V. BÍ MẬT CỦA NGƯỜI CỰU NÔ LỆ
CHƯƠNG 45

     ười ngày sau cuộc họp với chủ tịch ngân hàng Sanford Gregory Hanson và luật sư của ông, Lincoln Rhyme đang có một cuộc trò chuyện qua điện thoại với chàng trai trẻ Ron Pulaski, vẫn đang được nghỉ để chữa trị nhưng sẽ trở lại công việc trong khoảng một tháng. Ký ức đã quay lại và cậu ấy đang giúp họ củng cố vụ án chống lại Thompson Boyd.
“Vậy anh sẽ đi đến bữa tiệc lễ Halloween chứ?”, Pulaski hỏi. Rồi dừng lại và nói thật nhanh: “Hay gì cũng được”. Hai từ cuối cùng để lấp liếm sự lỡ lời do việc gợi ý cho một người tàn tật hoàn toàn nên tham gia các buổi tiệc.
Nhưng Rhyme đã khiến cậu ta cảm thấy thoải mái hơn khi nói: “Tất nhiên là tôi sẽ đến. Giống như Glenn Cuimingham”.
Sachs bụm miệng cười.
“Thật chứ?”, chàng cảnh sát trẻ nói. “Ừm, chính xác thì đó là ai vậy?”
“Tại sao cậu không tra cứu đi, chàng cảnh sát?”
“Vâng, thưa ngài. Tôi sẽ làm.”
Rhyme ngắt máy và nhìn vào tấm bảng bằng chứng, ở trên cùng được dán lá bài thứ mười hai, Người treo ngược.
Anh nhìn chằm chằm vào lá bài cho đến lúc chuông cửa reo.
Hẳn là Lon Sellito. Anh được về sớm sau thời gian chữa trị. Anh ấy cũng đã không còn chà cái vệt máu vô hình và đang tập luyện vẽ nhanh hình nhóc Billy - mà vẫn chưa có ai giải thích cho Rhyme. Anh đã thử hỏi Sachs về điều đó nhưng cô không thể, hoặc sẽ không nói nhiều. Như thế cũng tốt. Đôi khi, Rhyme tin tưởng một cách kiên định rằng, ta chỉ đơn giản không cần phải biết hết mọi tình tiết.
Nhưng hóa ra, người khách đến lúc này, không phải là vị thanh tra nhàu nhĩ.
Rhyme nhìn ra cửa và thấy Geneva Settle đang đứng ở đó, nghiêng người dựa vào chiếc cặp sách. “Mời vào”, anh nói.
Sachs chào và bỏ chiếc kính bảo vệ đang đeo từ lúc phải điền vào các bản chứng thực bằng chứng hợp pháp cho các mẫu máu lấy được từ hiện trường vụ án mạng buổi sáng hôm đó.
Wesley Goades đã có đầy đue các giấy tờ và thủ tục pháp lý cần thiết để lập hồ sơ vụ kiện chống lại ngân hàng Sanford đồng thời báo cho Geneva rằng cô có thể yên tâm chờ một lời đề nghị thực tế hơn từ Hanson vào ngày thứ Hai. Nếu không, thì vị luật sư ‘tên lửa hành trình pháp lý’ cảnh báo đối thủ của mình rằng ông ta sẽ đưa hồ sơ kiện lên tòa án ngay ngày hôm sau. Một buổi họp báo sẽ đi kèm theo với sự kiện (Ý kiến của Goades là một sự quảng bá rầm rộ về những điều xấu sẽ tồn tại lâu đáng kể hơn so với ‘mười phút xấu xí’).
Rhyme nhìn cô bé. Một chiếc áo ấm không hợp thời làm cho cả một tay xã hội đen cũng phải đổ mồ hôi và chiếc mũ trùm trở nên không phù hợp, cô bé mặc một chiếc quần jeans màu xanh và chiếc áo phông không tay với dòng chữ Guess! lấp lánh chạy ngang trên ngực. Nhìn cô bé béo hơn một chút, tóc dài hơn. Cô thậm chí còn trang điểm chút ít (Rhyme đã tự hỏi cái gì ở trong chiếc túi mà Thom đã đưa cho cô một cách đầy bí mật vào ngày hôm đó). Nhìn cô bé khá ổn.
