II. VUA GRAFFITI
CHƯƠNG 16

    
iệu đó có phải là cách mà mọi việc vẫn luôn như thế?
Có phải là bọn con trai luôn luôn muốn một thứ gì đó từ ta?
Trong trường hợp của Kevin, cậu ta muốn kiến thức của cô. Chà, nhưng liệu cô có buồn và thất vọng như thế không nếu cô có tính cách giống Lakeesha và cậu ta tấn công chỉ đơn giản vì thân xác của cô không?
Không, cô nghĩ một cách đầy giận dữ. Việc đó hoàn toàn khác. Đó là một việc bình thường. Các giáo viên cố vấn nói rất nhiều về tội hiếp dâm, về việc nói không, về việc cần phải làm gì nếu một cậu bạn trai bỗng trở nên quá đòi hỏi. Cần phải làm gì sau đó, nếu nó xảy ra.
Nhưng họ chẳng bao giờ nói một từ về việc cần phải làm gì nếu như một ai đó muốn chiếm đoạt kiến thức của ta.
Chết tiệt, chết tiệt, chết tiệt!
Cô nghiến răng và lau những giọt nước mắt, ném chúng khỏi những đầu ngón tay. Quên cậu ta đi! Cậu ta là một tên khốn không ra gì. Bài kiểm tra toán - đó là tất cả những gì quan trọng nhất mình cần chú tâm.
d trên dx nhân với x mũ n bằng...
Có chuyển động ở bên trái. Geneva nhìn về hướng đó và nheo mắt vì mặt trời, thấy một bóng người đang qua đường, trong bóng của tòa nhà, người đàn ông với một chiếc mũ trùm đen trên đầu và mặc một chiếc áo khoác màu xanh tối. Hắn đang bước hướng về phía sân trường nhưng sau đó biến mất đằng sau một chiếc xe tải lớn gần đó. Suy nghĩ đáng sợ đầu tiên trong đầu cô là: cái gã ở thư viện đang đến đây tìm cô. Nhưng, không, người đàn ông này da đen. Thoải mái hơn, cô nhìn vào chiếc đồng hồ Swatch của mình. Quay trở lại vào trong.
Chỉ...
Thất vọng, cô nghĩ về những ánh mắt mà mình sẽ nhận được. Những đứa bạn của Kevin, sẽ nhìn cô bằng ánh mắt tăm tối. Những cô nàng đeo đồ lấp lánh, sẽ nhìn cô chằm chằm và cười to.
Oánh nó một trận, oánh con chó cái...
Quên hết tất cả đi. cần quái gì phải quan tâm xem chúng nó nghĩ gì? Bài kiểm tra là vấn đề quan trọng
nhất.
d trên dx nhân với x mũ n bằng n nhân x mũ n trừ một...
Khi bắt đầu quay trở lại cánh cửa ngách, cô tự hỏi liệu Kevin có bị đình chỉ không. Hay là có thể bị đuổi học. Cô hy vọng là thế.
d trên dx nhân với...
Đó là lúc cô nghe thấy tiếng bước chân kéo lê từ trên phố. Geneva dừng lại và quay đầu. Cô không nhìn rõ một ai cả, bởi ánh mặt trời chói lóa. Liệu đó có phải là gã da đen trong chiếc áo khoác màu xanh tối đang bám theo cô không?
Tiếng chân dừng lại. Cô quay đi, hướng về phía trường, đẩy đi hết mọi suy nghĩ ngoài những quy tắc đầy sức mạnh của toán học.
... bằng với n nhân x mũ n trừ một...
Đó là lúc cô lại nghe thấy tiếng bước chân, di chuyển nhanh. Có một ai đó đang dồn bước về phía trước, nhắm thẳng vào cô. Cô không thể nhìn thấy. Đó là ai? Cô giơ tay lên để che bớt cái ánh nắng gay gắt.
Và rồi nghe thấy tiếng của thanh tra Bell gọi: “Geneva! Đứng yên”.
Anh đang chạy về phía trước, với một ai đó - sĩ quan Pulaski - ở bên cạnh. “Chuyện gì xảy ra vậy? Tại sao cháu lại ra ngoài?”
“Cháu chỉ...”
Ba chiếc xe cảnh sát rít lên gần đó. Thanh tra Bell nhìn lên, hướng về phía chiếc xe tải lớn, nheo mắt trong ánh mặt trời. “Pulaski! Hắn kia kìa. Đi, nhanh lên!”
Họ đang nhìn vào cái bóng đang dần biến mất của người đàn ông cô vừa mới nhìn thấy trước đó, gã mặc chiếc áo khoác màu xanh. Hắn đang bước thật nhanh, với một chân khập khiễng, chìm vào trong con hẻm.
“Đang đuổi theo hắn đây.” Người cảnh sát lao nhanh theo hướng nghi phạm. Anh ta len qua chiếc cổng và biến mất vào con hẻm. Rồi nửa tá cảnh sát xuất hiện trong sân trường. Họ tản ra vây xung quanh Geneva và viên thanh tra.
“Chuyện gì đang xảy ra vậy?”, cô bé hỏi.
Nhanh chóng kéo cô bé về phía những chiếc xe cảnh sát, thanh tra Bell giải thích rằng họ mới nhận được tin từ một nhân viên FBI, một ai đó tên là Dellray, làm việc với Rhyme. Một trong số những người săn tin cho anh ta đã biết được việc có một người đàn ông ở Harlem hỏi về Geneva sáng hôm nay, cố tìm nơi cô học và sống. Đó là một người Mỹ gốc Phi và mặc một chiếc áo khoác kiểu quân đội màu xanh tối. Hắn từng bị bắt vì liên quan đến một vụ giết người một vài năm trước và hiện tại hắn có vũ khí. Bởi vì kẻ tấn công buổi sáng hôm nay ở bảo tàng là một gã da trắng và có thể không biết rõ về Harlem, Rhyme kết luận, hắn quyết định sử dụng một kẻ đồng phạm biết rõ khu vực xung quanh này.
