Phần 9

7. Sài Gòn
Ta vẫn yêu em gọi tên em Sài Gòn,
Dù đời nay đã đổi trắng thay đen
Vẫn nhớ em xưa trong tà áo trắng
Và tên từng con đường
Nhớ những chiều hóng mát công viên..
...............................
Sài Gòn ơi.. ta nhớ em thật nhiều..
Nhớ em nhớ tới những đêm hẹn hò
Nhớ Sài Gòn đêm khuya màu hồng
Đường về nhà em
Cơn mưa về sáng
Đèn đường mờ soi
Chân khuya tìm lối
Nhớ em nhớ xưa
Vui trong chiều mưa…
................
Đó là một phần lời trong bài hát "Người Yêu Sài Gòn", mà tôi đã viết cách đây cả chục năm, để nhớ về Sài Gòn. Hôm nay tôi lại bồi hồi trở lại đặt chân trên thành phố thân yêu, sau bao năm xa cách. Từ trên phi cơ nhìn xuống, tôi đã thấy Sài Gòn một cách tổng quát. Sài Gòn vẫn đó nhưng với nhiều thay đổi. Không có ai đón chúng tôi tại phi trường, chúng tôi gọi taxi về thẳng nhà ông chú tại Quang Trung, Trung Chánh. Từ phi trường Tân Sơn Nhất, chiếc taxi chở chúng tôi qua Ngã Ba Chú Lá, Gò vấp, Hạnh Thông Tây, băng ngang qua trại Quang Trung về Trung Chánh. Hình ảnh đường xá và các khu phố trông thay đổi nhiều quá. Lưu lượng xe cộ lưu thông đông đúc hơn trước.
Khi ngang qua trại Quang Trung, bây giờ nghe nói được dùng làm khu hội chợ, nhắc tôi bao kỷ niệm xưa. Có ít nhất hai lần, tôi đã về thụ huấn khóa quân sự tại trại này. Bây giờ trông lạ quá. Tới Trung Chánh khoảng 6 giờ chiều, Ông chú ruột của tôi đã vui mừng đón tôi với ngấn lệ rưng rưng mừng tủi. Chú tôi năm nay đã 86 tuổi, nhưng trông ông vẫn còn mạnh khoẻ. Nói đến ông giáo Quang thì gần như ai ở Trung Chánh cũng biết. Riêng cá nhân tôi cũng đã có thời là học trò của ông. Ngoài ra, tôi coi ông như là một người cha, và ngược lại ông cũng quí mến tôi như đứa con ruột. Trong mấy ngày liền, ông nói với tôi nhiều lần rằng mấy hôm nay ông rất vui vì có tôi về. Tối hôm đó, ông chú đã khoản đãi chúng tôi bữa cơm gọi là " bữa cơm chú cháu đoàn tụ". Hiện diện trong bữa tiệc ấy có chú Ngân, anh ruột ông giáo Quang, và vài người bà con từ Cái Sắn lên. Bữa tiệc rộn rã với những tiếng hàn huyên vui vẻ, bất tận. Chúng tôi lưu lại Trung Chánh thời gian gần 3 tuần lễ. Từ nơi này rất gần Sài Gòn, rất tiện cho chúng tôi đi đi về về. Cũng nhờ vậy mà chúng tôi biết rõ được một số sinh hoạt của dân chúng. Dân số Trung Chánh quá đông so với trước năm 1975. Đa số sống nhờ vào các xí nghiệp của ngoại quốc hoạc những công nghiệp trong vùng. Có vài lần chúng tôi từ Sài Gòn về Trung Chánh nhằm vào lúc tan sở của các xí nghiệp, các công nhân trong bộ đồng phục đổ xô ra đường phố đông như kiến cỏ, không còn chỗ cho xe chạy. Phần lớn họ là những cô gái còn rất trẻ, tuổi khoảng từ 16 đến 22 chi đó. Bác tài xế cho hay lương ngày của họ khoảng từ 1.50 đến 2.00 đô la Mỹ. Như vậy cũng là may lắm rồi. Có nhiều người chạy tới chạy lui mà cũng không ra việc làm.
8. Vũng Tàu
Chúng tôi đi Vũng Tàu bằng chiếc xe du lịch, hiệu Toyota bốn chỗ ngồi, vừa đi vừa về, trong hai ngày, một đêm, với giá năm trăm ngàn đồng VN. Đường đi Vũng Tàu mới được ngoại quốc đầu tư kiến thiết, tình trạng rất tốt, êm giống như bên Mỹ vậy. Sau hai giờ chạy liên tục, chiếc Toyota đã tới thị xã Vũng Tàu. Quang cảnh Vũng Tàu thay đổi rất nhiều. Đường xá được mở rộng và có nhiều kiến trúc mới. Chúng tôi phải mất hàng giờ mới tìm ra nhà người quen. Đêm đó chúng tôi ngủ qua đêm tại nhà bà chị họ. Sang ngày thứ hai, chúng tôi mới đi tham quan thắng cảnh Vũng Tàu. Mới tờ mờ sáng, khoảng 5:30 sáng, tôi đã dậy và hồ hởi đi quay cảnh hừng đông trên biển. Từ giáo xứ Sao Mai ngó ra biển, xa xa về phía Sài Gòn, ta có thể nhìn thấy quận Cần Giờ mờ mờ trong sương buổi sáng, đẹp như một bức tranh thủy mạc. Trước khi tham quan Bãi Dâu, chúng tôi ghé uống café buổi sáng tại một quán giải khát cạnh bờ biển, ngay trước cổng Bãi Dâu. Tại đây tôi đã quay phim được cảnh trời nước mênh mông của bãi trước Vũng Tàu. Bãi Dâu được kể là một trong những danh lam thắng cảnh đẹp nhất ở Vũng Tàu, có tượng đài Đức Mẹ cao khoảng 32 mét nằm tuốt trên đỉnh núi. Lúc đầu, tôi đã tưởng không có khả năng trèo lên tới đó, nhưng rồi tôi đã cố gắng trèo theo mọi ngươì. Có lẽ nhờ đường mòn dẫn lên đến đỉnh quanh co, đồi dốc, qua những triền thoai thoải, nhờ vậy, chúng tôi đã qua được hết 14 chặng đường thánh giá nằm dọc trên lối đi, không mấy khó khăn. Trước khi xuống núi, tôi còn đủ hơi sức cất giọng hát lên vài ca khúc quê hương (mà tôi đã sáng tác trong chuyến du lịch này) để tặng các bạn trẻ từ Cà Mau cũng tới hành hương nơi đây, nghĩ lại thấy vui vui. Sau Bãi Dâu, chúng tôi yêu cầu bác tài cho xe đảo một vòng từ bãi trước ra bãi sau, ngang qua tượng đài Chúa Kitô Vua. Cuối cùng dừng lại rửa chân, thay vì tắm, nơi bãi sau để chứng tỏ là mình cũng đã tới Vũng Tàu. Nhân tham quan Bãi Dâu, chúng tôi được biết nhà dòng ở đây có nơi ăn chốn ở miễn phí cho khách hành hương tập thể. Cũng tại đây các nữ tu Trinh Vương có nhà trọ đủ tiện nghi, như máy lạnh và nước nóng, giá khoảng 10 đô la một đêm. Nghe nói, mấy sơ còn nấu cơm cho khách hành hương với giá phải chăng.