Cuộc sống cùa Geneva đã có được sự ổn định nhất định. Jax Jackson đã được ra viện và đang chạy vật lý trị liệu. Nhờ có sự tác động từ Sellito, anh ta đã chính thức thuộc sự quản lý của cơ quan chức trách ở New York. Geneva đang sống trong căn hộ nhỏ của Thom ở Harlem, một sự thỏa thuận không đến nỗi khốc liệt như cô dự đoán (cô bé đã thừa nhận là không phải vì Rhyme hay Roland Bell mà là vì Thom - người đã giúp đỡ và mời cô bé đến ngôi nhà của mình thường xuyên để dạy nấu ăn, xem TV, tranh cãi về sách vở và chính trị, không
có gì trong số này mà Rhyme thấy thích thú cả). Ngay khi họ có thể tậu được một căn nhà lớn hơn, cô và cha của mình sẽ mời bà cô Lilly đến ở cùng họ.
Cô bé đã bỏ công việc ở chỗ McHash và được về làm việc cùng với Wesley Goades với vai trò một người nghiên cứu và trợ lý hợp pháp. Cô cũng giúp ông dựng quỹ Charles Singleton, sẽ đưa tiền bồi thường tới những người thừa kế của người cựu nô lệ. Sự mong muốn rời khỏi thành phố ngay cơ hội đầu tiên để sống ở London hoặc Rome không hề giảm đi, nhưng những vụ việc mà Rhyme nghe lỏm được khi cô hóng chạy xuống cầu thang. Khựng lại ở tầng trệt, hắn rút khẩu súng ra khỏi túi và kiểm tra nó để bảo đảm rằng không có gì khác nằm ở trong nòng súng hay ổ đạn. Hắn tự hỏi rằng có phải chính nó - cái âm thanh mở và đóng lại ổ đạn trong thư viện - đã cảnh báo con bé rằng hắn là một mối đe dọa.
Giờ đây, dù cho không có ai ở gần, hắn vẫn kiểm tra khẩu súng, nhẹ nhàng và hoàn toàn không một tiếng động.
Học từ chính những lỗi của ta.
Theo quyển sách.
Khẩu súng sẵn sàng hoạt động. Giấu nó vào sau chiếc áo choàng, Thompson đi bộ xuống cái cầu thang tối tăm mờ ảo và cảm thấy hào hứng suốt dọc hành lang dài, ở trên phố 56, rồi bước vào một con hẻm đưa hắn trở lại bảo tàng.
Chẳng có ai canh chừng đường vào của đầu bên kia con hẻm ở phố 55. Không bị phát hiện, Thompson luồn nhanh tới một cái thùng rác méo mó màu xanh, đang tỏa ra cái mùi hôi thối khó chịu của thức ăn bị rữa. Hắn nhìn vào con phố. Nó đã được giải tỏa giao thông nhưng vẫn có hàng tá người từ các văn phòng và cửa hiệu gần đó trên vỉa hè, đợi xem có nhìn thấy một cái gì đó hay ho để kể lại với những người bạn đồng nghiệp và gia đình. Hầu hết các viên cảnh sát đã rời đi. Người phụ nữ trong trang phục màu trắng - con rắn với nụ hôn - vẫn ở trên tầng. Ở bên ngoài là hai xe cảnh sát và chiếc xe tải của đơn vị Khám nghiệm hiện trường, và ba cảnh sát đang mang sắc phục, hai người với bộ thường phục và một thanh tra béo ú, bù xù trong bộ quần áo nhàu nhĩ.
Thompson nắm khẩu súng một cách chắc chắn. Chĩa súng bắn là một cách rất không hiệu quả để giết một ai đó. Nhưng đôi khi, giống như lúc này chẳng hạn, ta sẽ chẳng có lựa chọn nào khác. Nếu như buộc phải bắn, nguyên tắc ta phải làm theo là nhắm vào đúng vị trí trái tim. Đừng bao giờ nhắm vào đầu. Xương sọ đủ cứng để bật viên đạn lại trong rất nhiều tình huống, đồng thời sọ não thì cũng khá là nhỏ và khó để mà bắn trúng.
Luôn luôn phải nhắm vào ngực.
Đôi mắt xanh sắc sảo của Thompson quan sát người cảnh sát to béo trong bộ quần áo nhàu nhĩ, khi ông ta đang nhìn vào một mẩu giấy.
