Phần 6: Những năm tháng là đại biểu Chính phủ và đại biểu Trung ương Đảng tại Trung Quốc (1950-1957)
P6 - Chương 1 & 2

Ngày 25 tháng 12 năm 1949, tôi và anh Bùi Các đi xe hỏa rời Pra-ha, Thủ đô Tiệp Khắc, hai ngày hôm sau thì đến Mạc Tư Khoa. Chúng tôi tìm một khách sạn nhỏ thuê một phòng ngủ nhỏ để đỡ tốn tiền. Khách sạn biết chúng tôi là khách nghèo nhưng tiếp đãi rất tốt và xếp cho một cái phòng ngủ hai người, tính mỗi ngày 25 rúp. Xếp đặt chỗ nghỉ xong, chúng tôi liền đi đến Sứ quán Trung Quốc làm thủ tục nhập cảnh để gấp rút lên đường đi Bắc Kinh.
Lại một việc bất ngờ. Sứ quán Trung Quốc nói, cách đây độ một tháng có mấy người Việt Nam cùng đi với đồng chí Lu-y Xây-giăng qua đây cũng làm thủ tục nhập cảnh Trung Quốc để họp Hội nghị Công đoàn Á-Úc, lúc qua đây các đồng chí đó đều nói là sẽ còn có bạn Việt Nam đến sau. Tôi nói, chính tôi là người được ủy nhiệm làm Trưởng đoàn đại biểu Công đoàn Việt Nam, còn người đi cùng với tôi là thư ký của Đoàn đại biểu. Chúng tôi đều đi từ Thái-lan đến, nhưng vì khi qua Ấn Độ và Pa-ki-xtan bị mắc kẹt nên bây giờ mới đến được Mạc Tư Khoa. Sứ quán nói, Hội nghị Công đoàn Á-Úc đã họp xong rồi, mà chúng tôi cũng không được chỉ thị gì của Chính phủ về việc này. Như vậy, nguyên tắc là chúng tôi không thể cấp chứng thực cho các bạn nhập cảnh.
Tôi nói, đã đành nguyên tắc là như vậy, nhưng chúng tôi là người Việt Nam, đi qua các nước tư bản gặp rất nhiều khó khăn nên đến chậm, nay lại phải trở lại qua các nước đó, thì chúng tôi càng gặp rất nhiều khó khăn. Hơn nữa là chứng nhận quá cảnh Liên Xô của chúng tôi cũng chỉ còn bốn ngày nữa là hết hạn. Nếu các đồng chí không thể cho chứng nhận nhập cảnh, thì chúng tôi đề nghị các đồng chí cho chứng nhận quá cảnh để chúng tôi có thể đi qua Trung Quốc về Việt Nam. Lúc qua Bắc Kinh, chúng tôi sẽ trình bày với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Chúng tôi tin chắc rằng, về việc chúng tôi đi dự Hội nghị Công đoàn Á-Úc, Trung ương Đảng chúng tôi đã có thông tri cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc biết rồi. Nghe nói có lý, Sứ quán Trung Quốc bằng lòng cấp giấy chứng nhận quá cảnh.
Sau khi được giấy chứng nhận, chúng tôi liền mua vé xe hỏa đi Bắc Kinh. Ngày 31 tháng 12 năm 1949, chúng tôi đến Mãn Châu Lý, ga xe lửa đầu tiên ở biên giới Trung-Xô trên đất Trung Quốc. Ở đây, chúng tôi được xếp ngay ở Ngoại sự xứ Trung Quốc và được tiếp đãi rất thân mật. Ngày 1 tháng giêng năm 1950, chúng tôi được Ngoại sự xứ xếp cho đủ mọi phương tiện và phái một đồng chí Giải phóng quân đưa chúng tôi về Bắc Kinh đến thẳng Bộ Ngoại giao. Khi đến Bộ Ngoại giao thì thấy mấy anh trước đây cùng đi với đồng chí Lu-y Xây-giăng từ Tiệp Khắc đến Bắc Kinh họp Công đoàn Á-Úc đã ngồi chờ sẵn ở đó. Chuyện trò một lúc về việc trắc trở trên đường đi và nghe các anh thuật lại tình hình Hội nghị Công đoàn Á-Úc, Bộ Ngoại giao xếp tôi và anh Bùi Các đi ở sở chiêu đãi của Bộ ở Lang Phòng Đầu Điều để chờ ý kiến giải quyết của Quốc vụ viện Trung Quốc.
Trong khi chờ đợi thì được tin Hồ Chủ tịch và anh Trần Đăng Ninh cũng đang trên đường đi từ biên giới đến Bắc Kinh, để gặp Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Đến Bắc Kinh, Hồ Chủ tịch được xếp ở Trung Nam Hải gần chỗ làm việc của Mao Chủ tịch và Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tôi cũng được xếp vào Trung Nam Hải cùng ở một chỗ với Hồ Chủ tịch.
I. Ở lại Bắc Kinh theo chỉ thị của Hồ Chủ tịch
Ở Trung Nam Hải, Hồ Chủ tịch hỏi rất cặn kẽ về tình hình kiều bào ta ở Thái-lan, về sự hoạt động của các Phái đoàn Chính phủ ta ở Thái-lan, ở Miến Điện, ở Pháp, và tình hình các anh em được phái ra hoạt động ở nước ngoài. Tôi báo cáo rõ từng điểm một. Nghe xong, Hồ Chủ tịch kết luận, công tác của Ban cán sự Trung ương ở hải ngoại như vậy là tốt. Nhưng hiện nay, Trung Quốc đã giải phóng, cán cân lực lượng đã nghiêng về phía có lợi cho cách mạng của nhân dân thế giới, đặc biệt là có lợi cho cuộc kháng chiến của Việt Nam. Cuộc kháng chiến chống Pháp mấy năm nay, với sự cố gắng của bản thân chúng ta đã thu được kết quả lớn. Nay Trung Quốc đã quyết tâm viện trợ chúng ta về mọi mặt, như vậy, trọng tâm hoạt động đối ngoại của chúng ta bây giờ không ở Thái-lan nữa, mà phải chuyển qua Trung Quốc. Như vậy, chú có thể phải ở lại Bắc Kinh để nhận nhiệm vụ mới. Công việc sẽ có thể có nhiều cái mới phải học hỏi, phải cố gắng. Nhưng điều quan trọng là các đồng chí Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai đều tỏ lòng sẵn sàng ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, mặc dù Trung Quốc mới giải phóng, các đồng chí cũng còn có nhiều khó khăn phải khắc phục.
