IV. XÁC CHẾT DI ĐỘNG
CHƯƠNG 37

     trường, Geneva có thêm bài tập về nhà và thật bất ngờ, bài tập về nghệ thuật ngôn ngữ tiếp theo của cô bé là viết về quyển Ngôi nhà Harlem của Claude McKay, xuất bản năm 1928 và là một trong những tác phẩm đầu tiên bán chạy nhất của một tác giả da đen.
“Em không thể chọn một quyển của E. E. Cummings được sao?”, cô hỏi. “Hoặc là John Cheever?”
“Đó là thứ tự bài học về văn hóa Mỹ - Phi, Gen.” Giáo viên nghệ thuật ngôn ngữ nói và mỉm cười.
“Vậy thì Frank Yerby”, cô kì kèo. “Hay là Octavia Butler”.
“À, họ là những tác giả tuyệt vời, Gen”, người giáo viên nói. “Nhưng họ không viết về Harlem. Đó là những gì chúng ta học trong phần này. Nhưng tôi đưa cho em tác giả McKay bởi tôi cho rằng có thể em sẽ thích ông ấy. Ông ấy là một trong những tác giả yêu thích tranh luận nhất nổi lên thời Phục hưng Harlem. Ông bị chỉ trích rất mạnh mẽ vì nhìn vào mặt đối lập của Harlem. Ông ấy viết về những khía cạnh nguyên thủy của nơi này. Nó đã khiến Dubois và rất nhiều những nhà tư duy khác lúc bấy giờ thất vọng. Nó ở ngay con hẻm gần nhà em.”
Có thể cha sẽ giúp cô hiểu rõ, Geneva nghĩ một cách đầy mỉa mai, bởi ông yêu quý khu vực ấy và ngôn ngữ của nó.
“Thử với nó xem”, thầy giáo nói. “Em có thể sẽ thích nó cho mà xem.”
Ồ, không, em sẽ không thích đâu. Geneva nghĩ.
Ra khỏi trường, cô bắt đầu bước đi với cha mình. Họ đi tới một điểm chờ xe buýt và nhắm mắt lại trước một cơn gió lạnh đầy bụi xoáy quanh họ. Họ đã đạt được sự giải tỏa căng thẳng nhất định và cô đồng ý để ông đưa mình vào một nhà hàng Jamaica mà ông vẫn luôn mơ ước trong sáu năm qua.
“Liệu nó có còn ở đấy nữa không?”, cô hỏi một cách bình thản.
“Ta không biết nữa. Nhưng ta sẽ tìm ra thứ gì đó. Hãy xem đây như một chuyến phiêu lưu.”
“Con không có nhiều thời gian.” Cô run lên vì lạnh.
“Cái xe buýt đó ở đâu?”, ông hỏi.
Geneva nhìn sang con phố và cau mày. Ôi, không... Đó là Lakeesha. Đó chính là cô ấy; cô ấy đã thậm chí không thèm nghe Geneva nói và đến đây.
Keesh vẫy vẫy tay.
“Ai vậy?”, cha cô hỏi.
“Bạn của con.”
Lakeesha ngập ngừng nhìn cha Geneva rồi vẫy tay ra hiệu cho Gen đi sang đường.
Có chuyện gì vậy chứ? Khuôn mặt cô ấy đang cười nhưng rõ ràng là suy tính điều gì đó. Có thể cô ấy tự hỏi không biết Geneva đang làm gì với một người đàn ông lớn tuổi hơn mình.
“Cha hãy đợi ở đây”, cô nói. Và bắt đầu bước về phía Lakeesha, đang nháy nháy mắt và có vẻ như vừa hít một hơi thở thật sâu. Cô ấy mở túi và thò vào bên trong.
Có chuyện gì vậy nhỉ? Geneva tự hỏi. Cô băng qua phố và dừng lại bên lề đường. Keesha lưỡng lự rồi bước về phía trước. “Gen”, cô nói, đôi mắt bỗng tối sầm lại.
Geneva cau mày: “Này cậu, có…”
Keesh dừng lại thật nhanh khi một chiếc xe phanh gấp bên lề đường bên cạnh Geneva trong lúc cô đang chợp mắt ngạc nhiên. Phía sau tay lái là cô cố vấn của trường, Barton. Người phụ nữ vẫy cô bé vào trong xe. Geneva do dự, nói với Keesh là đợi mình một lúc và đi về phía cô cố vấn.
“Chào, Geneva. Ta không kịp gặp em ở trong trường.”
“Chào cô.” Cô bé khá thận trọng, không chắc chắn rằng cô Barton có biết về cha mẹ mình hay không.
“Người phụ tá của ông Rhyme nói với ta rằng họ đã tóm cổ được gã đang cố gắng giết em. Và cha mẹ em cuối cùng đã về.”
“Cha em”, cô chỉ. “Ông ấy đang đứng ngay kia.”
Cô cố vấn nhìn về phía người đàn ông có dáng người đậm trong chiếc áo phông và áo khoác cũ kỹ.
“Mọi thứ ổn chứ?”
Không nghe thấy họ đang nói gì, Lakeesha nhìn họ với một cái cau mày. Biểu hiện của cô ấy còn có vẻ khó hiểu hơn trước. Cô ấy có vẻ vui mừng qua điện thoại, nhưng giờ Geneva nghĩ về điều đ&o tiếng Ả Rập; ngôn ngữ mà không hề sử dụng các mạo từ không xác định, chỉ có mạo từ xác định ‘the’.” Kincaid thêm vào: “Điều này cũng đúng với tiếng ở xứ Wales, nhưng tôi không nghĩ rằng tên này đến từ Cardiff”.
“Tốt lắm, Parker”, Sachs nói. “Rất tinh tế, tốt quá.” Một nụ cười nhẹ qua loa ngoài. “Tôi sẽ nói cho cô biết, Amelia, bất cứ ai trong công việc này đều đang phải làm việc rất nhiều với việc nghiên cứu sâu về tiếng Ả Rập trong những năm qua.”