Trầm lặng như một cánh rừng chết, Thompson gác khẩu súng lên cẳng tay trái, nhắm thật cẩn thận với một bàn tay chắc chắn. Hắn nổ nhanh bốn phát súng.
Viên đầu tiên trúng vào đùi của một người phụ nữ đang đứng trên vỉa hè.
Những viên còn lại trúng vào nạn nhân mà hắn nhắm tới ở chính vị trí mà hắn ngắm vào. Ba chấm nhỏ hiện ra ở giữa ngực ông ta; và trở thành ba bông hoa hồng bằng máu khi cái xác bắt đầu ngã xuống đất.
Có hai cô gái đứng ở phía trước anh và, mặc dù vẻ bề ngoài của họ hoàn toàn đối lập nhau, sự khác biệt trong ánh mắt của họ là điều mà Lincoln Rhyme nhận thấy đầu tiên.
Cô gái có thân hình to lớn - trong bộ quần áo lòe loẹt và rủng rỉnh trang sức sáng chóe, những móng tay dài màu da cam - có đôi mắt nhảy nhót như những con côn trùng õng ẹo. Không thể nhìn vào Rhyme, hay bất cứ thứ gì khác quá một giây đồng hồ, mắt cô ta đã đảo một vòng chóng mặt quanh phòng thí nghiệm của anh: những dụng cụ khoa học, các ống nghiệm, những lọ hóa chất, những chiếc máy tính và màn hình điều khiển, những sợi dây ở khắp nơi. Tất nhiên là cả vào đôi chân của Rhyme và chiếc xe lăn của anh nữa. Cô nhai viên kẹo cao su nhóp nhép một cách ầm ĩ.
Cô bé còn lại, thấp, gầy, nhỏ thó và nhìn như con trai, có một sự bình lặng bên trong. Cô nhìn chằm chằm vào Lincoln Rhyme bằng một ánh mắt vững vàng. Liếc một cái rất nhanh vào chiếc xe lăn, rồi lại nhìn vào anh. Căn phòng thí nghiệm không hề cuốn hút cô.
“Đây là Geneva Settle”, người nữ cảnh sát tuần tra giải thích, Jenifer Robinson, hất đầu về phía cô bé nhỏ nhắn với đôi mắt kiên định không dao động. Robinson là bạn của Amelia Sachs, người đã sắp xếp để Robinson đưa hai cô bé đến đây từ ngôi nhà ở phía bắc Midtown.
“Còn đây là bạn của cô bé”, Robinson tiếp tục: “Lakeesha Scott. Nhả bã kẹo đi, Lakeesha”.
Cô gái ném lại một cái nhìn ngang ngạnh nhưng vẫn nhét mẩu bã kẹo đã được vo viên vào đâu đó trong chiếc túi lớn của mình, mà chẳng cần quan tâm đến việc bọc nó lại.
Người nữ cảnh sát nói: “Cô bé và Geneva cùng đến bảo tàng buổi sáng ngày hôm nay”.
“Chỉ có mình cháu là chẳng thấy gì cả”, cô bé nhanh nhảu cướp lời trước. Phải chăng là cô gái to lớn này hoảng sợ vì vụ tấn công, anh tự hỏi, hay chỉ đơn giản là vì cô ta cảm thấy khó chịu bởi Rhyme là một người tàn tật? Cả hai đều có thể.
Geneva đang mặc một chiếc áo phông màu xám và chiếc quần lùng thùng màu đen với đôi giày thể thao, mà theo suy đoán của Rhyme đang là mốt của những học sinh trung học hiện đại. Sellito đã nói cô bé mười sáu tuổi nhưng nhìn cô trẻ hơn. Trong khi mái tóc của Lakeesha được bện thành những bím nhỏ màu vàng và đen, được tết chặt đến nỗi lộ cả da đầu, mái tóc của Geneva lại được cắt ngắn.
“Tôi đã nói với hai cô gái anh là ai, thưa Đại úy”, Robinson nói, với chức danh mà đã cũ đến vài năm rồi. “Và anh sẽ có vài câu hỏi về những gì đã xảy ra. Geneva muốn trở lại trường học nhưng tôi đã nói cô bé phải đợi.”
“Cháu có mấy bài kiểm tra”, Geneva lên tiếng.
Lakeesha tặc lưỡi qua những chiếc răng trắng bóc của mình.
