng: tức là tiếng dịch nghĩa của bốn chữ: tú khẩu cẩm tâm.
    đề liền bốn câu
    : Thơ của Trần Xuân-sinh theo nguyên-văn chữ Hán:
    "Sở sắc mai hoa phẩm tối cao,
    Y y đính cáo tự nhi tào,
    Chỉ nhân thành kính không thiên giới,
    Cố xử mai hoa phóng nhị tao."
    Nghĩa là:
    Mấy lớp hoa mai phẩm giá rất cao, rõ-ràng như lũ trẻ, chỉ bởi lòng thành-kính cảm-động đến trời, nên khiến cho hoa mai hai lần nở.
    Nữ-tử, văn-nhân
    : Cũng như nói gái sắc trai tài.
    một bài nối sau
    : Nguyên-văn thơ chữ Hán của Hạnh Nguyên tiểu-thư:
    " Xuân nhật mai hoa phẩm tối cao,
    Hựu-nhân Thượng-đế giáng nhi tào,
    Hoàng-thiên bất phụ trung-lương hậu,
    Tái xử mai hoa phóng nhị tao.
    Nghĩa là:
    Ngày xuân hoa mai phẩm giá rất cao quí, lại nhân dịp Thượng-đế giáng phúc cho chúng con, Lòng trời chẳng nỡ phụ dòng dõi người trung lương, lại khiến hoa mai nở hai lần.
    châu Dương
    : tức Dương-châu một châu trong 9 châu đời Hạ Vũ, về đời Tuỳ-Đường đặt Dương-châu tại Giang-đô thuộc tỉnh Giang-tô.
    thanh-lương
    : Trong sạch, mát-mẻ.
    Tạ Vương mấy chốn, Nguyên, Đào mấy nơi
    : Vương, Tạ, Đào, Nguyễn là những nhà phú-quý phong-lưu ở Giang-tả đời nhà Tấn.
    đại-cổ, phú-thương
    : Đại cỗ: nhà buôn lớn; phú-thương: nhà buôn giàu.
    viễn khách cư kỳ
    : Khách lạ đến buôn bán. "Cư kỳ" bởi chữ "kỳ hoá khả cư", của lạ có thể buôn được (Truyện Lã bất Vy).
    Tây-dương
    : Các nước ở bên Tây Âu.

    [Back to the top]

    Cao-ly : Tức Triều-tiên, một nước bên nước Tàu.
    trường-giang
    : sông dài.
    thúy-hoàn
    : Cũnh như Liễu-hoàn, con đòi.
    thế-nghị
    : Tình nghĩa bạn-bè đời này sang đời khác.
    giao-du
    : Giao kết, chơi bời với nhau.
    tri-kỷ
    : Biết mình, người thực biết được mình thì là bạn tri-kỷ.
    chiếu-tâm
    : Soi lòng, soi thấu tận lòng.
    tri-âm
    : Biết tiếng, biết cái hay của nhau cũng như biết âm-nhạc hay hay dở.
    Câu văn cẩm tú, vẻ người y-quan
    : Cẩm-tú: gấm vóc, nói về văn-chương hay. Y-quan: Áo mũ nói bóng là có vẻ quan sang.
    Hạnh Nguyên
    : Con gái Trần Đông Sơ, bị ép đi cống Hồ, gieo mình xuống đầm, được thần cứu sống đem về, làm con gái nuôi Châu Bá Phù, sau làm chính-thất Mai Lương Ngọc.