Nguyên từ năm 1938-1940, Hồ Chủ tịch từ Liên Xô về Trung Quốc để tìm liên lạc với tổ chức cách mạng Việt Nam và đã gặp Ban hải ngoại Đảng Việt Nam ở Côn Minh. Tháng 6-1940, phát-xít Đức đánh chiếm Thủ đô Pháp, Hồ Chủ tịch chủ trương chuyển hướng hoạt động về biên giới Việt – Trung rồi về nước, thì đã đi Trùng Khánh gặp Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc để trao đổi ý kiến về thời cuộc. Đến nay trong khoảng mười năm xa cách với các đồng chí Trung Quốc, Hồ Chủ tịch đã thành công trong việc xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đã kháng chiến chống Pháp có kết quả, nên khi gặp Mao Chủ tịch đặt vấn đề viện trợ, thì Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc coi là một nhiệm vụ quốc tế hàng đầu trong tư thế là một nước lớn nhất ở Châu Á đã thoát khỏi địa vị một nước nửa phong kiến, nửa thuộc địa bị các đế quốc chia cắt và khống chế do sự nhu nhược đầu hàng của triều đình phong kiến Mãn Thanh và của Chính phủ tư bản quan liêu Tưởng Giới Thạch.

°

Ở Trung Nam Hải, Mao Chủ tịch tổ chức và chủ trì một bữa tiệc long trọng chiêu đãi Hồ Chủ tịch, có hầu hết các vị lãnh đạo cao cấp của Đảng như Lưu Thiều Kỳ, Chu Đức, Chu Ân Lai, Đổng Tất Vũ, Lâm Bá Cừ và sáu bảy đồng chí khác nữa tham dự. Có thể nói đây là một bữa tiệc mừng sự thành công của Cách mạng Tháng Tám, bữa tiệc ca ngợi quyết tâm và ý chí kiên cường chống Pháp của nhân dân Việt Nam, ca ngợi sự lãnh đạo tài tình của Hồ Chủ tịch và của Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng thời là bữa tiệc tỏ mối tình đoàn kết chiến đấu cao cả của Trung Quốc đối với cuộc chiến đấu anh dũng của nhân dân Việt Nam. Trong bữa tiệc, đồng chí Lưu Thiếu Kỳ hỏi Hồ Chủ tịch: Những người tham gia lớp huấn luyện ở Quảng Châu hồi năm 1925-1926 nay còn những ai? Hồ Chủ tịch nói: Còn đồng chí Hoàng Văn Hoan (vừa nói vừa chỉ vào tôi) hôm nay cũng có mặt ở đây.
Tiếp đó, Hồ Chủ tịch nói cho biết đồng chí Lưu Thiếu Kỳ là một trong những người thường giảng bài ở lớp huấn luyện Quảng Châu. Tôi liền bưng một chén rượu đến chúc sức khỏe đồng chí Lưu Thiếu Kỳ và hứa hẹn sẽ hết lòng hết sức phục vụ cách mạng. Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ cũng chúc sức khỏe tôi và cả hai người cùng cạn hết chén rượu.
Sau bữa tiệc, hai Đảng đi vào bàn bạc công việc thực chất.
Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ nói: Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã quyết định thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và sẽ bàn với Liên Xô cũng thừa nhận, để Việt Nam có một địa vị mạnh trên trường quốc tế. Hiện nay, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã được Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu và Triều Tiên, Mông Cổ thừa nhận. Nước Anh cũng thừa nhận. Nước Pháp cũng đang chuẩn bị thừa nhận. Bây giờ chúng tôi thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thì chắc chắn Pháp sẽ hoãn lại việc thừa nhận chúng tôi, nhưng chúng tôi không sợ. Chúng tôi mạnh lên, Pháp sẽ phải thừa nhận. Bây giờ vấn đề chính là phải tích cực ủng hộ cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam mau tới thắng lợi.
Với ý định này, Trung Quốc đề nghị đồng chí Rô-sin, Đại sứ Liên Xô tại Trung Quốc đánh điện về báo cáo với Chính phủ Liên Xô và đề nghị để Hồ Chủ tịch qua Liên Xô gặp đồng chí Sta- lin để trình bày trực tiếp. Sau khi Liên Xô trả lời đồng ý, đồng chí Rô-sin mở một bữa tiệc hoan nghênh Hồ Chủ tịch qua thăm Liên Xô, có anh Trần Đăng Ninh và tôi cùng tham gia. Trong bữa tiệc, Hồ Chủ tịch giới thiệu tôi sẽ là người đại biểu Đảng và Chính phủ Việt Nam tại Trung Quốc. Sau này có việc gì cần trao đổi ý kiến hoặc đề nghị giúp đỡ thì xin các đồng chí hết sức giúp đỡ.
Sau hai hôm, Hồ Chủ tịch và anh Trần Đăng Ninh đi Mạc Tư Khoa, còn tôi phải ở lại Bắc Kinh liên hệ với các đồng chí Văn phòng Trung ương Đảng Trung Quốc và các đồng chí phụ trách Bộ Ngoại giao Trung Quốc để chuẩn bị mọi sự cần thiết cho việc thành lập Sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc.
Bàn xong công việc ở Mạc Tư Khoa rồi, Hồ Chủ tịch lại đáp máy bay về Bắc Kinh ở thêm mấy ngày để bàn một số việc cụ thể. Hồ Chủ tịch đề nghị cử tôi làm Đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đại biểu Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương bên cạnh Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc. Mao Chủ tịch đồng ý. Hồ Chủ tịch gấp rút về nước để triển khai mọi mặt công tác trong điều kiện mới.

°

Sau khi Hồ Chủ Tịch và anh Trần Đăng Ninh về nước, tôi cũng rời khỏi Trung Nam Hải ra ở khách sạn Lục Quốc, sau đổi tên là khách sạn Quốc tế, chiêu đãi sở của Quốc vụ viện, trực tiếp liên hệ với đồng chí Lý Khắc Nông, Phó Bộ trưởng Bộ Ngoại giao để chuẩn bị việc thành lập sứ quán.
