II. VUA GRAFFITI
CHƯƠNG 9

     ối tượng 109 có thể hoặc không phải là một kẻ tấn công tình dục nhưng không hề có mẫu DNA của hắn trong dữ liệu của CODIS.
Kết quả âm tính làm nổi bật sự thiếu sót của những manh mối trong vụ án, Rhyme trầm ngâm với sự bế tắc. Họ đã nhận được những mảnh vỡ còn lại của viên đạn, được lấy ra từ thân thể tiến sĩ Barry bởi những chuyên gia y tế, nhưng nó thậm chí còn nát vụn và tồi tệ hơn viên đạn được lấy ra từ người phụ nữ đứng gần đó, cũng chẳng có tác dụng gì hơn những mảnh trước đó cho công việc điều tra bằng IBIS hay DRUGFIRE.
Họ cũng đã nghe thông tin từ một vài người ở bảo tàng Mỹ - Phi. Tiến sĩ Barry chẳng hề đề cập với ai trong số các nhân viên về một vị khách quan tâm tới cáiTuần báo Minh họa dành cho người da màu năm 1868 ấy cả. Và cả nhật ký điện thoại của bảo tàng cũng chẳng hé lộ ra một manh mối nào hết; tất cả các cuộc gọi đều tới tổng đài trung tâm và rồi được kết nối tới các số máy lẻ, không một chi tiết nào được giữ lại. Các cuộc gọi đến và đi trên điện thoại của ông cũng không đưa ra một đầu mối nào cả.
Cooper nói với họ rằng mình đã tìm hiểu thông tin từ chủ sở hữu của hiệu Trenton Plastics, một trong những nhà sàn xuất túi nylon đựng đồ mua sắm lớn nhất nước. Người chuyên viên nhắc đến lịch sử của cái icon hình mặt cười, như người chủ công ty đã nói với anh. “Họ nghĩ rằng cái mặt cười nguyên bản được in trên hình một cái nút áo bởi một chi nhánh của công ty bảo hiểm State Mutual Insurance những năm 60 để thúc đẩy danh tiếng của công ty và như một mánh lới quảng cáo. Trong những năm 70, có hai anh em đã vẽ một khuôn mặt cười như vậy với khẩu hiệu: “Hãy vui vẻ". Một dạng hình ảnh thay thế cho biểu tượng hòa bình. Từ đó được in trên năm mươi triệu sản phẩm mỗi ngày bởi hàng chục công ty.
“Vậy thì mấu chốt của bài học này là gì?”, Rhyme lầm bầm.
“Rằng ngay cả khi nó được đăng ký bản quyền, mà không ai có vẻ là biết điều đó, có đến hàng tá công ty vẫn làm ra những chiếc túi có mặt cười. Và điều đó có nghĩa là không thể nào lần ra được dấu vết.”
Ngõ cụt...
Trong hàng tá bảo tàng và thư viện mà Cooper,
Sachs và Sellito đã hỏi, chỉ có hai báo lại rằng có một người đàn ông đã gọi tới trong một vài tuần trước hỏi về một ấn bản của Tuần báo Minh họa dành cho người da màu từ tháng 7 năm 1868. Điều này khá khích lệ bởi nó ủng hộ giả thuyết của Rhyme về việc chính cái tạp chí này là lý do mà Geneva bị tấn công. Nhưng cả hai cơ quan đều không có ấn bản đó và chẳng ai có thể nhớ tên của người đã gọi điện - nếu như hắn thậm chí đã cho họ biết tên mình. Chẳng có ai có vẻ là có bản sao của tạp chí ấy để cho họ nhìn xem nó thế nào. Bảo tàng Báo chí Mỹ - Phi ở New Haven đã báo rằng họ có đủ bộ trên vi phim nhưng nó đã biến mất.
Rhyme tỏ vẻ cau có với tin này khi chiếc máy tính đổ chuông báo và Cooper thông báo: “Chúng ta có hồi âm từ VICAP”.
Anh nhấn vào thanh công cụ và gửi email tới tất cả những máy tính trong phòng thí nghiệm của Rhyme. Sellito và Sachs chụm lại quanh một chiếc, Rhyme nhìn vào tấm màn hình phẳng của mình. Đó là một email được bảo đảm an toàn từ một thanh tra ở phòng thí nghiệm nghiên cứu hiện trường tại Queens.
Thanh tra Cooper:
Theo yêu cầu của ngài, chúng tôi đã xử lý dữ liệu mà ngài cung cấp qua cả VICAP và HITS, đã tìm ra hai thông tin phù hợp như sau:
Sự việc thứ nhất: Vụ giết người ở Amarillo, Texas. Vụ số 3451-01 (Đội biệt động Texas): năm năm trước, Charles T. Tucker 67 tuổi, một nhân viên nhà nước đã nghỉ hưu, được tìm thấy chết sau một khu mua sắm gần nhà. Ông ta bị đánh vào gáy bằng một vật cứng, được cho là nhằm đánh gục người đàn ông, rồi hành hình. Bằng một chiếc dây thừng làm từ sợi bông với một nút thắt trượt buộc quanh cổ ông ta và hung thủ ném nó lên một cành cây rồi kéo căng. Những vết cào ở cổ cho thấy nạn nhân tỉnh lại trước khi chết một vài phút.
Những yếu tố giống với Vụ 109:
+ Nạn nhân bị đánh gục với một cú đánh vào sau gáy.
+ Kẻ tình nghi mang một đôi giày cỡ 11, có vẻ là của hãng Bass. Những vết mòn không đều ở chiếc bên phải, cho thấy bàn chân có xu hướng chĩa ra ngoài.
+ Chiếc dây thừng vải bông với những vệt máu là hung khí; sợi vải giống với những gì tìm thấy ở hiện trường hiện tại.
+ Động cơ gây án được ngụy tạo. Tên giết người là một kẻ theo chủ nghĩa hình thức. Những cây nến được đặt trên mặt đất bên dưới chân và hình một ngôi sao năm cánh được vẽ trên đất. Nhưng những điểu tra về cuộc đời nạn nhân và việc ghi chép lại hồ sơ kẻ tấn công đã đưa những nhà điều tra tới kết luận rằng bằng chứng này được sắp đặt để đánh lạc hướng cảnh sát. Không một động cơ nào khác được đưa ra.
+ Không một dấu vân tay nào được tìm thấy; hung thủ đeo găng tay cao su.
Trạng thái của vụ án: vẫn còn trong thời gian điều tra.
“Vụ tiếp theo là gì?”, Rhyme hỏi.