“Đó là lý do tại sao anh nghĩ rằng đó là một người đàn ông?”
“Có bao nhiêu hung thủ là phụ nữ người Ả Rập mà các anh từng thấy?”
“Không nhiều lắm... Gì nữa không?”
“Đưa cho tôi thêm nhiều mẫu hơn nữa và tôi sẽ so sánh chúng nếu các anh muốn.”
“Chúng tôi sẽ nhờ đến anh nữa.” Rhyme cảm ơn Kincaid và họ ngắt máy. Rhyme lắc đầu, nhìn vào tấm bảng ghi bằng chứng rồi cười một cách chế giễu.
“Anh đang nghĩ gì thế Rhyme?”
“Chúng ta biết hắn định làm gì, đúng không?”, nhà
tội phạm học hỏi với một giọng đáng ngại.
Sachs gật đầu đồng ý. “Hắn không định cướp trung tâm mua bán trang sức. Hắn muốn thổi tung nó.”
“Đúng vậy.”
Dellary nói: “Chính xác rồi - những báo cáo mà chúng ta đã có, về những tên khủng bố nhắm vào các mục tiêu Israel ở trong khu vực”.
Sachs nói: “Người bảo vệ ở bên kia phố với bảo tàng nói họ có những chuyến hàng hằng ngày từ Jerusalem... Được rồi, tôi sẽ phong tỏa khu mua bán và đưa mọi người di tản”. Cô lôi điện thoại di động cùa mình ra.
Rhyme nhìn lên tấm bảng bằng chứng rồi nói với Sellito và Cooper: “Bánh falafel, sữa chua... và chiếc xe tải chở hàng. Tìm xem có bất cứ nhà hàng nào quanh khu mua bán có phục vụ đồ ăn Trung Đông, nếu có, ai giao hàng và khi nào. Họ sử dụng xe chở đồ loại nào.”
Dellray lắc lắc đầu. “Nửa thành phố ăn cái đồ đấy. Anh có thể mua một cái bánh gyro hay falafel ở bất cứ góc nào trong thành phố. Chúng...” Viên đặc vụ ngừng nói khi nhìn vào mắt Rhyme.
“Xe đẩy hàng.”
Sellito nói: “Có hàng tá xe đẩy hàng xung quanh bảo tàng ngày hôm qua”.
“Hoàn hảo để quan sát”, Rhyme nói. “Và quả là một cái vỏ bọc tốt. Hắn đưa đồ đến cho họ hằng ngày, nên chẳng ai để ý đến hắn. Tôi muốn biết ai cung cấp cho các cửa hàng rong trên phố. Nhanh lên!”
Theo ban y tế, chỉ có hai công ty cung cấp thức ăn Trung Đông cho những chiếc xe đẩy bán hàng ở dãy phố quanh trung tâm mua bán trang sức. Trớ trêu là, cái lớn nhất do hai anh em người Do Thái làm chủ với gia đình ở Israel và sùng đạo; họ khó có thể là nghi phạm được.
Công ty còn lại thì không sử dụng các chiếc xe đầy nhưng có bán gyro, thịt xiên nướng và falafel, cùng với các đồ gia vị và soda cho hàng chục xe đẩy ở Midtown. Việc điều hành được thực hiện bên ngoài một nhà hàng trên phố Board, những người chủ có thuê một người đàn ông để làm công việc giao hàng quanh thành phố.
Dellray cùng hàng tá các đặc vụ khác và các cảnh sát vây xung quanh, tất cả những người này đều vô cùng hợp tác - gần như là sợ đến phát khóc. Tên của người vận chuyển là Bani-al-Dahab, quốc tịch Ả Rập Xê út, visa đã hết hạn lâu rồi. Anh ta từng là một chuyên gia về lĩnh vực nào đó ở Jeddah và từng là một kỹ sư ở Mỹ một thời gian, nhưng sau khi visa hết hạn và trở thành người tị nạn trái phép, anh ta đã làm mọi công việc có thể - khi thì nấu ăn, đưa thức ăn tới các xe đẩy và các nhà hàng Trung Đông khác ở quanh Manhattan, Brooklyn.
Trung tâm mua bán trang sức đã sơ tán và kiểm tra - không có thiết bị nào được tìm thấy - và một thiết bị định vị phương tiện khẩn cấp đã được đặt lên chiếc xe tải của al-Dahab, mà theo những người chủ hàng, có thể là ở bất cứ đâu trong thành phố; anh ta được tự do lên kế hoạch giao hàng cho mình.
Vào những giờ phút như lúc này, Rhyme đáng lẽ sẽ đi đi lại lại khi suy nghĩ, nếu có thể. Hắn đang ở chỗ quái nào được? Liệu có phải gã đang lái chiếc xe tải đầy chất nổ nhởn nhơ ngoài kia? Có thể hắn đã từ bỏ vụ nhắm vào trung tâm mua bán trang sức và đang săn đuổi mục tiêu phụ: một giáo đường Do Thái hay một văn phòng hãng hàng không El-Al.
“Đưa Boyd tới đây, gây áp lực với hắn.” Anh nói lớn: “Tôi muốn biết cái gã này ở đâu!”.
Đó là lúc điện thoại của Mel Cooper đổ chuông.
Rồi tiếp theo là điện thoại của Sellito và Amelia Sachs.
Cuối cùng, điện thoại chính của phòng thí nghiệm bắt đầu đổ chuông lanh lảnh.
Những người gọi điện thì khác nhau nhưng tin họ thông báo thì lại là một.
Câu hỏi về địa chỉ của kẻ đánh bom đã được trả lời.
Chỉ có người lái xe thiệt mạng.
Hãy để ý tới lực của vụ nổ và chiếc xe tải thì nằm ở giao lộ giữa Đại lộ 9 và 54, xung quanh là rất nhiều xe khác, đó thực sự là một phép màu.