Sau khi biết được điều này, thanh tra Bell đã đi vào trong lớp và phát hiện ra cô đã chuồn ra ngoài qua cửa sau. Nhưng Jonette Monroe, nữ cảnh sát chìm, đã dõi theo Geneva và theo sát cô bé. Cô đã báo cho cảnh sát biết vị trí của Geneva.
Giờ, viên thanh tra nói, họ cần phải đưa cô quay trở lại chỗ Rhyme ngay lập tức.
“Nhưng bài kiểm tra, cháu…”
“Không kiểm tra, không trường lớp cho đến khi ta tóm được gã này đã”, Bell nói với một giọng cương quyết. “Giờ, đi thôi, thưa quý cô.”
Tức giận trước sự trở mặt của Kevin, tức giận vì bị kéo vào giữa đống lộn xộn này, cô khoanh tay trước ngực. “Cháu phải làm xong bài kiểm tra này.”
“Geneva, cháu không biết ta có thể cục cằn thế nào đâu. Mục đích của ta là bảo vệ mạng sống của cháu và nếu điều đó có nghĩa là ta phải nhấc cháu lên và vác cháu tới xe của ta để bảo đảm chắc chắn thì ta sẽ làm điều đó.” Đôi mắt tối sầm, mà trước đó có vẻ là thoải mái dễ gần, thì giờ nghiêm khắc cứng rắn như những hòn đá.
“Được rồi”, cô lẩm bẩm.
Họ tiếp tục bước về phía những chiếc xe, viên thanh tra dò xét xung quanh, kiểm tra các góc tối. Cô để ý thấy bàn tay anh ta để sát bên sườn. Gần với khẩu súng. Một lúc sau, viên cảnh sát tóc vàng chạy tới chỗ họ. “Để mất hắn rổi”, anh thở dốc, cố lấy lại hơi thở. “Xin lỗi.” Bell thở dài. “Có thấy vẻ ngoài của hắn ko?”
“Da đen, cao khoảng mét tám, thân hình rắn chắc. Một chân cà nhắc. Đeo khăn trùm đầu màu đen. Không có râu. Khoảng ba mươi bảy, ba mươi tám đến tầm bốn mươi tuổi.”
“Cháu có để ý thấy gì khác không, Geneva?”
Cô lắc đầu một cách ủ rũ.
Bell nói: “Được rồi. Đi khỏi đây thôi”.
Cô trèo lên ghế sau chiếc Ford của viên thanh tra, với viên cảnh sát tóc vàng bên cạnh. Bell sang bên ghế vô lăng. Người giáo viên cố vẩn họ gặp trước đó, cô Barton, vội vàng bước tới, hơi cau mày. “Thanh tra, có chuyện gì vậy?”
“Chúng tôi cần phải đưa Geneva rời khỏi đây. Có vẻ một trong những kẻ muốn làm hại cô bé đang ở gần. vẫn là có thể, đó là tất cả những gì chúng tôi biết.”
Người phụ nữ to lớn nhìn quanh, cau mày: “Ở đây á?”.
“Chúng tôi không chắc chắn lắm. Một khả năng là tất cả những gì chúng tôi đang nói đến. Tốt nhất là nên bảo đảm an toàn.” Viên thanh tra thêm vào: “Chúng tôi cho rằng hắn đã ở quanh đây năm phút trước. Một người đàn ông người Mỹ gốc Phi, vóc dáng tầm trung. Mặc một chiếc áo khoác kiểu quân đội màu xanh tối và đeo khăn trùm đầu. Không để râu. Đi khập khiễng. Hắn đã xuất hiện ở góc bên kia sân trường, phía chiếc xe tải lớn kia. Cô có thể làm ơn hỏi xem các học sinh và giáo viên có ai nhận ra hắn không hoặc nhìn thấy gì khác không?”.
“Dĩ nhiên rồi.”
Anh cũng hỏi cô liệu có thấy một tấm băng ghi hình từ máy camera an ninh nào của trường có thể đã ghi được hình hắn. Họ trao đổi số điện thoại, rồi viên thanh tra vào vị trí sau vô lăng, khởi động máy. “Thắt dây an toàn vào mọi người. Tôi không bảo đảm rằng chúng ta sẽ có một chuyến đi yên ả đâu.”
Ngay sau khi Geneva cài dây an toàn vào, viên thanh tra nhấn chân ga và chiếc xe đảo bánh nhanh ra khỏi vỉa hè và bắt đầu chuyến đi như trên những chiếc tàu trượt trong công viên xuyên qua những con phố gồ ghề của Harlem, khi Langston Hughes - pháo đài cuối cùng của cô về sự lành mạnh và thoải mái - biến mất khỏi tầm nhìn.
Khi Amelia Sachs và Lon Sellito tổng hợp lại các bằng chứng đã thu thập được tại căn hộ của nghi phạm trên phố Elizabeth, Rhyme đang nghĩ về đồng phạm của hắn - cái gã đã tiếp cận rất gần Geneva ở trường.
Có một khả năng là hung thủ tận dụng gã này chỉ đơn giản để quan sát, trừ việc với hồ sơ phạm tội và việc có vũ khí, hắn cũng được chuẩn bị kỹ lưỡng để sẵn sàng giết Geneva. Rhyme đã hy vọng rằng hắn sẽ bỏ lại một ít dấu vết ở gần sân trường, nhưng không - đội khám nghiệm hiện trường đã kiểm tra kỹ khu vực đó thật cẩn thận nhưng không thể tìm được gì hết. Đội điều tra cũng không tìm được một nhân chứng nào trên phố đã nhìn thấy hắn hay hắn biến đi như thế nào. Có thể...
“Chào, Lincoln”, giọng một người đàn ông vang lên.
Giật mình, Rhyme ngước lên nhìn và thấy một người đàn ông đứng gần đó. Khoảng bốn mươi tuổi, đôi vai rộng, mái tóc bạc được cắt ngắn, mái cắt bằng, ông mặc một bộ vét màu xám đậm, đắt tiền.