Robinson nói tiếp: “Bố mẹ của Geneva không có ở trong nước. Nhưng họ đang đợi chuyến bay về gần nhất. Cô bé đã ở cùng bác khi họ đi vắng”.
“Họ đi đâu?”, Rhyme hỏi: “Bố mẹ cháu?”.
“Bố cháu đang hướng dẫn ở một hội nghị ở Oxford.”
“Ông ấy là giáo sư à?”
Cô gật đầu. “Văn học. Ở Đại học Hunter.”
Rhyme tự trách mình vì đã ngạc nhiên khi biết cô gái trẻ đến từ Harlem lại có cha mẹ trí thức và bận rộn công việc ở cả nước khác trên thế giới. Anh đã bực mình bởi sự dập khuôn định kiến, nhưng chủ yếu là cảm thấy tự ái vì đã đưa ra một suy diễn sai lầm. Sự thật là, cô bé ăn mặc như một kẻ bụi bặm nhưng anh đã có thể suy đoán cô bé xuất thân từ gia đình trí thức; cô bé đã bị tấn công khi đang ở thư viện vào một buổi sáng sớm chứ không phải đang lang thang tụ tập trên góc phố hay là xem ti vi trước khi đến trường.
Lakeesha rút ra một bao thuốc lá trong chiếc túi của mình.
Rhyme bắt đầu: “Không được...”. Thom bước vào qua cánh cửa. "... hút thuốc ở đây.” Anh nhấc nó khỏi tay cô gái và nhét lại vào trong chiếc túi.
Không ngạc nhiên khi hai cô bé học sinh bất ngờ xuất hiện trong tầm mắt của mình, Thom mỉm cười. “Uống chút gì chứ?”
“Ông có cà phê chứ?”, Lakeesha nói.
“Tôi có, tất nhiên.” Thom khẽ liếc sang Jenifer Robinson và Rhyme khi họ lắc đầu.
“Tôi muốn pha thật đặc”, cô gái to lớn nhấn mạnh.
“Ồ, vậy à?” Thom đáp lại. “Tôi cũng thế.” Anh nói với Geneva: “Cô muốn uống gì chứ?”.
Cô bé lắc đầu.
Rhyme nhìn thật lâu vào chai rượu whisky Scotland nằm trên cái kệ gần đó. Thom để ý thấy ánh mắt đó và cười. Người phụ tá biến mất. Với sự chán nản của Rhyme, nữ cảnh sát tuần tra Robinson nói: “Tôi phải quay trở lại trụ sở, thưa ngài”.
“À, vậy sao?” Rhyme đáp lại, choàng tỉnh. “Cô không thể ở lại thêm một chút nữa sao?”
“Không được, thưa ngài. Nhưng nếu ngài cần gì, cứ gọi điện cho tôi!”
Một người trông trẻ thì sao nhỉ?
Rhyme không tin vào định mệnh, nhưng nếu có, anh chắc hẳn phải thấy việc tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa ở đây: Anh đã nhận vụ này để tránh bài kiểm tra ở bệnh viện và giờ đây anh đang phải trả giá cho điều đó bằng việc phải chịu đựng nửa tiếng đồng hồ chẳng chút thoải mái trong văn phòng với hai cô bé học sinh. Những người trẻ tuổi không phải là gu của anh.
“Vậy nhé, Đại úy. Tôi đi thôi.” Robinson bước ra khỏi cửa.
Anh lẩm bẩm. “Ừ.”
Một vài phút sau, Thom quay lại với một cái khay trên tay. Anh rót một tách cà phê cho Lakeesha và đưa cho Geneva một chiếc cốc, mà Rhyme ngửi thấy, có mùi của chocolate nóng.
“Tôi vẫn đoán rằng cô muốn uống chút gì đó”, người phụ tá nói. “Nếu không thích, cô có thể để nó đấy.”
“Không. Tốt quá ạ. Em cảm ơn.” Geneva nhìn chằm chằm vào cốc chocolate nóng đang sủi bọt. Nhấp một vài ngụm.
“Các cháu ổn chứ?”, Rhyme hỏi.
Geneva gật đầu.
“Cháu cũng thế”, Lakeesha nhanh nhảu.
“Hắn tấn công cả hai à?”, Rhyme hỏi tiếp.
“Không, không phải cháu.” Lakeesha quan sát anh từ trên xuống dưới. “Nhìn chú giống với diễn viên bị gãy cổ?” Cô gái húp xì xụp ly cà phê, đổ thêm một ít đường. Lại húp xì xụp.