Lúc này, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đang chuẩn bị mở một lớp huấn luyện đặc biệt đào tạo một số cán bộ ngoại giao đầu tiên để phái đi làm Đại sứ Trung Quốc tại các nước. Tôi được sự đồng ý của Thủ tướng Chu Ân Lai cũng tham dự lớp huấn luyện này với danh nghĩa là một Hoa kiều mới về nước. Trong Bộ Ngoại giao chỉ riêng đồng chí Lý Khắc Nông được biết tôi là người Việt Nam. Dự lớp huấn luyện xong, đồng chí Lý Khắc Nông phái một cán bộ thạo việc cùng tôi tiến hành thực hiện việc lập sứ quán. Chúng tôi chọn một tòa nhà lớn, nguyên trước là một cái trường học của Mỹ ở ngõ “Sử Gia” làm sứ quán. Các đồ đạc cần dùng cho một sứ quán và cho các nhân viên sứ quán, các người phục vụ như người nấu cơm, người đốt lò, người quản lý, người làm vệ sinh v.v... đều được Bộ Ngoại giao cung cấp đầy đủ và rất chu đáo. Không bao lâu, một số cán bộ trong nước gửi ra, một số cán bộ điều từ Thái-lan về đều lần lượt đến Bắc Kinh. Bộ máy nhỏ gọn của sứ quán tổ chức xong, thì thư ủy nhiệm của Chính phủ từ trong nước cũng đã gửi đến.
Theo thủ tục ngoại giao thì Đại sứ đặc mệnh toàn quyền mới trình Quốc thư lên Chủ tịch nước, còn Đại biểu Chính phủ thì chỉ trao thư ủy nhiệm cho Bộ Ngoại giao là được. Nhưng với sự chiếu cố đặc biệt, Bộ Ngoại giao cũng tổ chức việc yết kiến Mao Chủ tịch, với lễ nghi tương tự như lễ nghi trình Quốc thư. Yết kiến Mao Chủ tịch xong, Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn giới thiệu liên hệ với Đại sứ Liên Xô, Đại sứ Tiệp Khắc đã có mặt tại Trung Quốc, liên hệ với một số ngành có quan hệ đến công tác Việt Nam, như văn hóa, kinh tế, v.v... liên hệ với các vị lãnh đạo Đảng và Chính phủ thành phố Bắc Kinh, các vị Phụ trách các đoàn thể như Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ.
Trong khi liên hệ với các Đại sứ quán các nước anh em, các Đại sứ đều đặt câu hỏi: Vì sao Việt Nam không đặt quan hệ ngoại giao với Trung Quốc ở cấp Đại sứ, mà chỉ đặt ở cấp Đại biểu Chính phủ. Các Đại sứ hỏi như vậy là vì quan hệ ngoại giao ở cấp Đại sứ là cao nhất, còn ở cấp Đại biểu Chính phủ thì thấp hơn. Trước mình cứ tưởng Đại biểu Chính phủ tức là Đại sứ. Bây giờ tiếp xúc rộng mới biết có sự phân biệt như thế. Báo cáo về nước, Trung ương Đảng và Chính phủ biết rõ vấn đề này mới quyết định việc ủy nhiệm tôi làm Đại sứ. Vì vậy, tuy đã hoạt động ngoại giao như một Đại sứ, nhưng mãi đến ngày 20-12-1950 thì mới có sự bổ nhiệm làm Đại sứ, và đến ngày 28-4-1951 mới lại trình Quốc thư với danh nghĩa là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Trung Quốc. Đồng thời với việc ủy nhiệm làm Đại sứ tại Trung Quốc, tôi còn được ủy nhiệm kiêm chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Mông Cổ và tại Triều Tiên.

°

Cuộc kháng chiến chống Pháp ở trong nước đang tiến hành một cách quyết liệt, tất cả cán bộ trong nước đều phải tập trung lực lượng vào đó, nên việc hoạt động ngoại giao ở ngoài nước gần như toàn bộ đều được Trung ương và Chính phủ giao phó cho tôi phụ trách. Đối tượng phải liên hệ mật thiết trong lúc đó là đại sứ các nước anh em, đặc biệt là Đại sứ Liên Xô và Đại sứ Tiệp Khắc, chẳng những để tỏ tình hữu nghị mà còn để học hỏi những kiến thức về ngoại giao. Ngoài ra còn qua lại nhiều với đại sứ các nước như Ấn Độ, Miến Điện, Pa-ki-xtan, chuyện trò và giới thiệu tình hình Việt Nam với họ để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ về mặt tinh thần, mặc dù các nước đó vẫn chưa tuyên bố thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đối với các sứ quán phương Tây [6] như Phần Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, v.v… cũng thường có sự gặp gỡ để gây tình cảm.
Để mở rộng quan hệ đối ngoại, tháng 5 năm 1950, Trung ương và chính phủ quyết định phái tôi đi dự lễ kỷ niệm Quốc tế lao động 1-5 ở Liên Xô và đi dự lễ Quốc khánh Tiệp Khắc 9-5, để luôn tiện giải quyết một số vấn đề ở Tiệp Khắc mà cuối năm 1949 đi qua vẫn còn gác lại chưa giải quyết.
Dự lễ kỷ niệm ngày Quốc tế lao động, lần đầu tiên được thấy vẻ oai hùng của Hồng quân Liên Xô trang bị bằng vũ khí tối tân, thể hiện sức mạnh vô địch của nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, tận mắt thấy cái khí thế của mấy chục vạn nhân dân Liên Xô, hàng ngũ chỉnh tề, tinh thần hiên ngang, nối tiếp nhau diễu hành qua Hồng Trường trước Đài chủ tịch, trước Lăng Lê-nin. Dự xong lễ kỷ niệm, tôi được hướng dẫn đi xem chung bộ mặt hùng vĩ của thành phố Mạc Tư Khoa và một số nhà máy. Ban đêm, tôi được đưa đi xem các tiết mục văn nghệ như ca kịch, xiếc, múa rối v.v… Trước kia thường nghe nói Liên Xô là Tổ quốc của giai cấp vô sản thế giới, là ngọn đèn pha soi đường cho các dân tộc bị áp bức tiến lên, thì chuyến này thật sự được chứng kiến rõ ràng, càng làm cho lòng tin tưởng đối với tiền đồ cách mạng thêm vững chắc. Những cái được trông thấy và được hiểu biết về Liên Xô, có thể hình dung bằng hai tiếng “Vĩ đại! Vĩ đại!”.