“Bác sĩ. Tôi không nghe thấy tiếng chuông.”
“Thom ở ngoài. Cậu ấy cho tôi vào.”
Robert Sherman, bác sĩ giám sát thực hiện phương pháp chữa bệnh vật lý trị liệu của Rhyme, có một phòng khám chuyên biệt với các bệnh nhân chấn thương tủy sống. Chính ông là người đã phát triển chế độ điều trị cho Rhyme, chiếc xe đạp và chiếc máy huấn luyện vận động guồng quay, cũng như phương pháp vận động dưới nước và cả các bài tập cải thiện phạm vi vận động truyền thống mà Thom thực hiện với Rhyme.
Bác sĩ và Sachs chào nhau, rồi ông nhìn vào căn phòng thí nghiệm, nhận thấy sự bận rộn. Trên quan điểm chữa bệnh, ông vui khi thấy Rhyme đang làm việc.
Tham gia vào một công việc, ông vẫn thường nói là, cải thiện một cách đáng kể ý chí của một người và sẽ dẫn đến những thay đổi tích cực (dù ông vẫn nhấn mạnh Rhyme tránh những tình huống có thể bị nguy hiểm đến tính mạng, bởi nó gần như đã xảy ra trong một vụ án mới đây).
Ông bác sĩ thực sự có tài, tốt bụng và cực kỳ thông minh. Nhưng Rhyme chẳng có thời gian để tiếp ông ấy lúc này, bởi anh biết rằng đang có hai kẻ có vũ khí săn đuổi Geneva. Anh chào đón vị bác sĩ với một tâm trạng lơ đễnh.
“Lễ tân của tôi nói rằng cậu hủy buổi hẹn ngày hôm nay. Tôi băn khoăn không biết cậu có ổn không.”
Sự quan tâm này có thể dễ dàng được truyền đạt qua điện thoại, Rhyme nghĩ.
Nhưng bằng cách đó ông bác sĩ không thể ép Rhyme kiểm tra sóc khỏe.
Và quả thật Sherman đang áp đặt anh. Ông muốn biết rằng các bài tập có hiệu quả tốt. Không chỉ vì lợi ích của bệnh nhân mà cũng là để cho ông bác sĩ có thể hợp nhất các thông tin vào trong nghiên cứu đang thực hiện.
“Không sao, mọi thứ đều ổn cả”, Rhyme trả lời. “Chúng tôi đang xử lý một vụ án.” Anh ra hiệu về phía tấm bảng tổng hợp dữ liệu bằng chứng. Sherman nhìn nó.
Thom dừng chân ở cửa. “Bác sĩ, ông có muốn một ít cà phê hay soda không?”
“À, chúng ta không muốn lấy mất thời gian quý báu của bác sĩ.” Rhyme nói nhanh. “Bởi ông ấy biết là không có vấn đề gì cả. Tôi chắc chắn là ông ấy muốn…”
“Một vụ án?” Sherman hỏi, vẫn đang nghiên cứu tấm bảng.
Khựng lại một chút, Rhyme nói với một giọng dễ nổi cáu: “Một vụ thực sự khó nhằn. Có một gã cực kỳ xấu xa. Chúng tôi đang cố để tóm cổ gã này khi ông ghé vào”. Rhyme không hề tỏ ra muốn nhượng bộ với bác sĩ và không hề xin lỗi cho thái độ bất lịch sự của anh. Nhưng những bác sĩ hoặc các nhà trị liệu làm việc với bệnh nhân chấn thương tủy sống (SCI) đều biết rằng họ sẽ nhận được một vài “món quà đi kèm” như: tức giận, thái độ không hay và những lời đay nghiến. Sherman hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi cách cư xử của Rhyme. Ông vẫn tiếp tục kiểm tra Rhyme khi trả lời Thom: “Không, tôi không cần gì, Thom. Cảm ơn cậu. Tôi không thể ở lại lâu”.
“Ông chắc chứ?” Anh hất đầu về phía Rhyme. “Đừng để ý đến cậu ấy.”
“Không có gì.”
Nhưng dù không muốn một đồ uống, dù không thể ở lại lâu, ông vẫn ở đây, không hề có vẻ đi luôn. Thực tế, ông đang kéo một cái ghế ra và ngồi xuống.
Sachs nhìn về phía Rhyme. Anh nhìn cô một cách vô hồn và quay sang vị bác sĩ, người đang rê cái ghế đến gần hơn. Rồi ông nghiêng về trước và thì thầm: “Lincoln, cậu đã phản đối cuộc kiểm tra hằng tháng rồi”.
“Có cả một đống việc. Chúng tôi đã phải xử lý bốn vụ án. Và bây giờ là năm. Rất tốn thời gian, như ông có thể tưởng tượng... Và nhân tiện, rất thú vị. Những vấn đề độc nhất vô nhị.” Anh hy vọng ông bác sĩ sẽ hỏi một chút chi tiết, mà sẽ ít nhất làm chuyển hướng cuộc hội thoại.
Nhưng ông bác sĩ không hỏi, tất nhiên là thế. Các bác sĩ điều trị bệnh nhân chấn thương tủy sống không bao giờ mắc bẫy. Họ có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề này. Sherman nói: “Để tôi nói với cậu một điều”.
Tôi làm thế quái nào để ngăn ông bây giờ nhỉ? Rhyme nghĩ.
“Cậu đã thực hiện các bài tập của tôi tốt hơn tất cả những bệnh nhân khác. Tôi biết cậu chống lại cuộc kiểm tra bởi cậu sợ rằng nó không có hiệu quả. Tôi nói đúng chứ?”
“Không hẳn thế, bác sĩ. Tôi chỉ là bận quá.”
Làm như thể không hề nghe thấy, Sherman nói: “Tôi biết rằng cậu đang tìm kiếm những thay đổi đáng kể trong tình trạng của mình”.