Cooper kéo màn hình xuống.
Sự việc thứ hai: Vụ giết người ở Cleveland, Ohio. Vụ số 2002-34554F (Cảnh sát bang Ohio): ba năm trước, một doanh nhân bốn mươi lăm tuổi, Gregory Tallis, được tìm thấy đã chết trong căn hộ của mình, bị bắn đến chết.
Những yếu tố giống với vụ 109:
+ Nạn nhân bị đánh gục với một cú đánh vào sau gáy bằng một vật cứng.
+ Dấu giày của kẻ tình nghi trùng khớp với đôi giày hiệu Bass, với bàn chân phải có xu hướng chĩa ra ngoài.
+ Nguyên nhân chết là ba phát súng vào tim. Khẩu caliber, cỡ 22 hoặc 25 ly, giống với vụ án hiện tại
+ Không dấu tay có liên quan nào được tìm ra; hung thủ đeo găng tay cao su.
+ Quần của nạn nhân bị cởi bỏ và một cái chai được đưa vào trong trực tràng (phần nối với hậu môn), với một ý đồ rõ ràng là gợi ý rằng anh ta là nạn nhân của một vụ cưỡng hiếp đồng giới. Sở cảnh sát bang Ohio đã kết luận rằng hiện trường vụ án bị làm giả. Nạn nhân đã được lên kế hoạch để ra làm chứng trong một phiên tòa chống lại tội phạm có tổ chức sắp tới. Các ghi chép của ngân hàng cho thấy bên bị cáo đã rút năm mươi ngàn đô tiền mặt một tuần trước vụ án mạng. Tuy nhiên, không thể lần theo dấu vết số tiền. Các nhà chức trách cho rằng đó là tiền để thuê hung thủ giết Tallis.
Tình trạng: vẫn chưa có kết quả nhưng không còn được điều tra do bằng chứng bị thất lạc.
Bằng chứng thất lạc, Rhyme nghĩ... Lạy Chúa. Anh nhìn vào màn hình. “Những bằng chứng được dựng lên để tạo động cơ gây án không có thật - và một vụ tấn công mang hình thức nghi lễ tôn giáo giả khác.” Anh nhìn về phía quân bài tarot Người treo ngược. “Đánh ngất nạn nhân với một chiếc gậy, rồi thắt cổ hay bắn, những chiếc găng tay cao su, đôi giày Bass, bàn chân phải... Chắc chắn rằng, đó chính là đối tượng của chúng ta. Và có vẻ như hắn là một tay giết mướn. Nếu như vậy, hẳn là chúng ta sẽ có hai hung thủ: hắn và kẻ thuê hắn. Được rồi, tôi muốn tất cả những gì mà Texas và Ohio có về cả hai vụ án này.”
Cooper thực hiện vài cuộc gọi. Anh biết được rằng những nhà chức trách của Texas sẽ kiểm tra hồ sơ và trở lại với họ sớm nhất có thể. Ở Ohio, mặc dù, viên thanh tra đã xác nhận rằng hồ sơ nằm trong hàng tá những vụ án chưa được giải quyết đã bị thất lạc trong một lần chuyển sang cơ sở mới hai năm về trước. Họ sẽ tìm lại nó. “Nhưng”, người đàn ông thêm vào: “cũng không nên hy vọng quá”. Rhyme nhăn mặt và nói Cooper giục họ tìm ra nó bằng tất cả những gì có thể.
Một lát sau, điện thoại của Cooper đổ chuông và anh nghe máy. “Xin chào?... Vâng anh cứ nói đi.” Anh viết lại một vài ghi chú, cảm ơn người gọi điện và dập máy. “Đó là Sở Giao thông. Cuối cùng họ đã lần ra những giấy phép đặc biệt cho những lễ hội đường phố hoặc các hội chợ đủ lớn để phải chặn những con phố trong một vài ngày gần đây. Hai ở Queens - một là Hội láng giềng và một là Hội kín Hy Lạp. Một lễ hội Colombus ở Brooklyn và một cái khác ở Little Italy. Đó là một lễ hội lớn. Phố Mulberry.”
“Chúng ta cần cử một vài nhóm ra ngoài và xem xét cả bốn khu này.” Rhyme nói. “Kiểm tra kỹ những cửa hàng bán nhiều hàng giảm giá và những hàng thuốc sử dụng túi có mặt cười có bán bao cao su, băng dính, dao rọc giấy và sử dụng những máy tính tiền điện tử rẻ tiền hoặc những chiếc máy tính cổ lỗ sĩ. Đưa cho các đội bản miêu tả về hung thủ và xem liệu có nhân viên nào nhớ hắn không.”
Rhyme thấy Sellito cứ chằm chằm vào cái chấm nhỏ màu tối trên tay chiếc áo vest ngoài của anh ta. Anh cho rằng đó là một vệt máu khác từ vụ nổ súng buổi sáng hôm nay. Viên cảnh sát to lớn không động đậy. Bởi vì anh ta là sĩ quan chỉ huy ở đây, anh là người gọi cho ESU và đơn vị Tuần tra cũng như sắp xếp các đội tìm kiếm. Dù sao thì có vẻ như là anh ta đã không hề nghe thấy nhà tội phạm học.
Rhyme nhìn Sachs, cô gật đầu và gọi điện cho khu trung tâm thành phố để sắp xếp cho những sĩ quan cảnh sát thành lập các đội. Khi dập máy, cô nhận thấy Rhyme đang nhìn chằm chằm vào tấm bảng bằng chứng, cau mày. “Có gì không ổn à?”
Anh không trả lời ngay, nghiền ngẫm, suy nghĩ chính xác xem cái gì không ổn ở đây. Rồi anh nhận ra. Cá không có nước...
“Tôi nghĩ rằng chúng ta cần được giúp đỡ.”
Một trong những vấn đề khó khăn nhất mà những chuyên gia tội phạm đối mặt không phải là biết được khu vực sống của họ. Một nhà phân tích hiện trường chỉ giỏi khi anh ta nắm chắc về khu vực sinh sống của đối tượng tình nghi - địa lý, xã hội, lịch sử, văn hóa, công việc... mọi thứ.