°

Để chuẩn bị cho việc đi dự lễ Quốc khánh Tiệp Khắc, tôi đến gặp các đồng chí Sứ quán Trung Quốc ở Mạc Tư Khoa để tìm hiểu cách thức và nhờ giúp một số việc. Lần này đến Sứ quán, được đồng chí Đại sứ Vương Giá Tường tiếp đón niềm nở và thân mật. Đồng chí nói: Cuối năm ngoái, đồng chí đến Sứ quán chúng tôi chưa biết là ai. Nay được biết đồng chí là một cốt cán cách mạng Việt Nam, lại được đồng chí đến thăm Sứ quán, chúng tôi rất phấn khởi. Đồng chí Vương Giá Tường thuật lại cho biết đầu năm nay, trong dịp Hồ Chủ tịch gặp đồng chí Sta-lin, đồng chí cũng có tham gia. Đồng chí Sta-lin rất quan tâm dến cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống Pháp, và phân công việc viện trợ Việt Nam cho chúng tôi (Trung Quốc) là người phụ trách chính. Chúng tôi nhất định sẽ hết sức giúp đỡ Việt Nam và tin chắc rằng cuộc kháng chiến của Việt Nam nhất định sẽ đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Tôi nói, lần này tôi đến Sứ quán là cốt để tỏ tình hữu nghị của nhân dân Việt Nam đối với nhân dân Trung Quốc, đồng thời trong việc đi dự lễ Quốc khánh Tiệp Khắc có một số việc thuộc về lễ tiết tôi không biết, muốn được sự chỉ giáo của các đồng chí. Nghe nói trong lễ Quốc khánh, đại biểu các nước đều có đọc lời chúc mừng. Tôi đã dự thảo lời chúc mừng và đã dịch sẵn ra tiếng Trung Quốc để nhờ các đồng chí sửa chữa lại cho đúng cách thức, đồng thời nhờ các đồng chí giúp dịch ra tiếng Pháp và đánh máy cho một bản tử tế đễ lúc đến Tiệp, đưa cho Ban tổ chức Quốc khánh Tiệp dịch ra tiếng Tiệp và đọc trong buổi lễ.
Đồng chí Vương Giá Tường cầm lấy bản dịch chữ Trung Quốc xem và nói: Viết như thế này là được rồi, không phải sửa chữa gì nữa, để chúng tôi sẽ địch và đánh máy ra chữ Pháp một bản cho đồng chí dùng. Về chữ Pháp ở Sứ quán chúng tôi không có người giỏi lắm, nhưng cũng tạm dịch được.
Chuyện trò xong, đồng chí Vương Giá Tường đề nghị sẽ tổ chức cuộc gặp mặt với một số cán bộ cốt cán của Sứ quán để nghe tôi giới thiệu về tình hình Việt Nam. Tôi nhận lời. Buổi gặp mặt và giới thiệu được tổ chức ngay sau đó chỉ độ mười lăm phút. Tự nhiên đây là một dịp tốt để tôi giới thiệu về quan hệ khăng khít giữa cách mạng hai nước từ khi có Đảng cộng sản Trung Quốc, về tình hình sau Cách mạng Tháng Tám và tình hình cuộc kháng chiến chống Pháp trong lúc đó. Tiếp theo buổi nói chuyện là một bữa tiệc thân mật hết sức vui vẻ. Tiệc xong, Đại sứ Vương Giá Tường đưa bản dịch chữ Pháp đã đánh máy chỉnh tề cho tôi và chúc cuộc đi thăm Tiệp Khắc sẽ thành công tốt đẹp.
Việc gặp Sứ quán Trung Quốc như vậy là đạt kết quả mong muốn. Ngày hôm sau tôi lên máy bay đi Tiệp, Sứ quán Trung Quốc còn cử người đi tiễn chân ở sân bay Mạc Tư Khoa.
Dự lễ Quốc khánh Tiệp Khắc là một việc cực kỳ quan trọng trong đời tôi và cũng là việc quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Lần đầu tiên Đại biểu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dự lễ Quốc khánh, lế kỷ niệm long trọng nhất của một nước bạn, có dịp tiếp xúc với những nhân vật quan trọng, những người đồng chí cách mạng của các nước anh em, được chứng kiến sự trọng thị của các nước đối với Việt Nam, được đứng trên Đài chủ tịch kiểm duyệt cuộc duyệt binh và cuộc diễu hành của hàng chục vạn quần chúng. Đó không phải là sự hãnh diện của cá nhân, mà là sự hãnh diện của cả một dân tộc dưới sự cai trị của đế quốc gần một thế kỷ, nay trở thành một dân tộc độc lập, có một địa vị hẳn hoi trên trường quốc tế.
Lễ kỷ niệm được tổ chức hết sức ngăn nắp và chu đáo. Việc nào ra việc ấy, khớp nhau rất nhịp nhàng không có một chút gì là cập rập lộn xộn. Một việc đặc biệt còn mãi trong trí nhớ của tôi là khi tôi ở khách sạn, chỗ chiêu đãi quốc tế của Chính phủ Tiệp trong dịp Quốc khánh, một chị phục vụ phụ trách việc trật tự trong phòng và phục vụ khách một cách hết sức thân mật và chu đáo. Lúc đầu mình cứ tưởng chị ta là một người phục vụ thông thường như ở các khách sạn khác, không ngờ khi Quốc khánh xong, khách và chủ cùng liên hoan với nhau, thì mới biết đó là một sinh viên năm thứ năm trường Đại học luật! Thông thường thì một sinh viên đại học như thế ở Việt Nam hoặc ở một nước nào khác thì không bao giờ chịu làm một người phục vụ như thế, nhưng ở đây thì bản thân người phục vụ đó lại xem là một vinh dự được phục vụ bạn quốc tế trong dịp Quốc khánh. Đó là một việc mà tôi cho là phải học tập, mà khi về nước báo cáo với Trung ương hoặc chuyện trò với cán bộ tôi thường nhắc đến.
Theo sự giới thiệu của các bạn cùng dự lễ Quốc khánh, thì Tiệp Khắc không phải là một nước lớn ở châu Âu, nhưng đời sống vật chất của nhân dân thì xếp vào bậc thứ hai trên thế giới [7]. Thành phố Pra-ha không đồ sộ như Mạc Tư Khoa, nhưng là một thành phố lâu đời rất xinh đẹp và rất sạch sẽ, trên đường phố không có một mảnh giấy vụn hay một mẩu thuốc lá vút bừa bãi như các thành phố châu Á mà tôi thường trông thấy.
Có thể nói dịp tham gia lễ Quốc khánh Tiệp Khắc là một dịp để hiểu biết được cái nền văn minh vật chất của châu Âu.
Xong lễ kỷ niệm Quốc khánh rồi, tôi còn ở lại Pra-ha hơn một tuần để gặp Ban liên lạc Trung ương Đảng Cộng sản Tiệp Khắc để giới thiệu tình hình Việt Nam và bàn một số công việc như nhờ Trung ương Đảng Tiệp giúp đỡ những cán bộ Việt Nam từ Pháp về, giúp phương tiện cho nhập cảnh, quá cảnh, trường hợp cần thiết thì yêu cầu giúp cả về lộ phí.