Khi quả bom phát nổ, hướng của vụ nổ hầu hết là nổ lên phía trên, qua nóc xe, và cả bên ngoài cửa sổ, bắn ra các mảnh vụn và kính, làm bị thương nhiều người, nhưng thiệt hại chủ yếu nằm trong chiếc E250. Chiếc xe tải rực lửa chòng chành lên vỉa hè, rồi bùng lên thành một ngọn đuốc. Đội cứu hỏa từ trên Đại lộ 8 dập tắt ngọn lửa nhanh chóng và đẩy lùi đám đông. Còn người lái xe, chẳng có chút hy vọng nào trong việc cứu sống hắn ta; hai mảnh xác lớn nhất còn lại bị bắn tung ra cách nhau vài mét.
Đội phá bom mìn đã bảo đảm an toàn hiện trường và lúc này cảnh sát chỉ việc chờ các bác sĩ pháp y và đội Khám nghiệm hiện trường.
“Đó là mùi gì vậy?”, thanh tra từ bắc Midtown hỏi. Một cảnh sát cao, hói đầu bước ra vì mùi hôi, mà anh cho là mùi thịt người cháy, vấn đề là mùi khá thơm.
Một trong các cảnh sát từ đội chống bom cười vị tharih tra mặt xanh lét. “Gyros đấy.”
“Gear - gì cơ?” Viên thanh tra hỏi, nghĩ nó là một dạng gì đó kinh khủng.
“Nhìn này.” Viên cảnh sát chống bom giơ lên một khoanh thịt cháy với bàn tay đeo găng cao su. Anh ta hít hà khoanh thịt. “Thơm thật.”
Viên thanh tra bắc Midtown cười và không tỏ ra mình đang buồn nôn tới mức nào.
“Đó là thịt cừu.”
“Đó...”
“Người lái xe đang đi giao đồ ăn. Đó là công việc của anh ta. Thùng sau xe tải chứa đầy thịt, falafel và các thứ kiểu thế.”
“Ồ.” Viên thanh tra vẫn chẳng cảm thấy bớt lợm giọng chút nào.
Đúng lúc đó chiếc Camaro SS màu đỏ tươi - một chiếc xe thật tuyệt - dừng lại giữa phố, vừa chạm vào dải băng cảnh sát màu vàng. Một cảnh sát với mái tóc đỏ bước ra, người chịu tránh nhiệm hiện trường, gật đầu với viên thanh tra.
“Này”, anh nói.
Người phụ nữ nối chiếc tai nghe vào chiếc máy Motorola và vẫy về phía chiếc xe của đội Khám nghiệm hiện trường, cũng vừa mới dừng lại, cô hít hít không khí, hít một vài hơi thật sâu. Cô gật đầu. “Vẫn chưa kiểm tra hiện trường”, cô nói vào trong micro: “Nhưng ngửi mùi thì em thấy, chúng ta đã tóm được hắn rồi, Rhyme”.
Ngay lúc đó người thanh tra cao hói đầu nuốt ực và nói: “Tôi sẽ quay lại ngay”. Anh ta bước vào quán Starbuck gần đó, cầu mong là sẽ đến được nhà vệ sinh kịp lúc.
Đi bên cạnh thanh tra Bell, Geneva đang bước xuống phòng thí nghiệm trong ngôi nhà của Rhyme ở dưới lầu. Cô nhìn vào cha mình, ông đang nhìn cô với đôi mắt to tròn đầy đau khổ.
Trời ạ. Cô quay đi chỗ khác.
Rhyme nói: “Chúng ta có một vài tin cho cháu. Kẻ thuê Boyd đã chết rồi”.
“Chết? Cái gã định ăn cướp trung tâm mua bán trang sức?”
“Mọi việc không như vẻ bề ngoài của nó.” Rhyme nói.”Bọn chú... à, chú đã sai. Chú đã nghĩ tới bất cứ kẻ nào có ý định cướp trung tâm mua bán trang sức. Nhưng không, hắn ta muốn đánh sập chỗ đó.”
“Khủng bố?”, cô hỏi.
Rhyme gật đầu về phía tập tài liệu nhựa mà Amelia đang cầm. Bên trong đó là một lá thư, được gửi đến tờ The New York Times. Trong đó nói rằng vụ đánh bom cửa hàng mua bán trang sức chỉ là một phần trong cuộc chiến thần thánh chống lại Israel và đồng minh. Cùng một loại với mẩu giấy được dùng để gửi tin về yêu cầu giết Geneva và bản đồ của phố 55 khu phía tây.
“Hắn là ai?”, cô bé hỏi, cố nhớ lại chiếc xe tải và người đàn ông Trung Đông nào đó trên con phố ngoài bảo tàng một tuần trước. Nhưng không thể.
“Một người nhập cư bất hợp pháp từ Ả Rập Xê út”, thanh tra Sellito nói. “Làm việc cho một nhà hàng ở
dưới trung tâm. Tất nhiên, người chủ khá sợ hãi. Họ nghĩ chúng ta cho rằng họ là vỏ bọc của Al-Qaeda hoặc tương tự vậy.” Anh cười khùng khục. “Mà họ có thể lắm chứ. Chúng ta sẽ tiếp tục theo dõi. Nhưng tất cả bọn họ đều là công dân có hồ sơ trong sạch, đã ở đây nhiều năm rồi, thậm chí có vài đứa con trong quân đội nữa. Có thể nói họ là một đám người vô cùng hoảng sợ lúc này.”
Phầacute;, có thể là sự giả vờ. Và ai là kẻ mà cô ấy đã nói chuyện?
Không có ai cả...
Mình không nghĩ vậy.
“Geneva?”, cô Barton hỏi. “Em không sao chứ?”
Cô bé quay lại nhìn. “Xin lỗi. Vâng. Em ổn.”
Người phụ nữ một lần nữa quan sát người cha kỹ hơn rồi quay đôi mắt màu nâu vào cô bé, khi cô đang nhìn đi chỗ khác.
“Có điều gì em muốn nói với ta không?”
“Dạ...”
“Sự thật là gì?”
“Em...”
Đó là tình huống mà dù thế nào đi nữa sự thật cũng sẽ được tiết lộ.
