Trang 7

31.- Đến Lạc-nhạn-đài, Hạnh-Nguyên gieo mình (câu 1183 - câu 1240)
          Lên yên gióng ngựa ra đi,
          Núi cao đã thấy hầu kề tới nơi.
          Hỏi tên là Lạc-nhạn-đài,
          Trùm mây mờ-mịt, nhất trời bông-lông,
          Nàng rằng: "Tích trước ghi lòng,
          "Chiêu Quân gửi nhạn thư phong chốn này.
          "Đường đi nhân tiện qua đây,
          1190.- "Nhắn chim, bắt chước chuyện ngày ấy chơi."
          Kíp truyền man tốt mấy lời,
          Dọn đường núi nhạn, kíp dời gót loan.
          Phò nàng ngồi kiệu đăng san
          Hai nàng thị-nữ, một đoàn phiên binh.
          Bước cao bước thấp gập-ghềnh,
          Quăn-queo đuôi chuột, chênh-vênh tai mèo.
          Nương đá quạnh, vịn cành oeo,
          Chim xào-xạc lá, vượn reo-rắc cành.
          Sẵn-sàng cảnh vật chung quanh,
          1200.- Phong đồn mở phạt, mây xanh buông màn.
          Bước lên tuyệt đỉnh tàn tàn,
          Trông dường chật đất, với toan đến trời.
          Mặt sau lần bước len chơi,
          Nhìn đâu bỗng thấy một nơi có đầm.
          Mắt mèo trong vắt nổi tăm,
          Rắn quằn-quại khúc, mãng nhăm-nhắp hàm.
          Cheo-leo sườn núi trông sang,
          Khe kia suối nọ ngổn-ngang mấy trùng.
          Nửa ngày nổi trận âm phong.
          1210.- Phất-phơ lật lá, lạnh-lùng thấu xương.
          Đất đâu sơn thủy lạ dường?
          Ngẩn-ngơ mình những cảm thương nỗi mình.
          Xót thay đôi đức sinh-thành,
          Biết bao nguôi được chút tình nhớ-thương.
          Một ngày một ngả bóng tang,
          Da mồi sạm mặt, tóc sương điểm đầu.
          Biết nhau, thêm dở-dang nhau,
          Quen hơi bén tiếng bao lâu mà rằng!
          Ấy ai chấp mối xích-thằng,
          1220.- Biết mà dứt chỉ, thà đừng vương tơ.
          Như lời thần mộng họa là,
          Còn duyên chăng nữa, cũng chờ lai sinh.
          Đường cùng giữ lấy thơm danh,
          Thôi thì gác hiếu với tình một bên.
          Chấp kinh, nếu chẳng tòng quyền,
          Nữa khi nước đến, e nên cát lầm.
          Tấc lòng cả quyết khôn cầm,
          Tấm thân phó mặc dưới đầm sâu sâu.
          Thị-tỳ trông trước nhìn sau,
          1230.- Nàng đà gieo ngọc trầm châu bao giờ.
          Ai ngờ ra sự chẳng ngờ,
          Phiên-binh nhớn nhác, nhớn-nhơ một đoàn.
          Bảo nhau sắp sẵn mưu gian,
          Cải-trang bắt lấy thúy-hoàn để thay.
          Miệng bình bưng kín ai hay.
          Chăm chăm giục ngựa mấy ngày trẩy sang.
          Hấp-him thay nhẽ,Man-vương,
          Hững hờ nào biết rằng nường hay ai.
          Thúy-hoàn riêng được hẳn-hoi,
          1240.- Đổi hình tỳ-thiếp, thay ngôi phi-tần.
32.- Hạnh-Nguyên được đưa về nhà Châu bá Phù (câu 1241 - câu 1272)
          Mới hay trời với giai-nhân,
          Được riêng chữ tiết, nắm phần chữ danh.
          Làm cho chán nỗi thử thanh,