Lần này tôi đến Tiệp, Trần Ngọc Danh đang chữa bệnh ở Xlô-vác có về Pra-ha thăm tôi rồi lại đi Xlô-vác. Còn Lê Hy thì thường đi với tôi trong những lúc đi dạo phố và là người phiên dịch. Lúc rời Tiệp về Bắc Kinh, tôi cũng xếp cho Lê Hy cùng về, còn Trần Ngọc Danh thì vẫn ở Tiệp tiếp tục chữa bệnh một thời gian rồi sẽ về nước.
II. Mối tình thắm thiết Việt–Hoa
Trong thời gian tám năm làm Đại sứ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Trung Quốc và Đại biểu Trung ương Đảng Việt Nam bên cạnh Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, một việc không bao giờ phai nhạt trong trí nhớ của tôi là mối tình thắm thiết Việt – Hoa, là sự giúp đỡ cực kỳ to lớn có tính chất quyết định đưa cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam hoàn toàn thắng lợi.
Là một người chứng kiến lịch sử, tôi thấy mình có trách nhiệm ghi lại và tóm tắt sự giúp đỡ đầy tinh thần quốc tế vô sản của Trung Quốc đối với Việt Nam, để nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới quan niệm được sự quan trọng của nó.
Sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với Việt Nam có thể trình bày vắn tắt qua bốn mặt như sau:
1. Sự ủng hộ của Trung Quốc về mặt chính trị và ngoại giao
Từ tháng 12-1946 toàn dân Việt Nam đứng lên kháng chiến chống Pháp, tuy đã bước vào giai đoạn cầm cự, nhưng vẫn chưa có một nước nào trên thế giới thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chỉ sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập được hơn ba tháng, thì ngày 18-1-1950 Chính phủ Trung Quốc chính thức tuyên bố thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tiếp theo Chính phủ Trung Quốc, ngày 30-1-1950, Liên Xô cũng tuyên bố thừa nhận, và tiếp theo Chính phủ Liên Xô, Chính phủ các nước dân chủ nhân dân ở Đông Âu và Triều Tiên, Mông Cổ ở châu Á liên tiếp thừa nhận. Các nước khác ở châu Á như Ấn Độ, Miến Điện Pa-ki-xtan tuy chưa chính thức công bố thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng đều tỏ vẻ đồng tình và hữu nghị rõ rệt.
Việc Trung Quốc dẫn đầu phe xã hội chủ nghĩa thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm cho Việt Nam có một địa vị vững chắc trên trường quốc tế. Đó là một việc cực kỳ quan trọng trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam. Vì vậy, chúng ta đã lấy ngày 18 tháng Giêng làm “Ngày thắng lợi ngoại giao”, và hằng năm cứ đến ngày đó là tổ chức kỷ niệm long trọng.
  • Tại hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954, Trung Quốc hoàn toàn ủng hộ lập trường của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đồng chí Chu Ân Lai, Trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc hợp tác chặt chẽ với đồng chí Mô-lô-tốp, Trưởng đoàn đại biểu Liên Xô cùng với đoàn đại biểu Việt Nam, phá tan âm mưu phá hoại hội nghị của Mỹ, đi đến kết quả miền Bắc Việt Nam hoàn toàn giải phóng, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trở thành một nước có thủ đô, có hải cảng, có địa vị Quốc tế, đủ điều kiện làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất Tổ quốc. Tình hình phát triển của lịch sử đã chứng tỏ Hiệp đinh Giơ-ne-vơ là một thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam, vì có miền Bắc vững mạnh làm cơ sở, thì mới đẩy mạnh được cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam. Sự cống hiện của Trung Quốc trong cuộc hội nghị cũng như sự giúp đỡ trên chiến trường Việt Nam đã có tác dụng làm thay đổi cán cân lực lượng, buộc đế quốc Pháp phải hoàn toàn rút khỏi miền Bắc nước Việt Nam và thừa nhận chủ quyền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
  • Đi đôi với việc tích cực giúp đỡ Việt Nam khôi phục và phát triển kinh tế ở miền Bắc, Trung Quốc còn kiên quyết ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam Việt Nam với quyết tâm và lời lẽ đanh thép như “Trung Quốc sẽ dành cho nhân dân miền Nam Việt Nam mọi sự viện trợ cần thiết về vật chất, và để chuẩn bị sẵn sàng, một khi nhân dân miền Nam Việt Nam cần đến, sẽ cử người sang kề vai sát cánh cùng chiến đấu với nhân dân miền Nam Việt Nam”. Ở Trung Quốc, đài phát thanh và các báo chí thường xuyên đưa tin về cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam Việt Nam, ra nhiều sách và tranh ảnh xây dựng thành nhiều tác phẩm văn nghệ như kịch múa “Lửa hận rừng dừa”, ….để tranh thủ nhân dân thế giới đồng tình và ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam Việt Nam.
  • Sau khi đế quốc Mỹ ném bom ở miền Bắc từ tháng 8 năm 1964, Trung Quốc đã dấy lên một cao trào mới giúp Việt Nam chống Mỹ. Chúng ta còn nhớ rõ cảnh tượng hàng trăm triệu nhân dân các tỉnh của Trung Quốc đã đổ ra đường phố biểu tình ủng hộ Việt Nam, Mao Chủ tịch và Thủ tướng Chu Ân Lai đích thân tham dự cuộc mít tinh của hơn một triệu người ở Bắc Kinh, và nghiêm trang tuyên bố: Sự xâm phạm của Mỹ đối với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tức là sự xâm phạm đối với Trung Quốc và nhân dân Trung Quốc sẽ áp dụng mọi biện pháp cần thiết, thậm chí không tiếc chịu đựng một sự hy sinh dân tộc lớn nhất, dốc toàn lực ủng hộ nhân dân Việt Nam tiến hành đến cùng cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước.
Sự thực lịch sử đã chứng tỏ, sự ủng hộ mạnh mẽ của Trung Quốc có một tác dụng hết sức quan trọng trong việc ngăn chặn đế quốc Mỹ đang muốn trực tiếp tiến công vào miền Bắc Việt Nam.