Nói chuyện với bác sĩ cũng khó chịu như nói chuyện với cảnh sát vậy, Rhyme nghĩ. Anh trả lời: “Tôi cũng hy vọng thế. Nhưng nếu không, tin tôi đi, chuyện đó không là vấn đề gì cả. Tôi đã có những tiến triển về cơ bắp, cải thiện về độ loãng xương... Tim và phổi hoạt động tốt hơn. Đó là những gì tôi đạt được. Không phải là chuyển động của động cơ”.
Sherman quan sát anh từ trên xuống dưới. “Cậu thực sự cảm thấy như vậy?”
“Tất nhiên. Tuyệt đối như vậy.” Nhìn quanh, anh hạ thấp giọng và nói: “Những bài tập này không thể làm cho tôi đi lại được”.
“Không, điều đó sẽ không xảy ra.”
“Vậy thì tại sao tôi phải mong chờ một chút thay đổi nhỏ ở ngón chân út bàn chân trái của mình nhỉ? Thật vô nghĩa. Tôi sẽ thực hiện các bài tập, giữ cơ thể luôn ở trạng thái tốt nhất có thể và trong vòng năm đến mười năm, khi những người như ông mang đến với một phương pháp ghép thần kỳ hoặc nhân bản vô tính hay gì đi nữa, tôi sẽ sẵn sàng để tiếp tục bước đi một lần nữa.” Ông bác sĩ mỉm cười và vỗ vỗ tay vào chân của Rhyme, một cử động mà anh không cảm nhận được. Sherman gật đầu. “Tôi rất vui khi nghe cậu nói như vậy, Lincoln. Vấn đề lớn nhất mà tôi gặp phải là các bệnh nhân từ bỏ bởi họ nhận ra rằng tất cả các bài tập và những việc nặng nhọc không thực sự thay đổi cuộc sống của họ nhiều. Họ muốn giành được những chiến thắng to lớn hơn và những cách chữa trị. Họ không nhận ra rằng những chiến thắng nhỏ sẽ làm nên chiến thắng cuối cùng của cuộc chiến kiểu này.”
“Tôi nghĩ rằng mình đã chiến thắng rồi.”
Vị bác sĩ đứng dậy. “Tôi vẫn cần thực hiện bài kiểm tra với cậu. Chúng tôi cần dữ liệu.”
“Ngay khi mà... Này, Lon, cậu có đang nghe không đấy? Một câu thành ngữ này. Ngay khi mà những tấm bảng này được lau sạch sẽ[34]
[34] Ý Rhyme ở đây ám chì những tấm bảng bằng chứng, có nghĩa là “Khi nào xong việc thì thôi”.
Sellito, chẳng hiểu nổi Rhyme đang nói cái gì, hoặc là không cần quan tâm, nhìn lại một cách vô hồn.
“Được rồi”, Sherman nói và bước về cánh cửa. “Chúc may mắn với vụ án.”
“Chúng tôi mong muốn những điều tốt nhất”, Rhyme nói một cách hoan hỉ.
Người đàn ông của những chiến thắng nhỏ bé rời khỏi căn nhà và Rhyme ngay tức khắc quay lại với những tấm bảng ghi chứng cứ.
Sachs nhấc điện thoại, nghe một lúc và dập máy. “Đó là Bo Haumaim. Những người trong đội tiếp cận lối vào? Những người bị điện giật? Người đầu tiên bị vài vết bỏng nặng, nhưng anh ấy vẫn sống. Người thứ hai đã được trả về.”
“Cảm ơn Chúa.” Sellito nói, có vẻ như vừa được giải tòa áp lực lớn. “Đó là điều tất yếu. Cả dòng điện chạy qua cậu ta.” Anh nhắm chặt mắt một lát. “Những vết bỏng. Và cái mùi. Lạy Chúa. Tóc của cậu ta bị cháy... Tôi sẽ gửi cho cậu ta một thứ gì đó. Không, tự tôi sẽ mang đến tặng cậu ta. Có thể là những bông hoa. Anh có cho rằng cậu ta thích hoa không?”
Cái phản ứng này, giống như cách cư xử của anh ta trước đó, không phải là kiểu của Sellito. Cảnh sát có thể bị thương, và có thể bị giết, nhưng tất cả mọi người trong lực lượng đều chấp nhận sự thật đó theo cách của riêng mình. Có hàng tá cảnh sát sẽ nói: “Cảm ơn Chúa, anh ấy sống rồi”. Họ cầu nguyện và sẽ chạy đến nhà thờ gần nhất để thì thầm những lời cảm ơn. Nhưng cách của Sellito là gật đầu và tiếp tục với công việc. Không phải là hành động như thế.
“Chẳng biết được”, Rhyme nói.
Hoa?
Mel Cooper gọi: “Lincoln, ta có Đại úy Ned Seely đang chờ điện thoại”. Nhà khoa học hình sự pháp y đã nói với đội Thực thi luật pháp Texas về vụ giết người ở Amarillo mà VICAP báo là giống với sự việc xảy ra ở bảo tàng.
“Bật loa lên.”
Anh ta làm theo và Rhyme hỏi: “Xin chào, Đại úy?”.
“Vâng.” Một giọng nói rề rà đáp lời. “ông Rhyme?”
“Vâng, là tôi.”
“Chúng tôi đã nhận được yêu cầu từ người của ông về thông tin vụ Charlie Tucker. Tôi đã tìm xem có những gì nhưng không nhiều lắm. Ông cho rằng đó là cùng một hung thủ gây ra những vụ này?”
“Phương thức thực hiện giống với vụ việc mà chúng tôi có ở đây sáng hôm nay. Đôi giày của hắn cùng một hãng - và cả dấu giày nữa. Và hắn cũng để lại vài bằng chứng giả để đánh lạc hướng chúng tôi, cùng một cách bỏ lại những cái nến và những vật kỳ bí tại vụ án mạng Tucker. À, và hung thủ của chúng ta có giọng vùng phía nam. Cũng có một vụ án tương tự ở Ohio vài năm trước. Đó là một vụ giết mướn.”