“Được rồi, nhìn xem, cô Barton. Em xin lỗi. Em đã không hề thành thật một chút nào. Cha em không phải là một giáo sư. Ông ấy đã ở trong tù. Nhưng giờ đã được tự do rồi.”
“Vậy thì suốt thời gian qua em đã sống ở đâu?”
“Sống một mình.”
Không có một sự phê bình hay chỉ trích nào trong đôi mắt của cô cố vấn, cô gật đầu. “Mẹ em thì sao?”
“Đã mất rồi.”
Cô ta cau mày. “Cô rất tiếc... Và ông ấy đang chuẩn bị chăm sóc em?”
“Chúng em chưa thực sự nói về chuyện này. Bất cứ điều gì ông ấy làm đều phải báo với tòa án hay gì đó.” Cô nói vậy để kéo dài thêm thời gian. Geneva đã lập ra một nửa kế hoạch cho sự trở lại của cha cô là sẽ chăm sóc mình, nhưng cô vẫn phải tiếp tục sống một mình. “Trong một vài ngày tới, em sẽ ở với ông Rhyme và cô Amelia, ở nhà của họ.”
Người phụ nữ nhìn cha cô bé một lần nữa, ông đang nhoẻn một nụ cười gượng gạo về phía họ.
“Điều này khá là kỳ lạ.”
Geneva nói một cách thách thức: “Em sẽ không vào nhà giáo dưỡng. Em sẽ không đánh mất những gì mình đã cố gắng có được. Em sẽ bỏ chạy. Em sẽ...”.
“Dừng lại nào. Bình tĩnh đi.” Cô cố vấn mỉm cười. “Ta không nghĩ rằng chúng ta cần phải tạo ra một vấn đề lúc này. Em đã trải qua quá đủ rồi. Chúng ta sẽ nói về chuyện này một vài ngày nữa. Giờ hai người định đi đâu?”
“Tới nhà ông Rhyme.”
“Ta sẽ đưa em và cha đi.”
Geneva ra hiệu cho cha cô đi tới. Ông đi chậm rãi tới chiếc xe, cô bé giới thiệu họ với nhau.
“Rất vui được gặp cô, thưa cô. Và cảm ơn rất nhiều vì đã để tâm tới Geneva.”
“Được rồi, lên xe đi.”
Geneva nhìn sang phố. Keesh vẫn đang ở đó.
Cô hét lớn: “Tớ phải đi đây. Sẽ gọi cho cậu sau”. Cô đưa tay lên làm động tác gọi điện.
Lakeesha gật đầu một cách không thoải mái, rút lại tay đang để trong túi.
Geneva trèo lên ghế sau, phía sau cha mình. Ngoái lại nhìn qua cửa kính phía sau và thấy khuôn mặt nghiêm trọng của Keesh.
Rồi cô Barton lái xe ra khỏi lề đường và cha cô lại bắt đầu với một bài học lịch sử tức cười khác, nói thao thao bất tuyệt những chuyện như: Biết tôi đã từng làm một hình về anh em nhà Collyer không? Homer và Langley. Sống ở số 128 và số 5. Họ là những người sống ẩn dật và kỳ cục nhất trên thế giới. Họ kinh hãi nạn tội phạm ở Harlem và tự nhốt mình trong nhà, đặt những chiếc bẫy một cách vụng về, không bao giờ ném một thứ nhỏ nhất ra ngoài. Một trong số họ bị đè nát bởi đống báo. Khi họ chết, cảnh sát đã phải đẩy ra ngoài hàng trăm tấn rác từ nơi ở của họ. Ông hỏi: “Đã bao giờ cô nghe về họ chưa?”.
Cô cố vấn nói rằng cô ấy nghĩ mình đã nghe qua rồi.
“Không”, Geneva trả lời. Và nghĩ: Hãy hỏi xem con có quan tâm tới chuyện đó hay không.
Lincoln Rhyme đang chỉ cho Mel Cooper sắp xếp các bằng chứng mà họ đã thu được từ hiện trường vụ đánh bom, xem xét lại một vài báo cáo phân tích bằng chứng mà họ nhận được.
Một đội liên bang, dưới sự chỉ huy của Dellray, đã tìm đến Jon Earle Wilson, người đàn ông có dấu vân tay trên quả bom bằng đài bán dẫn ở chỗ ẩn nấp của Boyd. Hắn đã bị tóm cổ và một vài đặc vụ đang mang hắn tới chỗ Rhyme để điều tra chống lại vụ án Thompson Boyd.
Đó là lúc điện thoại của Bell đổ chuông. Anh trả lời: “Bell đang nghe đây... Luis, có chuyện gì vậy?” Anh gõ vào đầu để nghe.
Luis...
Đó là Martinez, anh bám theo Geneva và cha cô bé từ khi họ rời khỏi nhà của Rhyme để tới Langston Hughes. Họ đã hoàn toàn được thuyết phục rằng Jax, Alonzo Jackson, chính là cha cô bé đồng thời không có đe dọa nào với cô cả, và rằng tên khủng bố làm việc một mình. Nhave;a sự ngạc nhiên hay thích thú. Thậm chí ngay cà khi hắn quay đầu về phía Sachs. Như thể quên rằng cô đã đánh hắn liên tục bằng một viên đá.
Có một ai đó hỏi Boyd về điều đó, rằng cảm thấy thế nào, khi ngồi trên chiếc ghế điện. Hắn nói rằng cảm giác đó không hề giống với cái gì cả. Chỉ có cảm giác như một kiểu vô cảm. Hắn nói như thế rất nhiều về sự kết thúc. Hẳn cảm thấy vổ cảm.
Hắn đặt câu hỏi: “Làm sao các người tìm ra được tôi?”.
“Có một vài điều”, Rhyme trả lời. “Và một trong số đó là, anh đã chọn nhầm lá bài tarot để bỏ lại như là một bằng chứng. Nó đặt vào trong suy nghĩ của tôi về sự hành hình.”