2. Sự giúp đỡ của Trung Quốc về mặt vật chất trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng kinh tế ở miền Bắc Việt Nam
Chính phủ Trung Quốc đã từng tuyên bố, “bảy trăm triệu nhân dân Trung Quốc là hậu thuẫn vững mạnh của nhân dân Việt Nam, đất nước bao la của Trung Quốc là hậu phương chắc chắn của Việt Nam”. Đây không phải chỉ là lời nói mà sự thực cũng đúng như vậy. Từ năm 1950 đến năm 1978, tổng số viện trợ của Trung Quốc dành cho Việt Nam trị giá hơn hai mươi tỷ đô-la Mỹ, chiếm 41% tổng số viện trợ của Trung Quốc cho nước ngoài. Trong thời kỳ chống Pháp từ năm 1950 đến năm 1954, Trung Quốc là nước duy nhất viện trợ quân sự cho Việt Nam. Toàn bộ vũ khí, đạn dược và quân trang, quân dụng của quân đội Việt Nam là do Trung Quốc trực tiếp cung cấp theo dự trù hàng năm và nhu cầu của các chiến dịch ở Việt Nam. Trong thời kỳ chống Mỹ, phần lớn vũ khí đạn dược và quân trang, quân dụng cũng do Trung Quốc cung cấp, gồm quần áo, thuốc men, y cụ và nhiều đại bác, xe tăng, thiết giáp, cao xạ, tên lửa, máy bay, tàu chiến, cùng các phụ tùng thay thế và dầu mỡ v.v… đủ trang bị cho hơn hai triệu quân đội Việt Nam và thường xuyên cung cấp đủ số đạn được và trang bị cần thiết cho việc tác chiến liên tục trên các chiến trường.
  • Về mặt giúp đỡ Việt Nam khôi phục và xây dựng kinh tế ở miền Bắc, ngay sau khi hòa bình được lập lại năm 1954, theo yêu cầu của Hồ Chủ tịch, Trung Quốc đã giúp Việt Nam lập tức khôi phục lại đường sắt từ Hà Nội đến Đồng Đăng dài chừng 200 cây số đã bị phá hoại hoàn toàn trong chiến tranh. Lúc đó, Trung Quốc chưa sản xuất được loại đường ray hẹp, Mao Chủ tịch liền quyết định tháo dỡ đường ray của đường sắt Đồng Bồ ở tỉnh Sơn Tây Trung Quốc [8] để lắp cho đường sắt Việt Nam, đồng thời trang bị đủ toàn bộ đầu máy và toa tàu. Với sự giúp đỡ của các nhân viên kỹ thuật và công nhân Trung Quốc, chỉ trong bốn tháng là quãng đường sắt ấy đã làm xong, “làm cho nước ta càng gần gũi Trung Quốc, Liên Xô và các nước bạn khác. Nó nối liền Hà Nội với Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và các thủ đô khác cho đến Béc-lanh” (lời Hồ Chủ Tịch). Tiếp đó, Trung Quốc bắt đầu giúp Việt Nam xây dựng một nền kinh tế tương đối toàn diện để làm cơ sở vật chất thực hiện tự lực cánh sinh.
  • Từ năm 1954, Trung Quốc giúp Việt Nam xây dựng 450 hạng mục, đến tháng 3 năm 1978 đã hoàn thành 339 hạng mục, gồm những công trình như nhà máy xay, nhà máy đường, nhà máy dệt, nhà máy dệt kim, nhà máy giấy, nhà máy phát diện, nhà máy hóa chất, nhà máy cao su, nhà máy xà phòng, nhà máy thuốc lá, nhà máy diêm, nhà máy bóng đèn phích nước, nhà máy tráng men, nhà máy làm đồ sứ, nhà máy văn phòng phẩm Hồng Hà, nhà máy mì chính, nhà máy phân hóa học, nhà máy thuốc trừ sâu, xưởng đóng tàu, nhà máy gang thép Thái Nguyên, thiết bị mỏ quặng, hệ thống vô tuyến điện, nông trường quốc doanh, trường kỹ thuật nông nghịệp, và tiếp tục làm lại đường sắt từ Hà Nội đến Lào Cai, đến Thái Nguyên, xây lại cầu Hàm Rồng v.v… Tất cả những hạng mục do Trung Quốc giúp Việt Nam đã đáp ứng một cách rất thiết thực yêu cầu của nền kinh tế Việt Nam và của đời sống nhân dân Việt Nam. Đến sau năm 1965, khi máy bay Mỹ bắn phá miền Bắc, Trung Quốc lại đáp ứng yêu cầu của Chính phủ Việt Nam, cử nhiều đoàn chuyên gia và nhân viên kỹ thuật sang giúp Việt Nam tháo dỡ các thiết bị máy móc của mấy chục cơ sở công nghiệp do Trung Quốc viện trợ để sơ tán đến những nơi an toàn, khỏi bị máy bay Mỹ tàn phá.
  • Về các loại hàng hóa dùng để chi viện tiền tuyến và giải quyết đời sống cho nhân dân, riêng từ năm 1965 đến năm 1975 Trung Quốc đã viện trợ hơn năm triệu tấn lương thực, hơn ba trăm triệu mét vải, hơn ba vạn chiếc ô tô, hơn sáu trăm tàu thủy đủ các loại, hơn một trăm đầu máy và hơn bốn nghìn toa xe lửa, gần hai triệu tấn xăng, và các thứ hàng dệt và bách hóa trị giá bảy trăm triệu đồng nhân dân tệ.
Một khoản viện trợ quý giá đặc biệt là từ năm 1955 đến năm 1976, Trung Quốc đã giúp cho Việt Nam hơn sáu trăm triệu tiền mặt Mỹ kim để Việt Nam sử dụng cơ động vào cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam trong khi Trung Quốc cũng rất cần ngoại tệ để xây dựng đất nước.
3. Cử cố vấn, chuyên gia, nhân viên kỹ thuật và bộ đội Trung Quốc sang giúp Việt Nam
Từ năm 1950 trở đi, nhiệm vụ khẩn cấp của Việt Nam là đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi. Theo yêu cầu của Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng Việt Nam, Trung Quốc đã cử Đoàn cố vấn quân sự và Đoàn cố vấn chính trị sang giúp Việt Nam.
  • Nhiệm vụ của Đoàn cố vấn quân sự do đồng chí Vi Quốc Thanh dẫn đầu và giúp Việt Nam xây dựng quân đội và phổ biến kinh nghiệm tác chiến. Ngoài việc giúp Tổng quân ủy Việt Nam ra, còn có các tổ cố vấn về tham mưu, chính trị hậu cần, giúp các đại đoàn [9] chủ lực 308, 312, 316, 304 và các Binh chủng khác. Qua sự giúp đỡ của các cố vấn Trung Quốc kết hợp với sự cố gắng vượt bậc của bản thân quân đội Việt Nam, ta đã xây dựng thành công một đội quân chủ lực gồm mấy sư đoàn dã chiến, có khả năng tiêu diệt từng bộ phận sinh lực quan trọng của địch và thực tế đã chiến thắng quân địch trong các chiến dịch từ chiến dịch Biên Giới (cuối năm 1950) cho đến chiến dịch Điện Biên Phủ (năm 1954), đi đến giải phóng toàn bộ miền Bắc Việt Nam.