“Vậy ông cho rằng có một ai đó thuê gã này để giết Tucker?”
“Có thể. Ông ta là ai?”
“Tucker? Một người bình thường. Chỉ vừa mới nghỉ hưu từ Bộ Luật pháp và Tòa án - đó là một nhân viên quản lý trại giam. Có cuộc sống gia đình hạnh phúc, đã có cháu. Không bao giờ vướng vào rắc rối. Đi đến nhà thờ đều đặn.”
Rhyme cau mày. “Ông ấy làm gì ở nhà tù?”
“Bảo vệ. Tại một trung tâm an ninh tối đa ở Amarillo... Hừm, ông nghĩ là có thể một phạm nhân đã thuê ai đó để trả thù một việc gì đó xảy ra bên trong? Lạm dụng phạm nhân, hay là gì đó như thế?”
“Có thể là vậy”, Rhyme nói. “Tucker đã từng vi phạm gì có lưu lại trong hồ sơ chưa?”
“Trong hồ sơ ở đây không có gì hết. ông có lẽ sẽ cần kiểm tra với nhà tù.”
Rhyme lấy tên của người quản lý trại giam mà Tucker từng làm việc rồi nói: “Cảm ơn Đại úy”.
“Không vẩn đề gì. Chúc mọi người một ngày tốt lành.”
Vài phút sau, Rhyme đã kết nối vói quản lý trại giam J.T. Beauchamp của Nhà tù an ninh tối đa Northern Texas ở Amarillo. Rhyme tự giới thiệu và nói rõ mình đang làm việc với Sở cảnh sát New York. “Giờ thì, Quản lý...”
“J.T. Nếu ông có thể.”
“Được rồi, J.T.” Rhyme nói rõ tình hình cho anh ta.
“Charlie Tucker? Chính là người bảo vệ bị giết. Giống kiểu hành hình Linsơ[35], hay gì gì đó. Tôi vẫn chưa làm việc ở đây lúc đó. Tucker nghỉ hưu chỉ ngay trước khi tôi chuyển về từ Houston. Tôi sẽ tìm lại hồ sơ của ông ấy. Ông giữ máy một chút nhé.” Một lát sau, viên quản lý trở lại. “Tôi đã có ở đây rồi. Không có kiến nghị nào về ông ấy, trừ một phạm nhân. Anh ta nói rằng Charlie đã quay anh ta phát điên. Khi Charlie không chịu thôi, họ có một chút ẩu đả.”
[35] Kiểu hành hình của những kẻ phân biệt chủng tộc với người da đen.
“Đó có thể là kẻ chúng ta cần tìm.” Rhyme nhận định.
“Ngoại trừ việc gã phạm nhân bị xử một tuần sau đó. Và Charlie không bị giết vào năm sau đó.”
“Nhưng có thể Tucker gây rắc rối với một phạm nhân khác. Và anh ta đã thuê một kẻ khác để trả đũa.”
“Có khả năng. Nhưng thuê một kẻ chuyên nghiệp cho việc này? Hơi phức tạp cho công việc của chúng ta ở đây.”
Rhyme có vẻ đồng tình. “Chà, có thể chính hung thủ là gã tù nhân đó. Hắn muốn săn lùng Tucker ngay khi được trả tự do, rồi dựng vụ giết người như một vụ giết hại theo nghi lễ tôn giáo. Anh có thể hỏi một vài người cai ngục hoặc các nhân viên khác không? Chúng tôi đang truy tìm một người đàn ông da trắng, khoảng bốn mươi, tầm vóc trung bình, tóc nâu sáng. Nhiều khả năng đã từng bóc lịch vì phạm tội ác dã man. Và có lẽ đã được thả hoặc trốn thoát...”
“Không có vụ vượt ngục nào ở đây hết”, người cai ngục nhấn mạnh.
“Được rồi, vậy là được thả ra không lâu trước khi Tucker bị giết. Đó là tất cả những gì chúng tôi biết. À, hắn hiểu biết về súng và là một tay súng cừ.”
“Điều đó không có nghĩa lý gì. Đây là Texas.” Anh ta cười tủm tỉm.
Rhyme tiếp tục: “Chúng tôi có một bản phác thảo vi tính về dung mạo nghi phạm. Chúng tôi sẽ gửi một bản copy cho anh. Anh có thể cử một người so sánh với ảnh các phạm nhân được phóng thích trong khoảng thời gian đó không?”.
“Được, thưa ngài. Tôi sẽ cho người làm việc đó. Cô ấy có đôi mắt khá tinh. Nhưng chúng tôi cần thời gian. Chúng tôi có cả đống phạm nhân vào đây.” Anh ta đưa địa chỉ email và tắt máy.
Vừa khi cuộc gọi kết thúc, Geneva, Bell và Pulaski đến.
Bell giãi thích về cuộc chạy trốn của tên đồng phạm ở trường học. Anh thêm vài thông tin về hắn, cho họ biết rằng sẽ có người đi thu thập thông tin từ các học sinh và giáo viên rồi sẽ kiểm tra băng ghi hình an ninh nếu có.
“Cháu đã không được làm bài kiểm tra sau cùng”, Geneva nói một cách đầy tức giận, như thể đó là lỗi của Rhyme. Cô bé này rõ ràng có thể khiêu khích làm ta phải tức giận. Anh vẫn nói một cách kiên nhẫn: “Chú có một vài tin cháu có thể quan tâm. Người tổ tiên của cháu vẫn sống sau khi nhảy xuống dòng sông Hudson”.
“Ông ấy đã làm được?” Khuôn mặt bừng sáng lên và cô hồ hởi đọc bản in của bài báo năm 1868. Rồi cô cau mày. “Họ khiến cho ông ấy nghe có vẻ là một kẻ xấu. Như thể ông đã lên kế hoạch cho tất cả mọi chuyện. Ông ấy không như vậy. Cháu biết điều đó.” Cô ngước lên nhìn. “Và chúng ta vẫn chưa biết điều gì xảy ra nếu như ông ấy đã từng được thả ra.”