“Người treo ngược”, Boyd nói, gật đầu. “Ông đúng. Tôi chưa bao giờ nghĩ tới điều đó. Chỉ có vẻ giống như một kiểu ghê rợn thôi. Chỉ để đánh lạc hướng các ông.”
Rhyme tiếp tục: “Nhưng, thứ đưa chúng tôi lần ra được tên anh, là thói quen của anh”.
“Thói quen?”
“Anh hay huýt sáo.”
“Tôi hay thế thật. Tôi đã cố không như thế khi làm việc. Nhưng đôi khi nó tự phát ra. Vậy ông đã nói chuyện với...”
“Đúng, vài người ở Texas.”
Gật đầu, Boyd nhìn Rhyme với đôi mắt màu đỏ, nheo nheo. “Vậy các ông biết về vụ Charlie Tucker sao? Hắn quả là một sự tồi tệ của loài người. Khiến cho những ngày cuối cùng của những người của tôi trở nên khốn khổ. Nói với họ rằng họ sẽ bị thiêu đốt dưới địa ngục, nói những điều vô nghĩa về Jesus và những thứ vớ vẩn.”
Những người của tôi...
Sachs hỏi: “Có phải Bani al-Dahab là kẻ duy nhất thuê anh làm việc?”.
Hắn chợp chợp mắt kinh ngạc; đó dường như là cảm xúc thật đầu tiên xuất hiện trên khuôn mặt hắn. “Làm thế nào...?” Rồi hắn im lặng.
“Quả bom phát nổ sớm. Hoặc hắn tự sát.”
Một cái lắc đầu. “Không, hắn ta không phải một kẻ đánh bom tự sát. Nó hẳn đã phát nổ một cách bất ngờ. Hắn đã không cẩn thận. Quá nóng vội. Không chịu làm mọi việc theo hướng dẫn gì hết. Nhiều khả năng hắn đã kích hoạt nó quá sớm.”
“Anh đã gặp hắn như thế nào?”
“Hắn gọi cho tôi. Biết tên tôi qua một ai đó ở tù. Kiểu như mối liên hệ Hồi giáo.”
Vậy là thế. Rhyme đã băn khoăn về việc làm thế nào mà một người bảo vệ nhà tù ở Texas lại có thể liên quan tới những kẻ khủng bố Hồi giáo.
“Họ rất điên cuồng”, Boyd nói. “Nhưng họ có tiền, những người Ả Rập đó.”
“Và cả John Earle Wilson? Hắn chính là kẻ tạo bom của anh?”
“Joimy, vâng, đúng.” Hắn lắc đầu. “Ông cũng biết về anh ta sao? Tôi phải thật lòng mà nói các ông cũng thật giỏi đấy.”
“Anh ta ở đâu?”
“Tôi không biết. Chúng tôi để lại tin nhắn ở các quầy điện thoại trà trước vào một hộp thư thoại. Gặp nhau ở những nơi công cộng. Chưa bao giờ trao đổi quá chục từ.”
“FBI sẽ tiếp tục nói chuyện với anh về al-Dahab và vụ nổ bom. Những gì mà chúng tôi muốn biết là về Geneva. Có còn ai khác muốn tấn công cô bé không vậy?”
Boyd lắc đầu. “Từ những gì anh ta nói với tôi, al- Dahab làm việc một mình. Tôi cho là anh ta có nói với những người ở Trung Đông một vài lần. Nhưng không có ai ở đây. Anh ta không tin tưởng một ai hết.” Cái giọng lè nhè vùng Texas phát ra rồi trầm xuống, như thể hắn ta đã cố gắng để làm mất đi giọng nói này.
Sachs nói một cách đe dọa: “Nếu anh nói dối, nếu như có điều gì xảy ra với cô bé, chúng tôi có thể bảo đảm chắc chắn rằng phần còn lại của cuộc đời anh sẽ hoàn toàn khốn khổ”.
“Như thế nào?”, Boyd hỏi, có vẻ thật sự tò mò.
“Anh đã giết người thủ thư, tiến sĩ Barry. Anh tấn công và cố ý giết các cảnh sát. Anh đáng ra sẽ phải trả nhiều lần cái mạng sống của mình trong tù. Và chúng tôi đang điều tra về cái chết của cô gái trên phố Canal ngày hôm qua. Có ai đó đẩy cô ấy ra trước xe buýt gần chỗ anh trốn thoát trên phố Elizabeth. Chúng tôi đang đưa ảnh của anh tới các nhân chứng. Anh sẽ mãi mãi biến mắt.”
Một cái nhún vai. “Chẳng có chút gì quan trọng cả.”
“Anh không quan tâm sao?”, Sachs hỏi.
“Tôi biết các người không hiểu tôi. Tôi không đổ lỗi cho điều đó. Nhưng, nhìn xem, tôi không quan tâm tới việc bị giam giữ. Tôi chả quan tâm cái khỉ gì hết. Các người thực sự không thể nào hiểu được tôi đâu. Tôi đã chết rồi. ng điều đó không có nghĩa là Bell và Rhyme để Geneva đi bất cứ đâu mà không có sự bảo vệ.
Nhưng có điều gì đó không đúng ở đây. Rhyme có thể nhìn thấy điều đó trong đôi mắt của Bell. Viên thanh tra nói với Cooper: “Chúng ta cần kiểm tra DMV. Nhanh”. Anh ghi nhanh lại một biển số xe vào một tờ giấy ghi chú và dập máy, đưa mẩu giấy đó cho một đồng chí trong đội Điều tra hiện trường.
“Có chuyện gì xảy ra vậy?”, Sachs hỏi.
“Geneva và cha cô bé đang ở một bến xe buýt gần trường học. Một chiếc xe dừng lại. Họ bước vào trong. Luis không nghĩ tới điều đó và không thể băng qua phố đủ nhanh để ngăn họ lại.”
“Xe? Ai lái?”
“Một phụ nữ da đen có dáng vẻ to lớn. Cách mà anh ta miêu tả cô ấy, có vẻ như đó là giáo viên cố vấn, cô Barton.”