  • Nhiệm vụ của Đoàn cố vấn chính trị do đồng chí La Quý Ba đứng đầu là góp ý kiến với Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về chính sách và công tác cụ thể của các ngành để xây dựng khu giải phóng vững mạnh đủ sức chi viện tiền tuyền. Ngoài việc đồng chí Trưởng đoàn cố vấn thường xuyên trao đổi ý kiến với Bộ Chính trị Trung ương Đảng, còn có các tổ cố vấn giúp các ngành tài chính, thuế, ngân hàng giao thông vận tải, công an, tình báo, v.v… Các cố vấn Trung Quốc đã cùng cán bộ Việt Nam xây dựng nên phương châm chính sách bộ máy tổ chức, chế độ công tác và cách thức làm việc cho các ngành, bồi dưỡng được nhiều cán bộ có trình độ chính trị và chuyên môn để thúc đẩy mọi công tác tiến lên. Đến năm 1955, khi miền Bắc Việt Nam đã được hoàn toàn giải phóng, theo đề nghị của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đoàn cố vấn chính trị mới toàn bộ rời Việt Nam về nước [10]. Đồng chí La Quý Ba được ủy nhiệm làm Đại sứ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam.
  • Từ năm 1954 đến năm 1978, khi hòa bình được lập lại ở Việt Nam sau Hội nghị Giơ-ne-vơ, nhiệm vụ khẩn cấp ở miền Bắc là khôi phục nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá và xây dựng nền móng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc làm cơ sở thực hiện thống nhất Tổ quốc. Để xây đựng các hạng mục công nông nghiệp do Trung Quốc viện trợ, nhiều Đoàn chuyên gia trung Quốc của các ngành được lần lượt cử sang Việt Nam, do đồng chí Phương Nghị làm Trưởng đoàn chuyên gia [11].
    Các chuyên gia đó làm việc rất tận tụy, được các cán bộ, công nhân viên Việt Nam hết sức mến phục. Đến năm 1978, khi bọn Lê Duẩn ráo riết chống Trung Quốc, Chính phủ Trung Quốc mới quyết định rút toàn bộ chuyên gia về nước.
  • Một điều cần nói rõ là, cố vấn hoặc chuyên gia Trung Quốc công tác ở Việt Nam, phía Việt Nam chỉ phải cung cấp cơm ăn, nhà ở và phương tiện giao thông, còn tiền lương, tiền trợ cấp và các khoản chi tiêu khác đều do phía Trung Quốc tự giải quyết.
    Đó chẳng những cũng là một khoản viện trợ lớn, mà còn là một thái độ chính trị rõ rằng cán bộ Trung Quốc công tác ở Việt Nam cũng chỉ bình thường như cán bộ Việt Nam, không có một sự ưu việt nào trong đời sống. Theo thống kê chưa đầy đủ, thì số cố vấn, chuyên gia và nhân viên kỹ thuật của Trung Quốc sang giúp Việt Nam từ năm 1950 đến năm 1978, tổng số có đến 20.000 người. Hồ Chủ tịch đánh giá rất cao sự cống hiến các cố vấn, chuyên gia và nhân viên kỹ thuật Trung Quốc. Người từng nói, “Bác tuyệt đối tín nhiệm các cố vấn Trung Quốc”, Người đã từng đích thân tặng huân chương cao nhất của nước Việt Nam cho các đồng chí Trưởng đoàn cố vấn chuyên gia. Chính phủ và Tổng quân ủy Việt Nam cũng tặng nhiều huân chương cho các đồng chí Trung Quốc để tuyên dương công lao của các đồng chí đó trong công cuộc kháng chiến và kiến thiết của Việt Nam.
  • Từ năm 1965 đến năm 1970, khi đế quốc Mỹ điên cuồng bắn phá miền Bắc, theo yêu cầu của Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Mao Chủ tịch và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã phái hơn ba mươi vạn bộ đội Trung Quốc gồm phòng không, công trình, đường sắt và hậu cần, mang theo toàn bộ vũ khí, trang bị, phương tiện, máy móc và vật liệu sang giúp Việt Nam, và đã hoàn thành được những nhiệm vụ quan trọng như đắp được 1.231 cây số đường ô tô, 476 cây số đường sắt, xây thành sân bay Yên Bái v.v… Đồng thời với việc hoàn thành nhiệm vụ xây dựng, các đồng chí còn bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, cùng quân dân Việt Nam bảo vệ được các đường giao thông từ Bắc vào Nam. Ở những nơi đóng quân, các đồng chí Trung Quốc còn tích cực giúp nhân dân địa phương sơ tán người già, trẻ con, đào hầm hố phòng không, cứu chữa những người bị bệnh, bị thương v.v…gây thêm được mối tình thắm thiết giữa nhân dân hai nước Việt - Trung. Trong khi làm nhiệm vụ quốc tế, hơn một nghìn đồng chí Trung Quốc đã bị hy sinh và hơn ba nghìn đã bị thương trên đất Việt Nam. Đến tháng 7 năm 1970, khi làm xong nhiệm vụ, toàn thể bộ đội đó đã trở về Trung Quốc. Sự có mặt của bộ đội Trung Quốc ở Việt Nam còn có một ý nghĩa hết sức quan trọng là làm cho đế quốc Mỹ không dám đưa quân trực tiếp đụng đến đất đai miền Bắc, để quân dân ta có điều kiện dốc sức vào cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam.
4 - Ngoài những mặt nói trên, Trung Quốc còn thật sự là hậu phương vững chắc của Việt Nam
Dưới sự bắn phá của máy bay Mỹ, giao thông vận tải là một vấn đề rất khó giải quyết. Trung Quốc đã tìm đủ trăm phương ngàn kế giúp ta giải quyết vấn đề này một cách có hiệu quả, như giúp ta đặt đường ống dẫn dầu dài chừng 4.000 cây số để đưa dầu Trung Quốc đến tận miền Nam Việt Nam. Bắt đầu từ năm 1967, Trung Quốc điều động 500 chiếc xe vận tải trực tiếp chuyển hàng vào Việt Nam. Sau khi cảng Hai Phòng bị Mỹ thả thủy lôi phong tỏa, Trung Quốc lại điều động thêm 2.200 chiếc xe vận tải chia ra năm đường chở các hàng viện trợ vào trong nội địa Việt Nam.