Lincoln Rhyme đang nghĩ rằng anh biết quá ít về cái thế giới mà Geneva sống trong đó: Harlem. Ồ, tất nhiên là anh đã từng đọc các số liệu thống kê: Phần đông dân số được pha trộn đồng đều giữa những người da đen đến từ châu Phi (cả từ xa xưa lẫn mới nhập cư sang) và cả những người da đen lẫn da trắng đến từ các nước nói tiếng Tây Ban Nha (phần lớn là Puerto Rica, Dominica, Salvador và Mexico) tiếp theo đó là những người da trắng và một số ít người châu Á. Đói nghèo, các băng đảng, ma túy và bạo lực - được tập trung phần lớn xung quanh các dự án - nhưng hầu hết khu vực xung quanh thì nói chung là an toàn, hơn hẳn so với những phần thuộc Brooklyn, Bronx hay là Newark. Harlem có nhiều nhà thờ và có cả điện thờ Hồi giáo, các tổ chức cộng đồng và hội những phụ huynh lo lắng cho con cái mình hơn bất cứ một khu vực nào quanh thành phố. Nơi này từng trở thành tâm điểm của quyền dân sự dành cho người da đen, cả văn hóa, nghệ thuật của người da đen và người gốc Tây Ban Nha. Giờ đây, nó còn là trung tâm của một phong trào mới: vì bình đẳng về tài chính. Có hàng tá những dự án tái phát triển kinh tế hiện tại đang được thi công cũng như các nhà đầu tư thuộc mọi chủng tộc và quốc tịch đang ganh đua để đầu tư tiền vào Harlem, giành lấy những lợi thế đặc quyền của thị trường bất động sản nóng bỏng này.
Nhưng đó là những số liệu của tờ New York Times, và của Sở cảnh sát New York. Nó không hề giúp Rhyme có chút manh mối nào để hiểu được tại sao một sát thủ chuyên nghiệp lại muốn giết một cô bé học sinh ở khu vực này. Không nắm rõ được động cơ khiến việc tìm kiếm Đối tượng 109 này bị hạn chế rất lớn. Anh yêu cầu thực hiện một cuộc gọi qua điện thoại, và cái phần mềm ngoan ngoãn kết nối anh tới một số điện thoại tại văn phòng FBI trong thành phố.
“Dellray nghe.”
“Fred, Lincoln đây. Tôi cần thêm giúp đỡ.”
“Anh chàng của tôi ở dưới đó có giúp được gì cho anh không?”
“Có chứ, chắc chắn là thế rồi. Cả ở Maryland nữa.”
“Thật vui khi biết điều đó. Đợi một chút. Để tôi xem còn ai khác ngoài đó không.”
Rhyme đã từng đến văn phòng của Dellray một vài lần. Văn phòng của viên đặc vụ da đen cao lênh khênh trong tòa nhà liên bang chất đầy sách văn học và khoa học bí mật, cũng như những cái giá treo áo đầy những bộ quần áo đủ mọi kiểu mà anh ta có thể mặc để cải trang, mặc dù không còn làm nhiều công việc nghiên cứu ở thực địa nữa. Nực cười là, trên những giá treo quần áo đó, bạn có thể tìm thấy bộ vest anh em nhà Brooks FBI và những chiếc áo sơ mi trắng với cà vạt kẻ sọc. Trang phục thường thấy ở Dellray là - nói một cách tế nhị - khá kỳ cục. Những bộ trang phục thể thao đi bộ và áo nỉ cùng với những chiếc áo khoác thể thao, với tông ưa thích là màu xanh lá cây, xanh da trời và vàng. ít nhất thì anh tránh đội mũ, bởi nó có thể khiến anh giống như một tên ma cô bước ra từ bộ phim khai thác về chủ đề người da đen trong những năm 70.
Khi viên đặc vụ quay trở lại với chiếc điện thoại, Rhyme hỏi: “Vụ đánh bom thế nào rồi?”.
“Thêm một cuộc gọi nặc danh sáng nay nữa, về Tòa lãnh sự Israel. Giống như tuần trước. Chỉ duy nhất tai mắt của tôi - thậm chí cả những cậu bé vàng - là chẳng thể nói chắc chắn với tôi được dù chỉ một điều nho nhỏ. Nó khiến tôi tức điên lên được. Dù sao thì, anh đang có vấn đề gì?”
“Vụ án đưa chúng tôi tới Harlem. Anh có làm việc ở đó nhiều không?”
“Tôi có dạo qua đó đôi lần. Nhưng tôi không phải là một từ điển bách khoa toàn thư. Sinh ra và lớn lên ở BK.”
“BK?”
“Brooklyn, tên ban đầu của làng Breuckelen, mang lại cho chúng ta sự ưu đãi của công ty Dutch West India trong những năm 1640. Thành phố chính thức đầu tiên của tiểu bang New York, nếu anh muốn biết nó là gì. Quê hương của Walt Whitman. Nhưng anh sẽ không mất cả chục phút đồng hồ chỉ để nói chuyện phiếm nhỉ.”
“Anh có thể đi ra ngoài và tìm hiểu chút gì đó được không?”
“Tôi sẽ cải trang và ra xem. Nhưng tôi không thể hứa được rằng mình sẽ giúp được nhiều đâu đấy.”
“Ừm, Fred, anh có một lợi thế hơn tôi, tới mức hòa nhập với khu ngoại ô thành phố.”
“Rồi, rồi, rồi - cái mông tôi không ngồi trên cái xe lăn màu đỏ chóe nào cả.”
“Hãy coi như đó là hai lợi thế của anh”, Rhyme đáp lời, và mặt anh đang tái đi như mái tóc vàng của chàng lính trẻ Pulaski.
Những bức thư khác của Charles Singleton được gửi đến từ Geneva.
Chúng không được cất giữ tốt lắm theo năm tháng và đã mờ nhạt và dễ vụn. Mel Cooper cẩn thận đặt những lá thư vào giữa hai tấm nhựa mỏng trong suốt, sau khi xử lý hóa học những nếp gấp để bảo đảm rằng tờ giấy sẽ không bị rách vụn.
Sellito bước về phía Cooper: “Chúng ta có gì nào?”.
Nhà khoa học hình sự tập trung chiếc máy quét quang học vào bức thư đầu tiên và nhấn vào nút công cụ trên máy tính. Hình ảnh hiện ra trên một vài chiếc máy tính trong căn phòng.
Violet thương yêu nhất của anh,
Anh có mấy phút để viết cho em vài lời trong cái nóng nực và sự yên ả của buổi sáng sớm Chủ nhật này. Đơn vị của bọn anh, Trung đoàn New York thứ Ba mươi mốt, đã đến sau một quãng đường thật dài từ khi những chàng lính trẻ non nớt kinh nghiệm tụi anh tập hợp trên đảo Hart. Quả thật, giờ đây bọn anh đang tham gia vào một nhiệm vụ trọng yếu là truy đuổi Tướng Robert E. Lee[1], đội quân của ông ta đã rút lui sau khi bị đánh bại tại Petersburg, Virginia, ngày mùng hai tháng Tư.