Thật sự không có gì cần phải lo lắng lắm, Rhyme nghĩ. Có thể người phụ nữ chỉ đơn giản thấy họ đang đứng chờ xe buýt và cho họ đi nhờ.
Thông tin từ Cơ quan điều hành giao thông hiện lên trên màn hình của anh.
“Chúng ta có gì vậy, Mel?”, Rhyme hỏi.
Cooper nheo mắt khi đọc thông tin. Anh gõ một vài từ và nhìn lên, đôi mắt mở to qua cặp kính dày cộp. “Vấn đề. Chúng ta có vấn đề rồi.”
Cô Barton đang hướng về phía nam trung tâm Harlem, đi chậm rãi trong dòng giao thông đầu buổi chiều. Cô ta đi từ từ khi họ qua một dự án tái phát triển bất động sản khác.
Cha cô bé lắc đầu. “Nhìn xem.” Ông hất đầu về phía tấm bảng quảng cáo. “Các nhà phát triển, ngân hàng, kiến trúc sư.” Một tiếng cười chua chát. “Cá với cô là không có lấy một người da đen nào đang điều hành chúng.”
Không thỏa đáng, Geneva nghĩ. Cô muốn ra vẻ chăm chú lắng nghe.
Than vãn về quá khứ...
Cô cố vấn nhìn về chỗ đó và nhún vai. “Ở đây ông sẽ thấy nó khắp nơi.” Cô nhấn phanh và đi xuống một con hẻm ở giữa một trong những tòa nhà cũ kỹ đang bị phá và một khu đang bị đào xới.
Đáp lại cái nhìn thắc mắc của cha cô bé, cô Barton nói: “Đường tắt”.
Nhưng cha cô nhìn quanh. “Đường tắt hả?”
“Chỉ để tránh dòng giao thông ở phía nam.”
Ông nhìn quanh, nheo mắt. Rồi thốt lên: “Mẹ kiếp”.
“Cha!”, Geneva rền rĩ.
“Ta biết dãy phố này. Phía trước là đường cụt. Họ đang phá hủy một vài nhà máy cũ.”
“Không.” Cô Barton nói. “Tôi chỉ đi đường này và...”
Nhưng cha cô bé chộp lấy cần thắng tay kéo ngược lại mạnh nhất có thể, rồi quành vô lăng sang bên trái. Chiếc xe dừng lại sượt vào một bức tường gạch với âm thanh rít lên của kim loại và nhựa mài vào đá.
Chộp lấy cánh tay của cô cố vấn, ông hét lớn: “Cô ta là một nhóm với chúng, con yêu. Muốn làm hại con đấy! Ra ngoài, chạy đi!”.
“Cha, không, cha điên mất rồi! Cha không thể…”
Nhưng sự xác nhận đến ngay sau đó khi khẩu súng ngắn được rút ra từ trong túi của người phụ nữ. Cô ta chĩa nó vào ngực cha cô bé và kéo cò. Ông chớp mắt trong kinh hoàng và giật mạnh về sau, ôm chặt lấy vết thương. “Không, không”, ông thì thào.
Geneva nhảy lùi ra sau khi người phụ nữ quay khẩu súng bạc về phía cô. Ngay khi nó nổ, cha cô vung nắm đấm vào hàm người phụ nữ và làm cô ta choáng váng. Lửa và một ít thuốc súng rắc lên mặt Geneva nhưng viên đạn thì đã chệch hướng. Nó thổi bung kính sau xe thành hàng ngàn mảnh vụn nhỏ.
“Chạy đi, con yêu!”, cha cô lầm bầm và sụp xuống bảng đồng hồ trước xe.
Oánh nó đi...
Sụt sịt, Geneva bò ra ngoài cửa sổ vỡ vụn phía sau xe và rơi xuống đất. Cô cố gắng đứng dậy và bắt đầu chạy thật nhanh xuống con dốc về phía khu công trường tối tăm đang bị phá hủy.

Geneva lẩm bẩm, đang định nói rằng mình có chuyện muốn nói với ông. Cách đó một dãy phố cô có thể thấy giàn giáo nằm ở trước tòa nhà nơi cô đã làm việc và bị đuổi. Làm thế nào mà cha cô lại muốn biết rằng công việc của cô từng làm là đi tẩy sạch những hình vẽ graffiti trên các tòa nhà được sửa lại? Có thể cô thậm chí từng xóa đi vài hình vẽ của ông. Rất muốn nói với ông điều đó. Nhưng cô không cất nên lời.
Ở bốt điện thoại công cộng đầu tiên còn dùng được mà họ tìm thấy trên Đại lộ Frederick Douglass, Geneva dừng lại, rút ra vài đồng tiền lẻ. Cha cô bé đưa cho cô chiếc điện thoại của ông ấy.
“Không sao mà cha.”
“Cứ lấy dùng đi.”
Cô lờ ông, thả những đồng xu vào máy và gọi cho Lakeesha, trong khi cha cô nhét chiếc điện thoại vào túi và bước tha thẩn tới rìa đường, nhìn khu vực chung quanh như một thằng bé đứng trước khu bán kẹo ở trong một cửa hàng tạp hóa.
Cô quay đi khi nghe tiếng bạn mình nhấc máy. “A lô?”
“Tất cả xong hết rồi, Keesh.” Cô giải thích về trung tâm mua bán trang sức, về vụ đánh bom.
“Đó là những gì xảy ra ư? Khốn kiếp. Một tên khủng bố á? Thật là đáng sợ. Nhưng cậu ổn chứ?”
“Tớ ổn. Thật đấy.”
Geneva nghe thấy một tiếng nói khác, tiếng một người đàn ông, nói gì đó với bạn mình, cô ấy đang đặt tay lên che ống nói một lúc. Sự trao đổi của họ có vẻ khá nóng.
“Cậu ở đó chứ, Keesh?”
“Ừ.”
“Ai vậy?”
“Không có ai cả. Cậu đang ở đâu? Cậu không ở lại tầng hầm ấy nữa phải không?”