Về đường biển, sau năm 1965, Trung Quốc đã mở một đường bí mật cho tàu đi theo bờ biển chở hàng viện trợ đến mấy hòn đảo nhỏ ở Trung bộ để tiện cho Việt Nam chuyển vào miền Nam. Trung Quốc còn dành hai cửa biển ở đảo Hải Nam để Việt Nam dùng làm trạm chuyển tiếp vật tư vào Nam.
Một điều có tầm quan trọng đặc biệt là trung Quốc đã bỏ ra nhiều ngoại tệ mở một con đường qua Cam-pu-chia đến tận Nam bộ để chở hàng viện trợ của Trung Quốc như vũ khí, đạn được, lương thực, thuốc men thẳng đến cho Quân giải phóng miền Nam.
Trung Quốc còn thường xuyên giúp vận chuyển các hàng viện trợ của Liên Xô và các nước khác quá cảnh Trung Quốc sang Việt Nam và không lấy tiền cước đối với toàn bộ hàng viện trợ quân sự.
Một điều quan trọng nữa là Trung Quốc còn để cho Việt Nam sử dụng đất đai của mình làm địa bàn hoạt động và cung cấp cho các thiết bị như:
  • Trong thời kỳ chống Pháp, Trường lục quân của Việt Nam được đặt ở tỉnh Vân Nam do thiếu tướng Trần Tử Bình và thiếu tướng Lê Thiết Hùng phụ trách, để huấn luyện cán bộ quân sự với sự giúp đỡ của một số huấn luyện viên Trung Quốc.
    Trước chiến dịch Biên Giới, một số bộ đội chủ lực mới được xây dựng như Đại đoàn quân tiên phong [12] v.v… trực tiếp kéo sang Trung Quốc nhận toàn bộ vũ khí trang bị rồi về nước tác chiến ở biên giới.
  • Trong thời kỳ chống Mỹ, các phi đoàn của không quân Việt Nam từng sang huấn luyện, ẩn náu và hoạt động ở sân bay tỉnh Vân Nam trong khi sân bay Việt Nam bị máy bay Mỹ uy hiếp.
    Xây dựng một đài phát thanh dự bị cho Việt Nam ở Tỉnh Vân Nam. Khi Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam bị máy bay Mỹ ném bom tối 18-12-1972 ớ Hà Nội, thì chỉ sau chín phút, Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam ở Vân Nam đã thay Đài tiếng nói Việt Nam ở trong nước tiếp tục phát thanh, thông báo kịp thời tin thắng lợi cho nhân dân cả nước.
    Ở Quế Lâm thuộc Quảng Tây có bệnh viện Nam Khê Sơn gồm 600 giường bệnh dành riêng cho các bệnh nhân Việt Nam. Trong thời gian bảy năm, đã có hơn 5.000 cán bộ Việt Nam đến đó điều trị. Sau đó, toàn bộ thiết bị của bệnh viện đã giao lại cho Việt Nam mang về nước. Cũng ở Quế Lâm, còn có Trường thiếu niên Việt Nam chủ yếu dạy con em liệt sĩ và học sinh miền Nam tập kết.
    Ngoài ra, Hội chợ Quảng Châu còn dành riêng một phòng triển lãm cho Việt Nam, để giúp Việt Nam tiêu thụ các thứ hàng hóa ra nước ngoài. Trung Quốc còn giúp Việt Nam in các loại sách báo, tranh ảnh, từ điển, sách giáo khoa v.v…
Thủ tướng Chu Ân Lai thường dạy các đồng chí Trung Quốc phụ trách công tác viện trợ phải “luôn luôn nghĩ như nhân dân Việt Nam nghĩ, và làm gấp những việc nhân dân Việt Nam cần gầp”. Tinh thần của Trung Quốc giúp đỡ Việt Nam là: Bớt ăn, bớt mặc, bớt dùng, ưu tiên cung cấp cho Việt Nam những hàng hóa và thiết bị có chất lượng tốt và phải tìm trăm phương ngàn kế, kể cả đi mua sắm ở nước ngoài để giúp cho Việt Nam các hàng cần thiết với tinh thần không kêu khổ, không tuyên truyền, làm nghĩa vụ quốc tế của mình một cách thầm lặng. Theo chỉ thị của Thủ tướng Chu Ân Lai, đồng chí Lý Cường, Bộ trưởng Bộ Ngoại thương Trung Quốc từng đích thân đến tận con đường Trường Sơn xem xét tình hình vận chuyển hàng viện trợ vào Nam dưới sự bắn phá dữ dội của máy bay Mỹ. Hồ Chủ tịch đã từng hình dung sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với Việt Nam là khảng khái, vô tư, hết sức to lớn và có hiệu quả. Người nói: “Tinh thần quốc tế cao cả đó và tình thân ái của nhân dân Trung Quốc đối với nhân dân Việt Nam làm chúng ta rất cảm động và biết ơn”.
Sự thực lịch sử trong hai mươi tám năm (1950-1978) Trung Quốc viện trợ Việt Nam đã chứng tỏ rằng: Sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với Việt Nam là nhân tố quốc tế không thể thiếu được để nhân dân Việt Nam giành lấy thắng lợi trong cuộc cách mạng cũng như trong việc kiến thiết. Ngược lại, sự thật lịch sử trong mấy năm qua (1978-1986) cũng chứng tỏ rằng: Không có sự giúp đỡ của Trung Quốc thì Việt Nam đã lâm vào tình cảnh hết sức khó khăn bế tắc.
Việc ghi lại tóm tắt tình hình Trung Quốc giúp đỡ Việt Nam có nghĩa là ghi lại một trang sử quan trọng trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, một trang lịch sử đẹp đẽ nhất trong mối quan hệ vừa là đồng chí vừa là anh em giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Trung Quốc. Cố nhiên đối với sự giúp đỡ quan trọng về quân sự của Liên Xô như tên lửa, để ta có thể bắn rơi máy bay B-52 của Mỹ, sự giúp đỡ của Liên Xô trong việc xây dựng, cũng như sự giúp đỡ của các nước anh em khác, chúng ta cũng vẫn phải luôn luôn ghi nhớ và biết ơn.

[1]Thủ đô Tiệp
[2]một thành phố lớn của Ấn Độ
[3]tiền Ấn Độ
[4]Thủ đô Ý
[5]sau khi về nước, cả hai người đều bị Trung ương phê phán và khai trừ không thời hạn ra khỏi Đảng
[6]không ủng hộ Pháp chống Việt Nam
[7]bậc nhất là nhân dân Hà Lan
[8]cũng là đường ray hẹp
[9]sư đoàn
[10]Đoàn cố vấn quân sự cũng về nước
[11]sau đổi thành Phòng đại điện kinh tế của Trung Quốc ở Việt Nam
[12]Sư đoàn 308