[1] Đại tướng thống lĩnh Quân đội Liên minh miền Nam trong Nội chiến ở Hoa Kỳ.
Ông ta giờ đây lại nổi lên với đội quân ba mươi ngàn người, ở trung tâm Liên Bang, và quân của ông ta đã thất bại trước trung đoàn của bọn anh, cùng với những đơn vị khác, để giữ chặt phòng tuyến phía tây, khi ông ta cố gắng trốn chạy, mà chắc chắn là ông ta phải trốn chạy, bởi cả tướng Grant và tướng Sherman đang đè bẹp ông ta bởi quân số lớn hơn rất nhiều.
Khoảnh khắc lúc này đây là sự yên ắng trước cơn bão và bọn anh đang tập hợp ở một trang trại lớn. Những người nô lệ với đôi chân trần đứng xung quanh, nhìn bọn anh và đang mặc những bộ quần áo sợi bông của người da đen. Một vài trong số họ chẳng nói gì hết, nhưng tỏ vẻ kính trọng một cách tuyệt đối. Những người khác thì vô cùng hân hoan.
Cách đây không lâu, chỉ huy của bọn anh đã đến đây, bước xuống ngựa và nói về kế hoạch trận đánh ngày hôm ấy. Rồi ông ấy nói, từ trong trí nhớ, những lời từ ngài Frederick Douglass mà anh nhớ như thế này: “Một khi để cho một người nô lệ da đen đặt lên mình chữ ‘U.S.’, con đại bàng trên những chiếc cúc áo, súng trên vai và đạn trong túi, sẽ chẳng một ai trên trái đất này có thể phủ nhận việc anh ta đã giành được quyền làm một công dân ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ."
Rồi ông ấy chào bọn anh một cách nghiêm trang và nói rằng đó là niềm vinh dự của ông ấy khi được cống hiến cho đất nước cùng với bọn anh trong chiến dịch đã có sự ủng hộ của Chúa này để thống nhất lại dân tộc mình.
Tiếng hô vang dậy khắp trung đoàn số Ba mươi mốt, những âm thanh mà trước đây anh chưa từng nghe thấy.
Và giờ đây, em yêu ạ, anh nghe thấy tiếng trống xa xa và tiếng những quả đạn pháo hai kilogram và bốn kilogram, báo hiệu trận đánh bắt đầu. Liệu đây có phải là những lời cuối cùng anh được nói với em từ phía bên này của dòng sông Jordan, hãy biết rằng anh yêu em và con trai của chúng ta hơn tất cả những từ ngữ có thể diễn đạt điều đó. Hãy giữ vững và bám chặt vào trang trại, hãy giấu bí mật về việc chúng ta nói dối rằng mình là những người chăm sóc khu đất, chứ không phải chủ, và từ chối mọi lời đề nghị mua lại mảnh đất. Anh hy vọng mảnh đất sẽ được nguyên vẹn đến tay con trai mình và con cái của nó; công việc thì lúc thăng lúc trầm, thị trường tài chính thì bất ổn, nhưng đất đai là sự vĩnh hằng của Chúa - và trang trại sẽ mang lại sự kính trọng trong con mắt của những người mà lúc nầy đây không hề tôn trọng điều đó đối với chúng ta. Đó chính là sự cứu rỗi cho con cháu chúng ta, và cho các thế hệ sau đó. Giờ đây, em yêu dấu, anh lại phải một lần nữa cầm khẩu súng lên và làm như những gì mà Chúa đã đánh cược, để bảo đảm cho sự tự do của chúng ta và duy trì đất nước thiêng liêng của mình.
Tình yêu vĩnh hằng của em,
Charles 9 tháng Tư, 1865, Appromattox, Virginia
Sachs nhìn lên. “Phù. Đúng là một câu chuyện mà ta vẫn chẳng đi đến đâu.”
“Không hẳn là thế.” Thom nói.
“Ý anh là sao?”
“À, chúng ta biết họ đã giữ vững được chiến tuyến của mình.”
“Như thế nào?”
“Bởi ngày mùng 9 tháng 4 là ngày quân miền Nam đầu hàng.”
“Tôi không thực sự quan tâm lắm đến cuốn Lịch sử 101[2] ấy.” Rhyme nói. “Tôi chỉ muốn biết về cái bí mật này thôi.”
[2] History 101 là một tiểu thuyết của BBC Books được viết bởi Mags L Halliday dựa trên series chương trình ti vi khoa học viễn tưởng của Anh Doctor Who.
“Điều đó nằm trong lá thư này”, Cooper nói, quét lá thư thứ hai. Anh đặt nó lên trên chiếc máy quét.
Violet thương yêu nhất của anh,
Anh nhớ em, em yêu ạ, cả Joshua bé nhỏ của chúng ta nữa. Anh như được tiếp thêm sinh lực khi biết rằng chị gái của em đã vượt qua được trận ốm sau khi sinh cháu và rất biết ơn Chúa bởi em đã có mặt bên chị ấy suốt thời gian khó khăn này. Tuy nhiên, anh nghĩ rằng tốt nhất em nên ở lại Harrisburg một thời gian. Đây là khoảng thời gian then chốt và nguy hiểm, anh cảm nhận được, còn hơn cả những gì đã diễn ra trong suốt chiến tranh ly khai.
Đã quá nhiều chuyện xảy ra trong tháng em đi vắng. Cuộc đời anh đã thay đổi biết bao nhiêu, từ một người nông dân bình dị và một thầy giáo làng tới anh hiện tại! Anh đã tham gia vào những vấn đề mà thực sự là khó khăn, nguy hiểm và, anh phải nói là, sống còn cho quyền lợi của những người như chúng ta.
Đêm nay, anh và đồng đội sẽ lại gặp nhau ở Galloxvs Heights, cuộc gặp diễn ra ở bên cạnh một tòa lâu đài đang bị vây hãm. Những ngày dài vô tận, và hành trình thì đầy mệt mỏi. Cuộc đời của anh bao gồm cả những thời khắc gay go gian khổ, đến rồi đi dưới sự che chở của màn đêm, và tránh cả những kẻ có thể làm hại mình, có quá nhiều người như vậy - và không chỉ những người nổi loạn cũ; cũng có rất nhiều người ở phương bắc có thái độ thù địch với sự nghiệp của chúng ta. Anh vẫn nhận được sự đe dọa thường xuyên, có những kẻ thì giấu mặt, kẻ thì trắng trợn.