    [Back to the top]

    Thiên tài, quốc-sắc: Cũng như nói trai tài gái sắc.
    Bảng vàng rõ mặt, đuốc hoa định ngày
    : câu này cũng như thơ "Kim bảng quải danh thì, động phòng hoa trúc dạ".
    khuê-các
    : Cũng như nói phòng khuê cửa các, con gái nhà tử-tế.
    thư-cầm
    : Sách và đàn, biểu-hiệu của văn-nhân.
    Ngoài đành đãi ngọc, trong đành tựa mai
    : đãi ngọc: ngọc đợi giá ; tựa mai: nương tựa vào họ Mai.
    chí tái chí tam
    : đến 2 đến 3 lần.
    Biên-quan
    : Cửa ải ngoài biên, nơi giáp giới ngoại-quốc.
    Sa-đà
    : Một bộ lạc thuộc biệt-bộ Tây-đột-quyết. Trong đời nhà Đuờng, có tù-trưởng là Chu gia Chấp-nghi về làng, được cho theo họ là Lý - họ nhà Đường - sau có Lý Tồn Húc diệt nhà Hậu-Lương lên làm vua Trung-quốc tức là Hậu Đương. Bây giờ ở Tân-cương có nơi sa-mạc tên là Dặc-xa-địa, tức địa-phương Sa-đà bấy giờ.
    Khuấy hôi cõi Hán, chọc tanh ải Tần
    : Hán: nhà Hán ; Tần: nhà Tần, hai triều-đại thống-nhất Trung-quốc. Chữ Hán Tần trong câu này chỉ nói thay về Trung-hoa.
    hòa thân
    : giảng-hòa và kết thông-gia.

    [Back to the top]