“Tớ vẫn ở chỗ mà tớ nói với cậu rồi đấy - với cái chú cảnh sát và bạn gái của chú ấy. Chú mà ngồi xe lăn ý.”
“Cậu đang ở đó hả?”
“Không. Tớ đang ở khu ngoại ô. Đang đến trường.”
“Bây giờ?”
“Để lấy bài tập về nhà của tớ.”
Cô gái dừng lại một chút. Rồi: “Nghe này, tớ sẽ đến gặp cậu ở trường. Muốn thấy cậu, nhóc. Khi nào thì cậu sẽ đến đó?”.
Geneva nhìn cha của mình, ở gần đó, đang đút tay vào túi quần, vẫn đang nhìn ngắm con phố. Cô quyết định không nhắc đến ông với Keesh, hay bất cứ ai khác, chỉ là chưa nói thôi.
“Để ngày mai đi, Keesh. Tớ không có thời gian bây giờ.”
“Chán quá.”
“Chà, tốt hơn là ngày mai.”
“Sao cũng được.”
Geneva nghe thấy tiếng dập máy. Tuy nhiên cô vẫn đứng im tại chỗ một lúc, chưa bước đến phía cha mình.
Cuối cùng, cô cùng ông tiếp tục hướng về phía trường
“Con biết có gì ở đó không, cách đây ba hay bốn dãy nhà?” Ông hỏi, chỉ về phía bắc. “Strivers Row. Con đã bao giờ thấy chưa?”
“Chưa”, cô lầm bầm.
Ta sẽ đưa con đến đó một lúc nào đó. Một trăm năm trước, một người phát triển khu đấy, tên là King, ông ấy đã xây ba tòa nhà lớn này và vô số các ngôi nhà khác. Ông ấy đã thuê ba trong số những kiến trúc sư giỏi nhất trong nước và mời họ tới làm việc. Những nơi thật đẹp.King Model Homes là tên thật sự nhưng chúng thật sự đắt và đẹp, đó là câu chuyện, nó được gọi là Strivers Row bởi chúng ta phải cố gắng, nỗ lực rất nhiều để có thể sống ở đó. W.C. Handy sống ở đó một thời gian. Con biết ông ấy chứ? Cha đẻ của dòng nhạc Blue. Nhà soạn nhạc thực sự từng sống. Ta có vẽ ở đó một lần. Đã bao giờ ta kể cho con chưa nhỉ? Ta phải mất đến ba mươi can sơn để vẽ đấy. Không phải là một hình vẽ nhanh đâu; ta mất hai ngày để vẽ đấy. Vẽ một bức tranh về W.C. Một nhà nhiếp ản"#phandau">Giới thiệu
CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3 CHƯƠNG 4 CHƯƠNG 5 CHƯƠNG 6 CHƯƠNG 7 CHƯƠNG 8 CHƯƠNG 9 CHƯƠNG 10 CHƯƠNG 11 CHƯƠNG 12 CHƯƠNG 13 CHƯƠNG 14 CHƯƠNG 15 CHƯƠNG 16 CHƯƠNG 17 CHƯƠNG 18 CHƯƠNG 19 CHƯƠNG 20 CHƯƠNG 21 CHƯƠNG 22 CHƯƠNG 23 CHƯƠNG 24 CHƯƠNG 25 CHƯƠNG 26 ình, đúng không? Con thay đổi những gì phải thay đổi và học cách tự hào vì những gì con không thể làm.”
Geneva nhắm chặt mắt lại và đưa tay lên mặt. Năm này rồi năm khác cô mơ về một người cha, một người mẹ - thậm chí không dám mơ có cả hai, nhưng chỉ cần một người ở đó khi cô về nhà mỗi buổi chiều, để kiểm tra bài về nhà của cô, để gọi cô dậy vào mỗi một buổi sáng. Ngay cả khi điều đó không xảy ra, khi cô cuối cùng đã quyết định tự vực dậy cuộc sống của mình bằng chính mình và bắt đầu tìm ra đường đi khỏi cái nơi này, nhưng quá khứ trói buộc và lôi cô lại.
“Nhưng đó không phải là những gì mà con muốn”, cô thì thầm. “Con muốn một điều gì đó hơn là cái mớ lộn xộn này.” Cô vẫy vẫy bàn tay mình quanh con phố.
“Ồ, Geneva, ta hiểu điều đó. Tất cả những gì ta hy vọng là có thể chúng ta sẽ có những năm yên bình ở đây, trước khi con bước chân vào cuộc sống. Hãy cho ta cơ hội để sửa lại những gì chúng ta đã làm với con, mẹ con và ta. Con xứng đáng có một cuộc sống khác... Nhưng, con yêu à, ta phải nói rằng - con có thể gọi cho ta một nơi mà con cảm thấy hoàn hảo? Những con phố được lát gạch vàng? Những nơi mà người ta yêu mến hàng xóm của mình?” ông cười và chuyển sang dùng tiếng Anh bản ngữ. “Con gọi đó là một đống lộn xộn ở đây? Chà, quá thẳng thắn. Nhưng cái đống đó ở đâu? Nó ở đâu?”
Ông đưa tay vòng qua ôm Geneva. Cô gồng lên nhưng lại không hề chống cự. Họ bắt đầu bước tới trường.
Lakeesha Scott ngồi trên chiếc ghế băng ở công viên Marcus Garvey, cô đã ở đó hơn nửa tiếng đồng hồ, sau khi trở về từ chỗ làm kế toán ở một nhà hàng trong trung tâm.
Cô châm một điếu Merit khác, nghĩ: Có những điều chúng ta làm vì ta muốn thế và những điều chúng ta làm vì ta phải làm. Những điều sống còn.
Và điều mà cô sắp làm lúc này là một trong những cái điều phải làm ấy.
Thế quái nào mà Geneva không nói rằng sau tất cả cái đống lộn xộn khỉ gió ấy, cô sẽ đi khỏi thành phố và không bao giờ quay lại?