Một cơn ác mộng khác đã dựng anh thức dậy sáng sớm hôm nay. Anh không nhớ nổi những hình ảnh quấy rầy giấc ngủ của mình, nhưng sau khi tỉnh lại, anh không thể nào quay trở lại giấc ngủ một cách thoải mái, ngon lành. Anh cứ nằm thao thức cho đến bình minh, suy nghĩ về những khó khăn biết bao nhiêu khi giữ bí mật này trong lòng mình. Bởi vậy anh khao khát được nói nó ra với thế giới, nhưng anh biết mình không thể. Anh không có một chút nghi ngờ về hậu quả là một tấn bi kịch khi chuyện này được tiết lộ.
Hãy thông cảm cho giọng điệu u sầu của anh. Anh nhớ em và con, và anh đang mệt mỏi khủng khiếp lắm rồi. Ngày mai có thể thấy sự tái sinh của hy vọng. Anh cầu nguyện cho điều đó xảy ra.
Yêu em Charles
Mùng 3 tháng 5 năm 1867
“Ừm”, Rhyme trầm ngâm, “ông ấy nói về bí mật. Nhưng nó là cái gì? Nhất định phải có liên quan đến những cuộc họp ấy ở trên Gallows Heights. ‘Quyền lợi của những người như chúng ta.’ Quyền dân sự hay là chính trị. Ông ấy cũng nhắc đến nó ở trong lá thư thứ nhất nữa... Gallows Heights cái khỉ gió gì vậy?”.
Đôi mắt của anh liếc sang quân bài tarot Người treo ngược, treo lơ lửng trên cái giá treo cổ bằng bàn chân.
“Tôi sẽ tìm kiếm nó”, Cooper nói và lên mạng. Một lát sau anh nói: “Đó là một vùng lân cận Manhattan thế kỷ XIX, ở mạn phía tây, tập trung quanh đường Bloomingdale và phố 18. Bloomingdale đã thành Boulevard và rồi Broadway. Anh ngước mắt lên nhìn với đôi lông mày nhướn cao. Không quá xa chỗ này lắm”.
“Gallows với một dấu móc lửng à?”
“Không dấu móc lửng nào hết. Ít nhất trong tiêu đề tôi tìm thấy.”
“Còn gì nữa về nó không?”
Cooper nhìn một lượt, xem xét trang web lịch sử xã hội. “Một vài điều. Bản đồ của năm 1872”. Anh quay màn hình về phía Rhyme, Rhyme đang nhìn nó, nhận thấy rằng vùng lân cận ấy bao trùm cả một diện tích lớn. Có một vài khu bất động sản được sở hữu bởi những gia đình tài phiệt lâu đời ở New York cũng như hàng trăm những căn nhà và căn hộ nhỏ khác.
“Này, nhìn này, Lincoln”, Cooper nói, chỉ vào một phần bản đồ gần khu Central Park. “Đó là khu vực của anh. Chính là chỗ chúng ta hiện tại. Là một cái đầm lầy từ hồi ấy.”
“Thú vị đây”, Rhyme lẩm bẩm một cách châm chọc.
“Nguồn thông tin tham khảo duy nhất khác là câu chuyện trên tạp chí Timestháng trước về việc hiến tặng một kho lưu trữ ở tổ chức Sanford - đó là một căn biệt thự lớn và cổ kính trên phố 81
Rhyme nhớ lại về một toà nhà lớn có kiến trúc thời Victoria nằm bên cạnh khách sạn Sanford - theo phong cách Gothic, cổ kính như bị ma ám và gợi nhớ lại căn biệt thự Dakota, nơi mà John Lenon bị giết.
Cooper tiếp tục: “Người đứng đầu của tổ chức này, William Ashberry, đã có một bài phát biểu trong buổi lễ. Anh ta đã nhắc đến việc khu vực Upper West Side thay đổi như thế nào trong những năm qua từ khi nó được biết đến như là Gallows Heights. Nhưng đó là tất cả. Không có gì đặc biệt”.
Có quá nhiều điểm không liên quan đến nhau, Rhyme ngẫm nghĩ về điều đó. Rồi máy tính của Cooper lại kêu lên một lần nữa, báo hiệu một email mới. Ạnh ta đọc nó rồi nhìn về phía đội phá án. “Nghe này. Nó là thông tin về Tuần báo Minh họa dành cho người da màu. Người phụ trách thư viện của Đại học Booker T. Washington ở Philly mới gửi cho tôi. Thư viện từng có một bộ đầy đủ của tờ tạp chí trong cả nước. Và...”
“Đã từng là sao?” Rhyme cáu kỉnh cắt ngang. “Thế quái nào là ‘đã từng’?”
“Tuần trước, một vụ hỏa hoạn đã phá hủy căn phòng chứa những tài liệu này.”
“Báo cáo về vụ phóng hỏa này nói gì?”, Sachs hỏi. “Không được coi là một vụ cố ý gây hỏa hoạn. Nó có vẻ như là do bóng đèn nổ, và bắt lửa vào vài tờ báo. Không có ai bị thương cả.”
“Chết tiệt, nếu đây không phải một vụ cố ý gây hỏa hoạn. Có ai đó làm điều này. Vậy thì người phụ trách này có gợi ý nào về nơi chúng ta có thể tìm...”
“Tôi đang định tiếp tục.”
“À, tiếp tục đi.”
“Ngôi trường có chính sách là quét chụp tất cả những gì họ có trong kho lưu trữ và lưu lại trên file PDF.”
“Có phải chúng ta đang đến gần tới một thông tin tốt không nhỉ, Mel? Hay là anh chỉ đùa cợt thôi đấy?” Cooper nhấn vào những chiếc nút khác. Anh ra hiệu về phía màn hình. “Nó đây - ngày 23 tháng 7 năm 1868, Tuần báo Minh họa dành cho người da màu.”
“Anh không nói. Nào, đọc cho mọi người nghe,
Mel. Đầu tiên là: ông Singleton đó chết đuối trên sông Hudson đúng hay không?”
Cooper gõ phím và một khắc sau anh đẩy cặp kính lên sống mũi mình, nghiêng về phía trước và nói: “Đây rồi. Tiêu đề là: ‘Một nỗi nhục, ghi chép về tội lỗi của một kẻ đã từng là nô lệ - Charles Singleton, cựu binh Nội chiến, phản bội lại sự nghiệp của những người da đen chúng ta bằng một sự vụ đầy tai tiếng’”.