“Chúng ta vẫn đang tìm kiếm thông tin. Chú hy vọng là chúng ta có thể tìm được thêm.”
Chiếc máy tính kêu một hồi chuông và Rhyme nhìn nó. “Có thể có gì đó ở đây. Email từ một giáo sư ở Amherst - người điều hành một trang web về lịch sử Mỹ - Phi. Bà ấy là một trong những người tôi đã gửi email về Charles Singleton.”
“Đọc lên xem.”
“Nó là từ trong nhật ký của Frederick Douglass.”
“Một lần nữa, ông ta là ai vậy nhỉ?”, Pulaski hỏi. “Xin lỗi, tôi hẳn là nên biết. Có một con đường mang tên ông ta.”
Geneva nói: “Cựu nô lệ. Người ủng hộ việc bãi bỏ án tử hình và lãnh đạo quyền dân sự thế kỷ XIX. Là một nhà văn, giảng viên đại học”.
Chàng lính trẻ đỏ mặt thẹn thùng. “Như tôi đã nói, đáng nhẽ tôi phải biết.”
Cooper nghiêng về phía trước và đọc to các dòng chữ trên màn hình:
Mùng 3 tháng 5 năm 1866. Một buổi tối khác ở Gallows Height...
“À”, Rhyme cắt ngang. “Địa điểm huyền bí của chúng ta.” Từ “Giá treo cổ” một lần nữa nhắc lại cho
anh về hình ảnh lá bài Người treo ngược, nét bình thản với cái chân móc ngược trên giá. Anh nhìn chằm chằm vào quân bài, rồi quay trở lại với Cooper.
... bàn bạc về nỗ lực sổng còn của chúng tôi, Tu chính án số 14. Một vài thành viên của Cộng đồng người da màu ở New York, và cả tôi, đã gặp vị Thống đốc Fenton và các thành viên của ủy ban hợp nhất về Tái xây dựng, bao gồm các Thượng nghị sĩ Harris, Grimes và Fessenden, và các Nghị sĩ Stevens, Washburne và thành viên Đảng Dân chủ, Andrexv T. Rogers, người đã cho thấy không đến mức bè phái như chúng ta vẫn sợ.
Thống đốc Fenton bắt đầu với một lời khẩn cầu thiết tha, và từ đó chúng tôi bắt đầu trình bày với các thành viên của Ủy ban ý kiến của mình về các phiên
bản dự thảo khác nhau của Bản sửa đổi chúng tôi đã làm vất vả sau một khoảng thời gian dài. (Ông Charles Singleton cũng trình bày một cách rõ ràng quan điểm của mình về việc Bản sửa đổi nên đưa vào một yêu cầu về sự tán thành chung của mọi công dân, người da đen và người có nguồn gốc châu Âu, đàn bà cũng như đàn ông, và các thành viên của ủy ban sẽ cân nhắc kỹ lời góp ý này.) Những cuộc tranh cãi đã diễn ra suốt cả đêm.
Geneva nghiêng qua vai Rhyme và đọc. “Trình bày một cách rõ ràng”, cô thì thầm thành tiếng. “Và ông ấy muốn ủng hộ cho phụ nữ.”
“Đây là một bài viết khác.” Cooper nói.
Ngày 25 tháng 6 năm 1867. Tôi thấy không hài lòng với tiến trình chậm chạp. Bản sửa đồi số 14 đã được trình các bang để được phê chuẩn một năm trước, với tính thiết thực hai mươi hai bang đã ủng hộ giải pháp. Chỉ còn thiếu sáu bang nữa, nhưng chúng ta đang phải đối mặt với một sự phản đối mạnh mẽ và cương quyết.
Williard Fish, Charles Singleton và Elijah Walker đang đi tới các bang chưa ký kết và làm tất cả những gì có thể để cầu xin những nhà lập pháp ở đó bỏ phiếu ủng hộ Bản sửa đổi. Nhưng ở mỗi bước đi, họ vấp phải sự thờ ơ trong việc đón nhận sự thông thái của bộ luật này - và thái độ khinh thị đe dọa và bực dọc đầy tính cá nhân. Đã phải hy sinh quá nhiều, và vẫn chưa đạt được mục tiêu... Liệu sự áp đảo của chúng ta trong cuộc chiến sẽ trở thành vô nghĩa, gần như là một chiến thắng Pyrrhic[36]? Tôi cầu cho sự nghiệp của nhân dân sẽ không tàn úa trong nỗ lực quan trọng nhất này của chúng ta.
[36] Pyrrhic victory: là một thành ngữ để chỉ một chiến thắng mà bên thắng đã phải tổn thất rất lớn, đến mức gần như hủy diệt.
Cooper nhìn lên màn hình. “Hết rồi.”
Geneva nói: “Vậy là ông Charles đã cùng với Douglass và những người khác đóng góp cho Tu chính án số 14. Nghe có vẻ như họ là đồng đội”.
Hay họ đã từng? Rhyme thắc mắc. Liệu bài báo có đúng không? Liệu có đúng là ông ấy đã dùng cách của mình để hòa chung với họ để tìm hiểu về Quỹ Nô lệ tự do và cướp nó?
Dù sao, đối với Lincoln Rhyme thì sự thật là mục tiêu duy nhất trong bất cứ cuộc điều tra hình sự pháp y nào, anh vẫn nuôi một hy vọng đầy cảm tính hiếm hoi về việc Charles Singleton không thực hiện tội lỗi đó.
Anh nhìn chằm chằm vào bảng bằng chứng, thấy nhiều dấu hỏi hơn là những câu trả lời.
“Geneva, cháu có thể gọi cho bà cô của mình không? Để xem bà ấy có tìm thấy lá thư nào khác hay bất cứ thứ gì của ông Charles không?”