Cô ấy sẽ đi tới Detroit hay là Bama?
Xin lỗi, Keesh, chúng ta sẽ không gặp nhau được nữa. Ý tớ là mãi mãi. Tạm biệt.
Thế thôi, và tất cả cái vấn đề khỉ gió ấy sẽ biến mất.
Tại sao, tại sao, tại sao?
Và nó thậm chí còn tồi tệ hơn là: Gen phải đi và nói với cô chính xác mình đang đi tới đâu trong một vài tiếng đồng hồ tới. Keesh không có lý do nào để vuột mất cô ấy lúc này. Ồ, cô vẫn giữ cách nói chuyện chợ búa của mình khi họ nói chuyện cách đây một lúc để Gen không biết được điều gì sắp xảy ra. Nhưng giờ, cô ngồi đây một mình, chìm vào trong nỗi buồn.
Tôi cảm thấy thật sự tồi tệ.
Nhưng không có sự lựa chọn nào.
Những điều ta làm vì ta phải làm...
Cố lên nào, Keesh nói với chính mình. Phải vượt qua. Đi nào. Phải làm thôi...
Cô dụi điếu thuốc và rời khỏi công viên, hướng về phía tây rồi sang phía bắc trên khu Malcolm X, đi qua nhà thờ này rồi nhà thờ khác. Chúng có ở khắp nơi. Nhà thờ Mt. Morris Ascension, Bethelite Community, Ephesus Adventist, Baptist - rất nhiều. Một hay hai nhà thờ Hồi giáo, một giáo đường Do Thái.
Những cửa hàng và cửa hiệu: Papaya King, một cửa hiệu bán đồ tôn giáo, một hiệu cho thuê vest tuxedo, một đại lý rút tiền bằng séc. Cô đi qua ga ra của một người du mục, chủ nhân đang ngồi bên ngoài, tay nắm chiếc đài được ghép lại với nhau bằng băng dính, sợi dây điện dài biến mất vào trong một văn phòng tối om. Ông ta vui vẻ cười với cô. Làm thế nào mà Lakeesha ghen tị với họ: một đức cha đứng trước bậc thềm bám bụi, dưới ánh đèn neon của cây thánh giá, một người đàn ông vô tư lự nhét mẩu xúc xích vào trong miếng bánh bao nhân nho đã được hấp nóng, người đàn ông béo ục ịch ngồi trên một chiếc ghế rẻ tiền, với điếu thuốc và cái micro dở hơi của ông ta.
Họ không phản bội một ai cả, cô nghĩ.
Họ không phản bội lại một trong những người bạn tốt nhất trong nhiều năm rồi.
Chộp lấy thanh kẹo cao su, nắm chặt sợi dây đeo túi với những ngón tay mập mạp được sơn màu đỏ và vàng ở móng tay. Lờ đi ba cậu nhóc người Dominica.
Pssst
Keesh thò vào trong túi và cầm lấy con dao bấm của mình. Cô gần như bật nó mở ra, chỉ để lưỡng lự nhìn chúng. Cô nhìn trừng trừng nhưng giữ nguyên con dao sắc nhọn ở đó, biết chắc rằng mình sẽ gặp phải cả đống phiền phức khi đến trường. Chả nghĩ đến nó nữa.
Pssst.”
Cô tiếp tục đi, bàn tay run rẩy mở một gói kẹo cao su. Nhét hai miếng có vị hoa quả vào miệng. Lakeesha chật vật tranh đấu để tìm lại trái tim giận dữ của mình.
Điên tiết lên đi nào. Nghĩ tới mọi thứ mà Geneva đã làm khiến mình bức tức, nghĩ tới những gì mà nó có mà mình không và không bao giờ có. Sự thật đau lòng là cô ấy quá thông minh, đến trường đều đặn mỗi ngày, luôn giữ được dáng vẻ nhỏ nhắn mà không giống với những ả điếm bị AIDS, rằng cô ấy vẫn khép chặt chân mình lại và nói với những cô gái khác những điều giống như những bà mẹ đầy lo lắng nói với con gái họ.
Làm như là cô ấy tốt hơn tất cả mọi người.
Nhưng cô ấy không như vậy. Geneva Settle chỉ là một đứa nhóc từ một gia đình mà mẹ thì nghiện và cha thì bỏ đi.
Cô ấy là một trong số chúng ta.
Bực tức với sự thật là cô ấy nhìn vào mắt ta và nói: “Cậu có thể làm được, cậu có thể làm được, cậu có thể thoát ra khỏi đây, cậu có cả thế giới ở phía trước”.
Chà, không, đôi khi chúng ta chỉ đơn giản không thể làm được. Đôi khi nó quá nhiều để chịu đựng. Ta cần sự giúp đỡ để vượt qua. Ta cần một ai đó với những đồng tiền, ai đó quan sát và giúp đỡ, bảo vệ.
Trong một khoảnh khắc, sự tức giận với Geneva sôi lên và cô tóm lấy cái dây túi thậm chí còn chặt hơn.
Nhưng cô không thể giữ được sự tức giận đó. Nỗi tức giận biến mất, bị thổi bay đi không khác thứ phấn rôm cô rắc lên mông của hai đứa em họ sinh đôi mỗi khi thay tã lót cho chúng.
Khi Lakeesha bước đi trong sự mê mụ qua Lenox Terrace hướng về phía trường học, nơi mà Geneva Settle sẽ sớm có mặt ở đó, cô nhận ra rằng mình không thể dựa vào sự tức giận hay lý do nào cả.
Tất cả những gì cô có thể dựa vào đó là sự sống còn. Đôi khi ta phải quan tâm đến chính mình và nhận lấy sự giúp đỡ mà người ta đưa ra.
Những điều mà ta làm bởi ta phải làm...
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy: CoCo, Kim Trâm Đặng, Annabelle Trần, Mi Hà, Song Mẫn Thanh Xà, Phạm Thảo
Nguồn: BachVietBooks
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 21 tháng 5 năm 2015

--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--