          Trải bao nạn trước, mới dành phúc sau.
          Tiểu-thư từ xuống đầm sâu,
          Hồng-vân một đóa đón đâu nửa chừng,
          Ào ào tiếng gió lay rừng,
          Giữa trời vũ giá vân đằng đem đi.
          Mấy lời thần-mộng xa nghe:
          1250.-"Ta đây vâng mệnh đưa về Trung-hoa!"
          Giờ lâu bỗng thấy chân sa,
          Nhìn thôi mới rõ một tòa danh viên.
          Canh khuya văng-vẳng bốn bên,
          Thôi năn-nỉ khóc, lại rền-rĩ than.
          Tỉnh mê riêng những bàn-hoàn,
          Nào non nước tá? ủy! vườn tược đâu?
          Chẳng hay là đất Trung-châu,
          Nhà quan Ngự-sử là Châu Bá Phù.
          Ông đương thượng lỵ Đông-đô,
          1260.- Để lưu con gái với phu-nhân nhà.
          Tiểu-thư vả bậc tài-hoa,
          Khuê-phòng tiểu-tự gọi là Vân-Anh.
          Đốt hương vừa buổi đêm thanh,
          Nghe đâu ti-tỉ như hình tiếng ai.
          Giờ lâu truyền gọi con đòi,
          Soi đèn xem thử có người đâu đây.
          Tiểu-hoàn vâng lệnh ra ngay,
          Soi xem bỗng rụng-rời tay, trở về.
          Rằng:"Người đâu của dị-kỳ?
          1270.- "Đỉnh đầu lông hổ, vằn-vè áo lưng.
          "Ở đâu về đấy nhưng-nhưng,
          "Ấy rằng quỉ-sứ, hay rằng hồ-tinh!
33.- Hạnh-Nguyên trần tình với Châu phu nhân (câu 1273 - câu 1300)
          Một nhà sào gậy xúm quanh,
          Hạnh-Nguyên mới bạch thực tình trước sau.
          Thấy người phong-điệu cửa hầu,
          Dạy cho vào đến trước lầu hỏi-han.
          Hạnh-Nguyên mới hỏi nguồn cơn:
          Nỗi nhà tách-bạch, nỗi oan rạch-ròi
          Hòa Phiên khi đến nước ngoài,
          1280.- Miếu thần ứng mộng, nhạn-nhai gieo mình.
          Phép thiêng cải tử hoàn sinh,
          Ở hiền may gặp lại lành đến đây.
          Phu-nhân rằng: "Ấy mới hay,
          "Thế-gian cũng có sự này lạ ghê.
          "Thần còn cứu kẻ nhân-nghì,
          "Dễ hầu người chẳng liệu bề xót nhau?
          "Ở đây chẳng ngại chi đâu,
          "Cho làm nghĩa-nữ bạn hầu tiểu-thư.
          "Rồi sau nhắn bảo mẹ cha,
          1290.- "Trời cho khi dễ, họa là gặp nhau."
          Hạnh-Nguyên vâng mệnh trước sau,
          Sụp ngồi nàng mới gật đầu mấy phen.
          Vân-Anh từ được bạn hiền,
          Yêu bên chữ sắc, trọng nhau chữ tài.
          Hai người như thể một người,
          Ngang tay tú-các sánh vai lan-phòng.
          Dệt thêu, học lẫn nữ-công,
          Lúc chia hoa ướp, khi chung phấn giồi.
          Hạnh-Nguyên khi đứng khi ngồi,
          1300.- Khóc thầm trong vắng, gượng cười ngoài sân.
34.- Cùng đi lánh nạn, Mai-sinh và Xuân-sinh lạc nhau (câu 1301 - câu 1322)
          Nàng đà được chốn an thân,
          Xót thay chàng Bích, chàng Xuân hai người.
          Ai-quan chân chửa kịp dời,
          Mã-bài đã có chỉ đòi Đảng-công.
          Chẳng ngờ Lư Kỷ tấu trong,