Cô bé gọi điện cho người phụ nữ mà bà Lilly đang sống cùng. Không có ai nhấc máy nhưng cô đã để lại tin nhắn để họ gọi lại theo số của Rhyme. Rồi cô gọi một cú điện thoại khác. Đôi mắt sáng lên. “Mẹ! Bố mẹ về nhà chưa?”
“Cảm ơn Chúa”, Rhyme nghĩ. Cuối cùng bố mẹ cô bé đã trở về.
Nhưng một cái cau mày hiện lên trên khuôn mặt cô bé chỉ một giây sau đó. “Không... Đã có chuyện gì vậy?... Khi nào ạ?”
Một sự chậm trễ của việc nào đó, Rhyme suy luận.
Geneva thông báo cho mẹ tình hình, bảo đảm với họ rằng cô bé an toàn và đang được bảo vệ bởi cảnh sát. Cô đưa điện thoại cho thanh tra Bell, anh nói chuyện với mẹ cô khá lâu về tình hình hiện tại rồi chuyển lại điện thoại và cô tạm biệt mẹ mình. Cô dập máy một cách miễn cưỡng.
Bell nói: “Họ đang kẹt ở London. Chuyến bay bị hủy và họ không thể đi bằng phương tiện khác trong ngày hôm nay. Họ sẽ có mặt trong chuyến bay sớm nhất ngày mai - nó sẽ tới Boston và họ sẽ bắt chuyến bay tiếp theo ở đó”.
Geneva nhún vai, nhưng Rhyme có thể nhìn thấy nỗi thất vọng trong mắt cô bé. Cô nói: “Tốt hơn là cháu nên về nhà. Cháu có một vài nghiên cứu ở trường”.
Bell kiểm tra cùng với các sĩ quan đội bảo vệ nhân chứng và bác của Geneva. Mọi thứ có vẻ an toàn, anh báo cáo.
“Cháu sẽ không đến trường ngày mai chứ?”
Cô do dự một lúc. Nhăn mặt. Liệu sẽ là một trận chiến nữa chăng?
Chợt một tiếng nói cất lên. Đó là Pulaski, chàng cảnh sát trẻ. “Một điều là, Geneva, nó không còn là sự an toàn của riêng em nữa. Nếu ngày hôm nay gã ấy, tên mặc chiếc áo khoác quân sự, có thể tiếp cận đủ gần và bắt đầu nã súng, có lẽ đã có thêm những học sinh khác bị thương hoặc thậm chí bị giết. Hắn có thể cố gắng thực hiện một lần nữa khi em đứng với những người khác ở ngoài trường hay là trên phố.”
Rhyme có thể thấy trên khuôn mặt cô bé sự tác động của những lời nói ấy. Có lẽ cô đang nghĩ tới cái chết của tiến sĩ Barry.
Nên ông ấy chết vì mình...
“Đúng thế rồi”, cô nói với một giọng yếu ớt. “Cháu sẽ ở nhà.”
Bell gật đầu vói cô. “Cảm ơn cháu.” Và biểu lộ cái nhìn đầy cảm kích với chàng sĩ quan trẻ.
Viên thanh tra cùng Pulaski dẫn cô bé đi ra ngoài cánh cửa và những người khác quay trở lại với tấm bảng bằng chứng từ căn hộ của hung thủ.
Rhyme đã thất vọng khi thấy không có gì nhiều lắm. Bản đồ của con phố phía trước bảo tàng Mỹ - Phi mà Sachs tìm ra được giấu trên giường của hắn, chẳng để lại dấu vân tay nào hết. Tấm bản đồ được bày bán đại trà, như ở Staples và Office Depot. Mực thì là loại rẻ tiền và không có nguồn gốc hay dấu vết nào để lần theo.
Tấm bản đồ được vẽ với những chi tiết kỹ càng hơn rất nhiều về các con hẻm và các tòa nhà trên con phố hơn là viện bảo tàng - cái bản đồ dành cho đường tháo chạy của hung thủ. Rhyme suy luận. Nhưng Sachs đã truy tìm những địa điểm này một cách cẩn thận, các thám tử đã điều tra những nhân chứng trong cửa hàng đồ trang sức và các tòa nhà có trong tấm bản đồ.
Có nhiều sợi hơn từ cái dây thừng của hắn - dây thắt cổ, họ suy đoán.
Cooper quét một phần tấm bản đồ qua máy GC/MS, và dấu vết duy nhất được tìm thấy trên tờ giấy là carbon tinh khiết. “Than đá từ những người bán hàng hội chợ trên phố chăng?” Anh thắc mắc.
“Có thể”, Rhyme nói. “Hoặc có thể hắn đốt cháy vật chứng. Đưa việc này vào tấm biểu đồ. Có thể chúng ta sẽ tìm ra mối liên quan sau này.”
Một dấu vết khác trên bản đồ - các vết bẩn và những mẩu vụn - phần lớn là thức ăn: sữa chua và những hạt đậu xanh, tỏi và dầu ngô.
“Món falafel”, Thom, một đầu bếp sành ăn, đưa ra lời đoán. “Đến từ Trung Đông. Và thường được phục vụ với sữa chua. Hơn nữa, món này rất tuyệt vời.”
“Và cực kỳ phổ biến”, Rhyme nói một cách chua chát. “Chúng ta có thể thu hẹp nguồn gốc tới khoảng hai ngàn cửa hàng chỉ trong khu vực Manhattan, các cậu có nghĩ thế không? Chúng ta có cái khỉ gì nữa đây?”
Trên đường trỏe về đây, Sachs và Sellito đã dừng lại ở một công ty bất động sản quản lý khu phố Elizabeth và đã lấy được thông tin về người thuê căn hộ. Người phụ nữ quản lý văn phòng nói người khách đã trả ba tháng tiền nhà bằng tiền mặt và bảo bà cứ giữ lấy thêm hai tháng tiền đặt cọc. (Số tiền, thật không may là, đã được tiêu hết; chẳng còn lại tờ nào để truy ra dấu vân tay cả.) Hắn đã sử dụng cái tên Billy Todd Hamil để thuê, địa chỉ cũ ở Florida. Bức ảnh ghép vi tính mà Sachs thực hiện hoàn toàn giống với người đàn ông đã ký vào hợp đồng thuê nhà, dù hắn đã đội mũ lưỡi trai và đeo kính. Người phụ nữ cũng xác nhận rằng hắn có giọng miền Nam.