Tiếp tục với những dòng chữ, anh đọc:
Vào thứ Ba, ngày 14 tháng 7, lệnh bắt giữ Charles Singleton, một người từng là nô lệ, cựu binh của Chiến tranh Ly khai, được thông qua bởi tòa án New York, với lời buộc tội ông ta đã lấy trộm một lượng lớn vàng và tiền từ Quỹ giáo dục Quốc gia hỗ trợ những nô lệ tự do nằm trên phố 23 ở Manhattan, New York.
Ông Singleton đã trốn tránh mạng lưới truy bắt của cảnh sát trên khắp thành phố, và được cho là đã trốn thoát, có khả năng là về Pennsylvama, nơi chị gái vợ và gia đình bà ta sống.
Tuy nhiên, vào buổi sáng sớm thứ Năm ngày Mười sáu, ông ta đã bị phát hiện bởi một viên cảnh sát khi đang tìm đường chạy đến cầu tàu trên dòng sông Hudson.
Viên cảnh sát đã phát báo động và ông Singleton bỏ chạy. Cảnh sát đó đã đuổi theo.
Cuộc truy bắt nhanh chóng kéo theo hàng tá cảnh sát và những người công nhân, người nhặt rác Ireland đang thực hiện trách nhiệm công dân của mình là tóm lấy kẻ ăn trộm (với lời xúi giục bởi năm đồng vàng để ngăn kẻ xấu này lại). Hướng trốn chạy của ông ấy là xuyên qua những con hẻm tối tăm ngang dọc của khu ổ chuột bên sông.
Ở chỗ những bức tranh trên phố 23, ông Singleton trượt chân ngã. Một cảnh sát cưỡi ngựa ập đến và có vẻ như ông ta sẽ bị tóm lại. Ông đã lấy lại được thăng bằng và thay vì thú nhận tội lỗi của mình, như một người đàn ông dũng cảm sẽ làm, ông tiếp tục cuộc trốn chạy hèn nhát của mình.
Trong một thời gian ngắn, ông đã tránh được những kẻ truy bắt. Nhưng khoảnh khắc đó không kéo dài lâu. Một người giao hàng da đen trên mái hiên đã nhìn thấy người cựu nô lệ và cầu xin ông hãy dừng lại, nhân danh công lý, quả quyết rằng ông ta đã nghe tới hành động ngu ngốc của Singleton và quở trách ông vì đã gây ra nỗi ô nhục cho những người da màu trên khắp đất nước. Ngay sau đó một người dân, Walker Loakes, đã ném một hòn gạch về phía Singleton nhằm đánh ngã ông. Tuy nhiên, ông Singleton đã tránh được cú ném và hét lên khẳng định sự vô tội của mình, tiếp tục trốn chạy.
Người cựu nô lệ với thân thể cường tráng nhờ công việc lao động trong một vườn táo chạy nhanh như gió. Nhưng người đàn ông tên Loakes kia đã báo với một cảnh sát cưỡi ngựa về việc trông thấy người cựu nô lệ và, ở cầu tàu gần phố 88, gần trụ sở thuyền kéo, con đường trốn chạy của ông ẩy bị chặn lại bởi một đội cảnh sát cần mẫn. Ông ấy dừng lại ở đó, kiệt sức, dựa vào tấm bảng hiệu của công ty Vận chuyển Swiftsure. Ông ấy bị thúc giục yêu cầu đầu hàng bởi người chỉ huy cuộc rượt đuổi trong suốt hai ngày qua, Thám tử William P. Simms, người chĩa khẩu súng ngắn về phía tên trộm.
Tuy nhiên, vừa tìm kiếm một lối thoát liều mạng, vừa cố thuyết phục rằng những tội ác của mình là do bị vu oan và mong muốn kết thúc cuộc đời, ông Singleton, lưỡng lự một chút rồi nhảy xuống dòng sông, nói những lời mà không ai có thể nghe thấy được.
Rhyme ngắt lời: “Đó là đoạn mà Geneva đã đọc tới trước khi cô bé bị tấn công. Quên cuộc Nội chiến đi, Sachs. Đây mới là những gì chúng ta vẫn chưa rõ. Tiếp tục đi”.
Ông ấy biến mất dưới những con sóng và các nhân chứng thì chắc chắn rằng ông ấy đã bỏ mạng. Ba cảnh sát điều khiển một chiếc thuyền nhỏ từ một cầu tàu gần đó và chèo dọc theo những cầu tàu để xác định số phận của người đàn ông da đen.
Cuối cùng họ đã tìm thấy ông ấy, choáng váng sau cú nhảy, ôm chặt một mảnh gỗ trên sông và, với sự cảm động mà nhiều người cho rằng được sắp xếp, gọi tên vợ và con trai.
“Ít nhất thì ông ấy vẫn sống”, Sachs nói. “Geneva hẳn sẽ rất vui vì điều này.”
Ông ấy được một bác sĩ chăm sóc, bị mang đi và đưa ra phiên xét xử, được tổ chức vào một ngày thứ Ba. Ở tòa, ông ấy đã bị chứng thực là ăn trộm một số lượng lớn không thể tưởng tượng nổi gồm tiền và những đồng vàng trị giá tới ba mươi ngàn đô.
“Đó là điều mà tôi đang nghĩ’, Rhyme nói. “Rằng động cơ ở đây là số của cải bị mất. Trị giá hiện tại là bao nhiêu?”
Cooper đóng cửa sổ có bài báo về Charles Singleton trên máy tính và mở cửa sổ tìm kiếm trên mạng, nhấn những con số vào. Anh nhìn lên từ những tính toán của mình, “Hiện tại, nó sẽ trị giá khoảng tám trăm ngàn”.
Rhyme lẩm bẩm: “Không thể tưởng tượng được. Được rồi. Tiếp tục nào”.
Cooper tiếp tục:
Một người gác cổng ở bên kia phố trụ sở của Quỹ nô lệ tự do đã nhìn thấy ông Singleton tìm đường vào văn phòng bằng cửa sau và rời đi hai mươi phút sau đó, mang theo hai chiếc túi lớn. Khi người quản lý của Quỹ đến cơ quan sau đó, theo lệnh triệu tập của cảnh sát, thì được cho biết chiếc két Exeter Strongbow đã bị phá vỡ bởi một chiếc búa và một thanh xà beng, thứ được nhận dạng là thuộc sở hữu của bị cáo, được tìm thấy ở gần tòa nhà sau đó.