“Không vấn đề gì.”
“Và chú không thể cử động được gì hết à?”
“Không nhiều lắm.”
“Chán chết.”
“Keesh”, Geneva suỵt bạn mìa và Elizabeth.
Lúc này đây, tình yêu của anh, anh phải nói tạm biệt với em rồi và chuẩn bị bài học cho sinh viên của anh ngày mai.
Chúc em và các con ngủ ngon và những giấc mơ ngọt ngào, em yêu. Anh sống vì ngày em quay về. Charles của em
Croton on Hudson,
Mùng 2 tháng 3 năm 1875
Rhyme nói: “Nghe như là Douglass và những người khác đã tha thứ cho ông ấy vì tội cướp tài sản. Hoặc quyết định tin rằng ông ấy không hề làm điều đó”.
Sachs hỏi: “Ông ấy đang nói đến luật nào ấy nhỉ?”.
“Bộ luật Dân quyền năm 1875”, Geneva nói. “Nó cấm sự phân biệt chủng tộc tại các khách sạn, nhà hàng, tàu, rạp hát - bất cứ một nơi công cộng nào”. Cô bé lắc lắc đầu mình. “Dù vậy, nó không tồn tại lâu. Tòa án Tối cao đã gỡ bỏ nó trong những năm 1880 vì trái với hiến pháp. Không có một phần nhỏ nào của các quyền dân sự trong lập pháp liên bang được ban hành sau đó trong vòng hơn năm mươi năm.”
Sachs trầm ngâm: “Tôi tự hỏi liệu Charles có sống lâu đủ để biết rằng cái luật ấy đã bị bỏ xuống, ông ấy hẳn là sẽ không thích điều đó”.
Nhún vai, Geneva đáp lời: “Cháu không nghĩ rằng nó là vấn đề. Ông ấy sẽ nghĩ tới điều đó như là một khó khăn tạm thời”.
“Niềm hy vọng đẩy lùi nỗi đau”, Rhyme nói.
“Đúng vậy”, Geneva nói. Rồi cô nhìn vào chiếc đồng hồ Swatch cũ kỹ của mình. “Cháu cần phải quay lại làm việc. Chỗ ông Wesley Goades... Cháu phải nói là, ông ấy thật kỳ quặc. Không bao giờ cười, không bao giờ nhìn vào mình... Và, rõ là, đôi khi chúng ta có thể tỉa bớt râu cơ mà.”
Nằm trên giường đêm hôm đó, trong căn phòng tối, Rhyme và Sachs đang ngắm mặt trăng, cái lưỡi liềm thật mảnh, đúng ra nó phải là màu trắng lạnh nhưng qua bầu khí quyển, nó vàng rực như mặt trời.
Đôi khi, vào những khoảnh khắc như thế này, họ nói chuyện, đôi khi không. Đêm nay họ yên lặng.
Có chuyển động nhỏ ở rìa bên ngoài cửa sổ - từ những con chim cắt làm tổ ở đó. Một cặp chim trống và mái với hai con chim non mới ra ràng. Có lúc đột ngột một người khách đến thăm Rhyme có thể nhìn vào cái tổ và hỏi liệu không biết chúng có tên không.
“Chúng tôi có một thỏa thuận”, anh lầm bầm. “Chúng không đặt tên tôi. Tôi không đặt tên chúng.” Đầu của con chim cắt ngẩng lên và nhìn sang bên, cắt qua tầm nhìn của họ tới mặt trăng. Chuyển động và mặt cắt của con chim cho thấy một vài lý do, sự thông thái, cả nguy hiểm nữa - những con chim ưng trưởng thành không có kẻ thù ăn thịt trong tự nhiên và chúng tấn công con mồi từ trên cao với tốc độ lên tới hơn ba trăm kilômet một giờ. Nhưng lúc này con chim đang cúi xuống hiền lành và đứng yên. Các sinh vật đều làm việc vào ban ngày và ngủ vào ban đêm.
“Đang nghĩ gì à?”, Sachs hòi.
“Hãy đi nghe nhạc ngày mai. Có một buổi biểu diễn hoặc bất cứ gì mà em gọi là một buổi hòa nhạc chiều, ở Lincoln Center.”
“Ai chơi?”