          Thiên-lao đã bắt vợ chồng Đông Sơ.
          Hai chàng còn tiễn tiểu-thư,
          Cũng ban mật-chỉ truyền cho bắt về.
          Đảng-công chống-chế mọi bề,
          1310.- Cấp thêm hành lý giục đi lánh mình.
          Cùng nhau hai gã thư-sinh,
          Ngẩn-ngơ quê khách, gập-ghềnh đất xa.
          Trời hôm xế bóng tà-tà,
          Côn-quangđâu bỗng gặp ba bốn người.
          Lòng tham còn biết thương ai,
          Cướp hành-lý hết, áo ngoài sạch không.
          Tạm ngồi trước miếu bên sông,
          Thuyền quan nghe có thùng thùng trống canh.
          Nghi cho là kẻ gian tình,
          1320.- Nghe hơi kéo một đạo binh lên bờ.
          Xuân-sinh kíp lánh đường xa,
          Bắt liền Mai Bích mới đưa xuống thuyền.
35.- Mai-Sinh gặp Phùng-lạc-Thiên (câu 1323 - câu 1368)
          Chàng bèn cất mặt trông lên,
          Thấy trong khoang giữa, ngồi nền một ông.
          Mấy lời sang sảng tiếng đồng:
          "Tên kia sao dám cả lòng mưu gian?"
          Sinh rằng: "Đâu dám to gan,
          "Đèn trời xin thấu nỗi oan cho người.
          "Tôi cùng người bạn anh tôi,
          1330.- "Tìm người thân-thích lạc loài đến đây.
          "Nào ngờ gặp sự chẳng may,
          "Dám xin xét tấm lòng ngay được nhờ."
          Ông xem ra dáng con nhà,
          Truyền đem nghiên-bút thử và câu chơi.
          Chàng vâng lĩnh bút đề bài,
          Viết xong Chế-nghệ một bài nộp đi.
          Ông rằng: "Nhục nhỡn nan tri,
          "Thứ cho thì chớ, dù chê dám nài.
          "Bước lên xin hãy tạm ngồi,
          1340.- "Áo đưa một cặp, ngắn dài quản chi.
          "Họ tên sao đấy? Ở quê xa gần?"
          Dằn lòng, sinh những ngại-ngần,
          Giả danh rồi sẽ nghe dần về sau.
          Thưa rằng: "Xin kể gót đầu,
          "Tên Vinh họ Mục, Thường-châu là nhà."
          Ông rằng: "Quê đấy chẳng xa,
          "Có quen Mai-thị cùng là ai không?
          Sinh rằng: "Cùng ở môt vùng,
          1350.- "Bạn-bè cũng biết có công-tử chàng.
          "Từ khi gặp biến phi thường,
          "Chẳng hay đâu đấy tìm phương lánh mình.
          "Tôi nay vâng đẹp duyên bình,,
          "Xin tường quí tính, đại danh, được nhờ."
          Ông rằng: "Cũng chẳng đâu xa,
          "Ở Giang-nam tỉnh, tên là Lạc Thiên.
          "Cách quan về việc bình Phiên,,
          "Rày vâng khai-phục, ra miền Ngọc-kinh."
          Đêm khuya trống đã sang canh,
          1360.- Truyền đem gối đệm, nghỉ mình khoang trong.
          Mấy tuần thuận bến xuôi giòng,
          Mui bồng trăng tối, buồm dòng gió trưa.
          Quan lão-luyện, khách tài hoa,
          Cuộc cờ trên lái, đường tơ dưới lèo.
          Mây buổi sớm, nước ban chiều,
          Thơ ngâm ngoài mạn, rượu kèo trong khoang.
          Kinh-thành mong-mỏi tấc gang,
          Chìu lòng nước cũng bằng dường như tên.