Hơn nữa, bằng chứng cho thấy rằng, ông Singleton đã lấy lòng tin của mọi người, tại những buổi họp ở khu vực Gallows Heights, với những nhân vật có tiếng tăm như Charles Sumner, Thaddeus Stevens cùng với Frederick Douglass và con trai Lewis Douglass. Charles giả vờ góp sức cùng những người cao quý này trong việc xúc tiến đưa ra các quyền của những người da đen trước Quốc hội.
“À, những buổi họp mà Charles nhắc đến trong bức thư của ông ấy. Đó là về các quyền dân sự. Và đó hẳn phải là những đồng đội mà ông ấy nhắc đến. Nghe có vẻ là những nhân vật khá lớn nhỉ. Gì nữa?”
Tuy nhiên, động cơ của ông trong việc giúp đỡ những nhân vật quan trọng này, theo vị công tố viên có thẩm quyển, không phải là để cống hiến cho sự nghiệp của những người da đen, mà để tìm hiểu về Quỹ và những nơi cất giấu mà ông ta có thể ăn trộm được.
“Đó có phải là bí mật không?”, Sachs hỏi.
Tại phiên xét xử của mình, ông Singleton vẫn giữ im lặng trước những cáo buộc này, trừ việc đưa ra một vài lời chối tội chung chung và nói rằng ông ấy rất yêu vợ và con trai.
Đại úy Simms đã tìm ra phần lớn của cải bị lấy trộm. Người ta cho rằng Singleton đã bí mật cất giấu chỗ còn lại trị giá vài nghìn đô ở một nơi kín đáo và từ chối tiết lộ vị trí đó. Không có chút nào trong số tài sản còn sót này được tìm ra, trừ vài trăm đồng tiền vàng được phát hiện có trên người ông Singleton khi bị bắt.
“Vậy là có một giả thuyết về kho báu bị chôn giấu”, Rhyme lẩm bẩm. “Quá tệ. Tôi thích rồi đấy.”
Lời buộc tội được đưa ra nhanh chóng. Theo phán quyết, thẩm phán yêu cầu người cựu nô lệ trả lại phần còn lại của số tiền đã đánh cắp, tuy nhiên ông ấy vẫn từ chối không nói ra địa điểm của nó, vẫn khăng khăng khẳng định sự vô tội của mình và quả quyết rằng những đồng vàng được tìm thấy trên người là do đã được đặt vào đồ đạc sau khi ông bị bắt. Theo đó, vị thẩm phán với trí thông minh của mình đã ra lệnh rằng những gì thuộc về phạm nhân sẽ bị tịch thu và bán để bồi thường cho chỗ bị mất, và án phạt dành cho phạm nhân là phải ngồi tù năm năm.
Cooper ngẳng lên. “Đó là toàn bộ bài báo.”
“Tại sao một kẻ nào đó lại phải giết người chỉ để chôn giấu câu chuyện này?”, Sachs hỏi.
“Đúng, quả là một câu hỏi lớn...” Rhyme nhìn lên trần nhà. “Vậy chúng ta biết gì về Charles? Ông ấy là một thầy giáo và là một cựu binh Nội chiến, sở hữu và làm việc trên một trang trại ở khu phía bắc của bang, bị bắt và bị buộc tội ăn trộm, có một bí mật mà có thể dẫn tới những hậu quả bi thảm nếu như nó được biết đến, đi tới những buổi họp bí mật ở Gallows Heights, tham gia vào cuộc vận động dân quyền cũng như thân thiết với một vài chính trị gia lớn và những người hoạt động cho dân quyền lúc bấy giờ.”
Rhyme lăn chiếc xe tới gần màn hình máy tính, xem xét bài báo. Anh không thấy một sự liên quan nào giữa những sự kiện và Nghi phạm 109.
Điện thoại của Sellito kêu. Anh ta nghe một lúc. Lông mày nhướn lên. “Được rồi. Cảm ơn.” Anh ta ngắt máy và nhìn Rhyme. “Đây rồi!”
“‘Đây rồi’ là sao chứ?”, Rhyme hỏi.
Sellito nói: “Đội dò hỏi thông tin ở Little Italy - nửa dãy phố từ lễ hội Columbus Day - mới tìm ra một cửa hàng bán giảm giá trên phố Mulberry. Nhân viên bán hàng có nhớ ra một người đàn ông da trắng, tầm bốn mươi tuổi có mua tất cả những thứ được tìm thấy trong chiếc túi của hung thủ một vài ngày trước. Cô ấy nhớ ra hắn ta bởi chiếc mũ”.
“Hắn đội mũ?”
“Không, hắn mua một cái mũ. Một chiếc mũ trùm. Lý do cô ấy nhớ bởi vì hắn đã đội thử chiếc mũ và kéo nó trùm qua mặt. Cô ấy nhìn thấy điều đó qua gương an ninh và nghĩ rằng hắn chuẩn bị cướp cửa hàng. Nhưng rồi hắn tháo chiếc mũ ra, nhét nó vào giỏ với những thứ khác và trả tiền rồi đi.”
Hẳn đó chính là vật có giá 5,95 đô la bị thiếu mất trên tờ hóa đơn. Đeo thử chiếc mũ trùm để bảo đảm rằng nó có thể làm một chiếc mặt nạ. “Đó cũng có khả năng là vật hắn dùng để lau sạch các dấu tay của mình. Cô ấy có biết tên hắn không?”
“Không. Nhưng cô ấy có thể miêu tả hắn khá rõ.” Sachs nói: “Chúng ta sẽ thực hiện một bức tranh vi tính tái dựng chân dung và đưa nó cho mọi người”. Chộp lấy chiếc túi của mình, cô nhận ra viên thanh tra to lớn không đi cùng mình khi cô dừng lại ở cửa. Cô dừng lại. Nhìn ra sau. “Lon, anh có đi cùng không?” Sellito có vẻ như không nghe thấy. Cô nhắc lại câu hỏi và viên thanh tra chợp chợp mắt. Anh ta bỏ tay xuống khỏi chiếc má đã bị chà đỏ ửng. Và nhe răng cười. “Xin lỗi. Tất nhiên rồi. Đi tóm cổ thằng khốn này thôi.”
Bảng bằng chứng, hồ sơ vụ 109:
Hiện trường Bảo tàng Mỹ - Phi
+ Gói đồ hiếp dâm:
- Lá bài tarot, số mười hai trong bộ bài, Người treo ngược, có nghĩa là sự tìm kiếm tâm linh.
- Chiếc túi có hình mặt cười.
- Quá chung chung để lần tìm.
- Dao rọc giấy.
- Bao cao su Trojan.
- Băng dính.