“The Beatles, anh nghĩ thế. Hoặc Elton John và Maria Callas cùng diễn. Anh không quan tâm lắm. Anh thực sự chỉ muốn làm bẽ mặt mọi người bằng việc lăn chiếc xe về phía họ... Quan điểm của anh là vấn đề không phải là ai đang chơi. Anh muốn đứng dậy. Điều đó không thường xuyên xảy ra, em biết đấy.”
“Em biết.” Sachs nghiêng người và hôn anh. “Chắc chắn rồi, hãy đi.”
Anh xoay đầu mình và hôn lên tóc cô. Cô chùng xuống dựa vào anh. Rhyme nắm chặt những ngón tay quanh bàn tay cô.
Cô nắm lại.
“Anh biết chúng ta có thể làm gì không?”, Sachs hỏi, có một chút gợi ý trong giọng nói. “Hãy lén mang vào một chút rượu và đồ ăn. Patê và bơ. Bánh mỳ Pháp.”
“Em có thể mua đồ ăn ở đó. Anh nhớ thế. Nhưng rượu scotch thì thật là khủng khiếp. Và nó tốn kha khá tiền. Chúng ta có thể làm là...”
“Rhyme!”, Sachs ngồi thẳng dậy trên giường, nói.
“Có chuyện gì vậy?”, anh hỏi.
“Anh đã làm gì?”
“Anh đang đồng ý rằng chúng ta sẽ lén đưa một ít đồ ăn vào...”
“Đừng có chối vòng quanh.” Sachs lần mò công tắc bật đên, nhấn nó. Trong chiếc quần đùi lụa màu đen và áo phông màu nâu, tóc hất lệch sang một bên, và đôi mắt mở to, nhìn cô giống như một sinh viên đại học mới chợt nhớ ra là mình có một bài kiểm tra vào tám giờ sáng ngày hôm sau.
Rhyme nnh. “Yên đi nào.”
“Ôi, cậu biết đấy, chán chết.”
Rồi lại im lặng. Mới chỉ có tám phút đồng hồ trôi qua từ khi hai cô gái bước vào đây. Vậy mà nó dài như hàng tiếng đồng hồ. Anh nên làm gì đây? Có phải Thom đã chạy trốn và giải trí bằng một trò Board game[3] rồi không nhỉ?
[3] Tên gọi chung của các trò chơi theo nhóm, được thực hiện trên một bàn như bàn cờ.
Tất nhiên, đó là những câu hỏi phải được hỏi.
Nhưng bản thân Rhyme cũng lưỡng lự để đưa ra những câu hỏi đó. Phỏng vấn hay thẩm vấn lấy lời khai là những kỹ năng mà anh không hề có. Khi còn làm việc trong lực lượng, anh đã hỏi cung đối tượng tình nghi hàng chục lần, và chưa bao giờ có những giây phút “cảm ơn Chúa” khi hung thủ hoàn toàn suy sụp và thú nhận. Nhưng Sachs thì khác, cô có năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh tự nhiên. Cô cảnh báo những viên cảnh sát trẻ rằng ta có thể phá hỏng cả một vụ án chỉ vì nói sai một từ duy nhất. Cô ấy gọi đó là “làm vẩn đục tâm hồn”, cũng giống như tội lỗi hàng đầu đối với Rhyme là “làm hỏng hiện trường vụ án”.
Lakeesha lên tiếng: “Làm sao chú có thể đi lại trên chiếc xe đó?”.
“Suỵt”, Geneva nhắc nhở.
“Tớ chỉ hỏi mà thôi.”
“Đừng.”
“Hỏi thì hại gì chứ?”
Lakeesha đã mất hoàn toàn sự lo lắng, e dè ban đầu. Rhyme đánh giá là cô gái thực sự khá biết điều. Lúc đầu cô ấy hành động không được thoải mái, làm như thể cô ấy ngây thơ, vô tội, dễ bị tổn thương, yếu đuối, rằng ta đã chiếm được sự lợi thế rồi, nhưng rất nhanh chóng cô bé đã đánh giá được mọi việc. Một khi đã làm chủ được tình thế, cô biết nên hay không nên thốt ra những lời thiếu suy nghĩ.
Thực ra, Rhyme rất cảm kích đối với bất kỳ chủ đề nào để có thể nói đến. Anh giải thích về ECU, bộ phận kiểm soát môi trường, rồi làm thế nào mà cái bảng cảm ứng ở dưới ngón tay đeo nhẫn bên trái của anh có thể điều khiển chuyển động và tốc độ của chiếc xe lăn.