Chú thích:
    Lạc-nhạn-đài: Đài nhạn sa.
    đăng san
    : Lên núi, một thứ kiệu hai hay bốn người khiêng, để lên dốc xuống dốc lúc lên núi cho khỏi phải leo trèo vất vả, gọi là " kiệu đăng san ".
    tuyệt đỉnh
    : đỉnh núi
    âm phong
    : Gió ẩm thấp, gió có âm-khí (hơi âm).
    sơn thủy
    : Núi sông, thủy-thổ, khí-hậu.
    sinh-thành
    : Sinh đẻ, gây-dựng, trỏ vào cha mẹ.
    bóng tang
    : Tức bóng dâu (xem chú thích ở trên)
    xích-thằng
    : Dây đỏ (xem chú-thích ở trên)
    thần mộng
    : Lời thần báo mộng,
    lai sinh
    : Kiếp sau.

    [Back to the top]

    Chấp kinh, nếu chẳng tòng quyền: Chấp kinh: giữ đạo thường. Tòng quyền: tùy theo hoàn-cảnh mà xử trí cho xong việc. Ta thường nói quyền nghi hay quyền-biến cũng là nghĩa tòng quyền.
    Man-vương
    : Vua Mán, trỏ vua nước Sa-đà.
    tỳ-thiếp, phi-tần
    : Tỳ-thiếp: Con hầu ; phi tần: vào bậc cung-phi, cung nhân.
    giai-nhân
    : cũng đọc là nhai-nhân: người đẹp, trỏ vào đàn bà con gái, phái nữ-lưu.
    Hồng-vân
    : Đám mây đỏ.
    vũ giá vân đằng
    : Cỡi gió đè mây, cũng như nói đi mây về gió, nói về sự biến-hóa của quỉ thần.
    danh viên
    : Vườn có tiếng, khu vườn rộng, vườn đẹp.
    Ngự-sử là Châu Bá Phù
    : Ngự-sử: một chức quan ở Kinh và các đạo, coi việc giám-sát chính-trị. Châu Bá Phù: Về phe trung
    thượng lỵ Đông-đô
    : Đương làm quan ở Đông-đô.
    Khuê-phòng tiểu-tự gọi là Vân-Anh
    : Tên lúc bé ở nơi khuê phòng gọi là Vân Anh.

    [Back to the top]

    phong-điệu cửa hầu: Bởi chữ Hầu môn phong điệu, tính cách nhà quan.
    cải tử hoàn sinh
    : Đổi chết làm sống lại.
    nghĩa-nữ
    : Con gái nuôi.
    tú-các
    : Gác thêu, buồng thêu, nơi thêu-thùa của bọn nữ-lưu.
    lan-phòng
    : Buồng lan, buồng thơm như hoa lan, tiếng nói lịch sự chỉ chỗ bạn gái ở.
    nữ-công
    : Việc làm bằng tay chân của phái nữ-lưu như thêu-thùa, may-vá, nấu-nướng.
    Mã-bài
    : Bài ngựa. Đời xưa có việc quan gì khẩn-cấp, thì viết bài cho lính chạy ngựa đi báo, cũng như hỏa bài.
    Thiên-lao
    : Nhà ngục giam người có tội.
    mật-chỉ
    : Lệnh kín, chỉ-dụ bí-mật của nhà vua hay của quan.
    hành lý
    : Đồ vật đem đi đường.

    [Back to the top]

    thư-sinh: Học-trò, người đọc sách.
    Côn-quang
    : Nghĩa đen là gậy gộc, trỏ vào hạng vô lại, đầu trộm đuôi cướp, hay du-côn.
    Chế-nghệ
    : Tiếng gọi về lối kinh-nghĩa hay tinh-nghĩa một lối văn 8 vế quen gọi là văn bát cổ ngày xưa dùng để thi-cử,
    Nhục nhỡn nan tri
    : Mắt thịt khó biết.
    duyên bình
    : Bình đây là bình phong, một bức ngăn để chắn gió. Ngày xưa Mạnh thường Quân tiếp khách, vẫn có người thư-ký ngồi bên trong bức bình phong để biên chép. Chữ "duyên bình" trong câu này do tích ấy, ý nói là dự vào hàng thư-ký.
    quí tính, đại danh
    : Lời hỏi lịch-sự cũng như nói "họ tên ngài".
    bình Phiên
    : Giẹp nước Phiên- Lư Kỷ chủ hòa, Phùng-công chủ chiến, khác ý nhau nên Phùng bị cách quan.
    khai-phục
    : Được phục chức.