- Dầu thơm mùi hoa nhài.
- Vật không xác định, giá 5,95 đô. Có khả năng là chiếc mũ trùm.
- Hóa đơn, cho thấy cửa hàng nằm ở thành phố New York, cửa hàng tạp hóa giảm giá hoặc một hàng dược phẩm.
- Nhiều khả năng được mua từ một cửa hàng trên phố Mulberry, Little Italy. Hung thủ được nhận dạng bởi nhân viên bán hàng.
+ Dấu tay:
- Nghi phạm đeo găng tay cao su.
- Dấu tay trên gói đồ thuộc về một người có bàn tay nhỏ, không có dữ liệu trong hệ thống IAFIS. Nhiều khả năng là của nhân viên bán hàng.
+ Dấu vết:
- Sợi thừng vải bông, một vài sợi có vết máu người. Từ dây để thắt cổ?
- Không có nhà sản xuất.
- Gửi tới CODIS.
- Không tìm thấy DNA trùng khớp ở CODIS.
+ Bỏng ngô và kẹo bông với những dấu vết nước đái chó.
- Liên hệ tới các hội chợ hay lễ hội trên phố? Kiểm tra cùng với Bộ phận Giao thông về các giấy phép gần đây. Các cảnh sát đi nắm bắt thông tin từ các hội chợ trên phố; theo từng thông tin mà bên Giao thông cung cấp.
- Xác nhận đó là lễ hội ở Little Italy.
+ Vũ khí:
- Dùi cui hoặc một chiếc côn.
- Khẩu súng có ổ thuốc lớn, hạt kích nổ vành, kiểu súng ngắn 22 ly, thuộc Quân đội Bắc Mỹ - loại - Black Widow hoặc Minimaster.
- Những viên đạn tự chế, đầu đạn chứa những chiếc kim. Không thấy dữ liệu trong IBIS hay DRUGFIRE.
+ Động cơ:
- Chưa chắc chắn. Hiếp dâm chỉ là động cơ giả.
- Động cơ thật sự có thể là để lấy đi tấm vi phim của bài báo trên tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu ngày 23 tháng 7 năm 1868, và giết Geneva Settle vì cô quan tâm tới bài báo này bởi  một lý do chưa biết. Bài báo viết về một người tổ tiên của Geneva tên là Charles Singleton (xem thông tin bên biểu đồ bên cạnh).
- Người thủ thư - nạn nhân bị giết báo rằng có một ai đó muốn được xem bài báo.
* Yêu cầu có được nhật ký cuộc gọi của người thủ thư để kiểm tra điều này.
* Không có manh mối nào.
+ Yêu cầu cần có thông tin từ những nhân viên thư viện hoặc với những người mong muốn được thấy câu chuyện.
+ Không có manh mối nào.
- Tìm kiếm bản copy của bài báo.
* Một vài nguồn báo cáo về một người đàn ông yêu cầu cùng một bài báo. Không manh mối nào được xác nhận. Phần lớn các ấn bản đều đã mất hoặc bị phá hủy. Xác định được vị trí một ấn bản. (Xem biểu đồ bên cạnh).
* Kết luận: Geneva Settle vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm.
- Hồ sơ các vụ việc gửi tới VICAP và NCIC.
* Vụ giết người ở Amarillo, Texas, năm năm trước. Cũng có hiện trường được làm giả (làm như vụ giết người là nghi lễ tôn giáo, nhưng động cơ thật sự vẫn chưa được tìm ra).
* Vụ giết người ở Ohio, ba năm về trước. Cũng có hiện trường được làm giả (làm như đó là một vụ tấn công tình dục đồng giới, nhưng động cơ thật sự có lẽ là được thuê giết). Hồ sơ bị thất lạc. 
Hồ sơ về Nghi phạm 109
+ Nam da trắng.
+ 1m8, gần 90kg.
+ Giọng trung.
+ Sử dụng điện thoại để tiếp cận nạn nhân.
+ Mang một chiếc giày Bass cỡ 11 màu nâu sáng, khoảng ba năm hoặc hơn. Bàn chân phải hơi hướng ra ngoài.
+ Mùi hoa nhài.
+ Quần tối màu.
+ Đeo mũ trùm, màu tối.
+ Sẽ nhắm vào những người vô tội để tạo cơ hội hạ gục nạn nhân và trốn thoát.
+ Nhiều khả năng là một kẻ giết thuê.
Hồ sơ về kẻ thuê Nghi phạm 109
+ Chưa có thông tin gì lúc này.
Hồ sơ về Charles Singleton
+ Cựu nô lệ, tổ tiên của Geneva Settle. Có gia đình, một con trai. Được ông chủ cho một vườn cây ở tiểu bang New York. Làm việc với vai trò một thầy giáo. Tham gia vào cuộc vận động vì dân quyền từ rất sớm.
+ Charles bị cho là đã thực hiện một vụ ăn trộm năm 1868, chủ đề của bài báo trong tấm vi phim bị lấy trộm.
+ Một cách gián tiếp có một bí mật chưa được hé lộ. Lo lắng rằng sẽ gây ra thảm kịch nếu bí mật bị hé lộ.
+ Tham gia vào các buổi họp bí mật ở Gallows Heights gần New York.
+ Dính líu tới những hoạt động mạo hiểm?
+ Vụ án, theo tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu:
- Charles bị bắt bởi Thám tử William Simms vì ăn trộm một lượng lớn từ Quỹ Nô lệ tự do ở New York. Đột nhập vào két, nhân chứng nhìn thấy ông ta rời khỏi đó nhanh chóng. Dụng cụ dùng để gây án được tìm thấy ở gần đó. Phần lớn tiền đã không được tìm lại. Bị tuyên án năm năm tù. Không có thông tin gì về ông ấy sau khi bị tuyên án. Bị cho là tận dụng quan hệ với những nhà lãnh đạo trong cuộc vận động dân quyền thời gian đầu để tiếp cận Quỹ.
+ Thư của Charles:
- Bức thư thứ nhất, gửi tới vợ: về cuộc nổi dậy năm 1863, nhắc đến sự chống lại người da đen ở khắp tiểu bang New York, hành hình, đốt phá. Nguy cơ ảnh hưởng tới tài sản mà người da đen sở hữu.
- Bức thư thứ hai, tới vợ: Charles trong trận chiến ở Appromattox vào giai đoạn cuối cuộc Nội chiến.
- Bức thư thứ ba, tới vợ: Tham gia vào cuộc vận động quyền dân sự. Bị đe dọa vì công việc của mình. Đau khổ với bí mật.