“Một ngón tay?” Keesha liếc vào một trong những chiếc móng tay da cam của mình. “Thế thôi là chú đi lại được?”
“Đúng vậy. Chẳng hơn gì đầu và vai.”
“Thưa ông Rhyme”, Geneva lên tiếng, nhìn vào chiếc đồng hồ Swatch đỏ lớn, rõ ràng nổi bật trên cổ tay nhỏ bé, gầy guộc của cô: “Những bài kiểm tra của cháu thì sao? Bài kiểm tra đầu tiên sẽ bắt đầu trong một vài tiếng nữa. Chúng ta sẽ nói chuyện bao lâu nữa vậy?”.
“Đến trường ư?”, Rhyme hỏi, một cách ngạc nhiên. “À, các cháu có thể nghỉ ngày hôm nay, ta chắc chắn điều đó. Sau những gì đã xảy ra, giáo viên của các cháu sẽ hiểu thôi.”
“À, thực sự cháu không cảm thấy muốn nghỉ học. Cháu muốn làm bài kiểm tra.”
“Này, này, nhóc, hết giờ rồi. ông chú này đã nói mình có thể qua, một trăm phần trăm quá tuyệt, và cậu lại nói không muốn đấy. Nào. Thật là dở hơi.”
Geneva nhìn vào mắt cô bạn mình. “Và cậu cũng sẽ phải làm bài kiểm tra đấy. Không phải cậu đang trốn tránh đấy chứ.”
“Đấy không phải là trốn tránh, chúng ta được cho qua”, cô gái to lớn chỉ ra vấn đề với một luận điểm khổng hề sai.
Điện thoại của Rhyme reo và anh cảm thấy biết ơn với sự cắt ngang này.
“Lệnh, trả lời”, anh nói vào chiếc micro thoại rảnh tay.
“Tuyệt!” Lakeesha reo lên, nhướn cao đôi lông mày. “Nhìn nó kìa, Gen. Tớ muốn một cái như vậy.”
Nheo mắt lại, Geneva thì thầm điều gì đó với cô bạn của mình, người đang xoe tròn mắt và húp xì xụp thêm cà phê.
“Rhyme”, tiếng Sachs nói.
“Các cô bé đang ở đây, Sachs”, Rhyme nói bằng một giọng nóng nảy. “Geneva và bạn của cô bé. Và anh đang mong là em...”
“Rhyme” cô nói lại. Bằng một giọng riêng biệt. Có điều gì đó không hay.
“Chuyện gì vậy?”
“Sau cùng, hiện trường lại náo động.”
“Hắn đã ở đó?”
“Đúng. Chưa hề rời đi. Hay là quay lại.”
“Em vẫn ổn chứ?”
“Vâng. Không phải hắn tấn công em.”
“Chuyện gì đã xảy ra?”
“Hắn đã tiến đến rất gần, vào trong con hẻm. Bắn bốn phát đạn. Làm bị thương một người đang đứng gần đó... và giết một nhân chứng. Tên ông ấy là Don Barry. Đang chịu trách nhiệm cái thư viện ở bảo tàng. Ôm thế nào mà một mẩu sơn vụn có thể giúp tìm ra chiếc xe, rồi từ chiếc xe đó đưa tới điểm đỗ xe, nơi xuất hiện một dấu chân mờ nhạt dẫn tới một cánh cửa mà từ đó có thể tìm ra một sợi vải của một chiếc áo được vứt ra với dấu tay trên nút áo - bề mặt duy nhất mà hung thủ quên không lau sạch.
Ngày hôm sau, đội đặc nhiệm gõ cửa nhà hắn.
Và công lý được mang đến, nạn nhân được cứu, gia đình đoàn tụ. Tất cả đều nhờ vào một mẩu sơn nhỏ xíu.
Những chiến thắng nhỏ bé - đó là những gì mà bác sĩ Sherman đã nói. Những chiến thắng nhỏ bé... Đôi khi đó là tất cả những gì mà ta có thể hy vọng tới, Lincoln Rhyme trầm ngâm suy nghĩ, khi cảm thấy cơn buồn ngủ đang tới.
Nhưng đôi khi chúng là tất cả những gì mà ta cần.