    Chiêu Quân: Một cung-nhân đời Hán Nguyên-đế tên là Vương Tường có nhan sắc, bị đem đi cống Hồ - Hung-nô - sau chết tại đất Hồ.
    Khởi hành
    : đứng lên đi, bắt đầu bước ra đi.
    nhật kỳ
    : ngày hẹn, hẹn ngày ra đi.
    ngận tuỳ
    : bước theo. Có bản dịch "căn tùy", có lẽ nhận lầm chữ Ngận ra chữ căn trong bản Nôm.
    Hồ trần
    : Bụi rợ Hồ, ý nói giặc Phiên nhỏ nhặn như mảy bụi.
    thao-lược, kinh luân
    : thao-lược trỏ vào quan võ ; kinh-luân trỏ vào quan văn.
    quả-báo, oan gia
    : tiếng nhà Phật, ý nói những điều oan-uổng tất có quả báo, cũng như câu tục-ngữ oan-oan tương-báo.
    Mãng thêu hoài chỉ, đai suy uổng vàng
    : Câu này ý nói có mũ mãng cân đai sang trọng lắm cũng bằng hoài.
    ngang tàng
    : Rộng chứa. Người có tính ngang tàng phóng khoáng không sợ-hãi hay câu-nệ gì.
    Tiền-đường
    : nhà trước, nhà khách.
    tiểu-nữ
    : gái nhỏ.
    Trần-điệt
    : cháu gái họ Trần, trỏ Hạnh Nguyên
    xuất quan
    : ra cửa quan-ải.
    thị-nữ
    : gái hầu.
    danh-sách
    : sổ kê tên.
    Áo Hồ
    : y-phục theo lối rợ Hồ.
    nương-tử cải-trang xuất hành
    : cô nàng thay áo ra đi
    Quân-mệnh
    : mệnh nhà vua.
    khuê-khổn
    : buồng the, con gái nhà nền-nếp cũng như khuê-các.
    tinh-triên
    : tanh hôi, trỏ vào rợ Hồ nòi giống khác.
    Trung-nguyên
    : người Tàu cho đất Trung-quốc là Trung-nguyên, còn ngoài ra đều là mọi rợ.
    Hồ-phiên
    : tức là Hồ.
    thiết-thạch
    : sắt đá.
    tu-mi
    : râu mày.
    nữ-hài
    : con gái còn trẻ dại.
    Môn-mi
    : cái võng cửa. Dương Thái Chân được Đường Huyền-tông lập làm quí-phi, bấy giờ có câu phong dao rằng:
    "Sinh-nữ vật bi toan,
    Sinh nam vật hỉ hoan,
    Nam bất phong hầu nữ tác phi,
    Quân khan nhi-nữ vị môn-mi,"
    Nghĩa là:
    Sinh gái chớ vôi thương xót, sinh trai chớ vội vui mừng, trai chẳng được phong hầu mà gái được làm bà phi, người coi con gái là cái cửa võng làm vẻ-vang cho nhà cửa.
    Ngỡ đem tấc cỏ báo đền ba xuân
    : câu này do câu thơ cổ:
    "Thùy ngôn thốn thảo tâm,
    Báo đáp tam xuân huy "
    Ai bảo rằng tấm lòng của tấc cỏ mà báo đáp được ánh sáng của ba mùa xuân. Đó là lời một người con đi xa nhớ mẹ -tấc cỏ ví như con, ba xuân ví như cha mẹ.
    kẻ Tấn, người Tần
    : chữ Tấn Tần, đây nói về sự chia rẽ ra làm đôi ngả như Tấn với Tần.
    chữ cù
    : bởi câu: ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao: thương thay cha mẹ ta, sinh ta ra khó nhọc.
    thập nữ viết vô
    : mười con gái cũng là không.
    biệt thi
    : thơ từ biệt, nguyên văn chữ Hán bài thơ của Hạnh Nguyên:
    Nhật nhật khuê trung tư phượng-hoàng,
    Mộng hồn nhất đán viễn tha hương,
    Tư thân bất đắc qui nguyên lý,
    Chỉ vị can qua xuất họa đường,
    Chỉ thuyết cao đường thượng thị phụng,
    Khởi tri kim nhật vĩnh phân mang,
    Tòng kim nan đổ song thân diện,
    Yêu đắc tượng phùng mộng lý thường.
    Nghĩa là:
    Ngày ngày ở trong buồng thêu chim phượng hoàng,
    mộng hồn bỗng một buổi đi xa đất khách,
    nhớ mẹ cha chẳng được trở về làng cũ,
    chỉ vì gươm giáo nổi lên ở nơi buồng thêu.
    Những tưởng chốn thềm cao hầu hạ cha mẹ,
    biết đâu ngày nay chia cách mãi.
    Từ đây khó lòng trông thấy mặt hai thân,
    mong sao được gặp nhau trong giấc mộng luôn luôn.
    Chồi huyên gần cỗi, gốc thung gần già
    : câu này nói cha mẹ đã già.
    Trâm-anh, chung đỉnh
    : trâm là cái để cài tóc, anh là giải mũ, trâm-anh là biểu-hiệu hạng nguời có quan tước áo mũ. Chung-đỉnh đã chú thích ở trên.
    hàn-thực
    : Theo Tuế-thì-ký thì sau tiết Đông-chí 105 ngày là tiết Hàn-thực. Cũng gọi là tiết "cấm yên ".
    Tục truyền xưa có Giới Tử Thôi đời Xuân-thu, có công giúp Tấn Trùng Nhĩ được phục-quốc nhưng không nhận thưởng, vào ẩn trong núi. Trùng Nhĩ tìm mãi không được, đốt núi để cho ra nhưng Tử Thôi đành chết cháy ; người Tàu thương xót cứ đến ngày đó thì cấm lửa để kỷ niệm Tử Thôi, gọi là tiết Hàn-thực, nghĩa là ăn đồ lạnh.
    thanh-minh
    : sau Hàn-thực một ngày là tiết Thanh-minh, người Tàu quen dùng tiết ấy làm ngày đi tảo mộ, gọi là tiết đạp thanh: giãm chân lên đám cỏ xanh.
    Kiệu-phu
    : Phu khiêng kiệu.
    tràng-đình
    : mỗi cung đường có một trạm nghỉ chân gọi là đình, cứ cách 5 dặm có một đoản-đình: (đình ngắn) và 10 dặm có một trường-đình: (đình dài).
    Mai Bích
    : tức Mai-sinh.
    Ải-quan
    : cửa ải, nơi quan-yếu ngoài biên-giới, chỗ hai nước tiếp-giáp nhau.
    Hàm-đan
    : một huyện thuộc đạo Đại-danh tỉnh Trực-lệ bên Tàu.