Tìm kiếm  trên cơ sở dữ liệu nhận dạng cá nhân cho kết quả 173 người trùng tên Billy Todd Hammils trên khắp đất nước trong suốt năm năm qua. Trong số những người da trắng và khoảng giữa ba lăm và năm mươi tuổi, không một ai sống trong khu vực New York. Những người ở Florida đều là người già hoặc khoảng hai mươi tuổi. Bốn Billy Todd có hồ sơ vi phạm pháp luật, và trong số này thì có ba người vẫn đang thụ án trong nhà giam và một người đã chết sáu năm trước.
“Hắn chọn đại một cái tên”, Rhyme lầm bầm. Anh nhìn lên bức ảnh đối tượng từ máy tính.
Mày là ai, Đối tượng 109? Anh tự hỏi.
Và mày ở đâu?
“Mel, gửi email bức ảnh này cho J.T.”
“Gửi tới ai?”
“Người quản lý trại giam ở Amarillo.” Rồi hất đầu về phía bức ảnh. “Tôi vẫn nghiêng về giả thuyết hắn là một phạm nhân có xích mích với người bảo vệ bị hành hình.”
“Đã hiểu”, Cooper nói. Sau khi làm xong, anh lấy mẫu chất lỏng mà Sachs tìm thấy ở căn hộ của hung thủ, cẩn thận mở nó ra và chuẩn bị sẵn sàng để đưa vào máy GC/MS.
Một thời gian ngắn sau kết quả hiện lên trên màn hình.
“Đây là một mẫu chất mới. Gồm có polyvinyl alcohol, povidone, belzalkonium chloride; dexstrose (đường D-glucosơ); kali clorua (potassium chloride), nước; natri bicarbonat, natri clorua...”
“Nhiều muối hơn”, Rhyme nói thêm vào. “Nhưng lần này không còn là bỏng ngô nữa.”
“Sodium citrate và sodium phosphate. Một vài thứ nữa.”
“Cái tiếng Hy Lạp vớ vẩn.” Sellito nhún vai và đi ra sảnh, hướng về phía phòng vệ sinh.
Cooper gật gù nhìn vào danh sách thành phần chất lỏng thu được. “Có thông tin nào cho biết nó là gì không?”
Rhyme lắc đầu. “Dữ liệu của chúng ta?”
“Không thấy gì hết.”
“Gửi nó xuống Washington.”
“Sẽ gửi.” Nhà khoa học hình sự gửi thông tin tới phòng thí nghiệm của FBI và quay trở lại với vật chứng cuối cùng mà Sachs tìm ra: những mẩu gỗ vụn được cạo ra từ các vệt trên mặt bàn ở căn hộ của hung thủ.
Cooper lấy một ít để làm mẫu đưa vào máy GC/MS.
Trong khi chờ đợi kết quả, Rhyme nhìn lướt qua biểu đồ tư liệu. Anh đang nhìn vào những ghi chép thì thấy có chuyển động nhanh ở phía đuôi mắt. Giật mình, anh quay về hướng đó. Nhưng không có ai ở góc đấy của căn phòng. Anh đã nhìn thấy cái gì vậy?
Rồi anh lại nhìn thấy chuyển động và nhận ra rằng mình đang nhìn vào cái gì: hình ảnh phản chiếu trong chiếc cốc trên mặt tủ. Đó là Lon Sellito, đứng một mình ở hành lang, rõ ràng tin rằng không ai nhìn thấy mình. Những chuyển động nhanh là do viên thanh tra to lớn đang tập đi tập lại động tác rút súng nhanh. Rhyme không thể nhìn rõ khuôn mặt của anh ta nhưng vẻ biểu lộ của anh ta rõ ràng là lo lắng.
Đó là điều gì vậy?
Anh bắt gặp ánh mắt của Sachs và gật đầu về phía cửa. Cô tiến tới gần cánh cửa và liếc ra ngoài, nhìn viên thanh tra rút khẩu súng ra một vài lần nữa rồi lắc lắc đầu, nhăn mặt. Sachs nhún vai. Sau khoảng ba đến bốn phút luyện tập, anh ta cất khẩu súng đi, bước vào phòng vệ sinh mà chẳng cần đóng cửa, dội nước bồn cầu và bước ra ngoài một giây sau đó.
Anh ta quay trờ lại phòng thí nghiệm. “Lạy Chúa, Linc, khi nào thì anh sẽ đưa một cái nhà vệ sinh hiện đại tử tế hơn vào chỗ này đây? Chẳng phải cái màu vàng và đen ấy cũng đã lỗi thời từ hồi những năm 70 rồi sao?”
“Anh biết đấy, tôi chỉ không hay tổ chức các buổi họp trong nhà vệ sinh lắm.”
Người đàn ông to lớn cười, nhưng quá to. Tiếng cười giống như bị kích thích bởi câu nói đùa, nhưng nghe không tự nhiên.
Nhưng dù điều gì đang gây rắc rối cho anh ta ngay lập tức biến mất khỏi đầu Rhyme khi kết quả từ chiếc máy phân tích bằng phương pháp GC/MS hiện lên trên màn hình máy tính - những mẩu gỗ được lấy ra từ trên mặt bàn làm việc của hung thủ. Rhyme cau mày. Bản phân tích đưa ra báo cáo rằng cái chất ăn hằn vào gỗ là acid sulfuric tinh chất, một tin mà Rhyme thấy rằng không hề hay chút nào. Bởi một điều, dựa trên chứng cứ xác thực, nó luôn luôn có sẵn và do đó thực sự chẳng thể nào tìm ra dù chỉ là một manh mối.
Nhưng còn đáng ngại hơn, có lẽ nó là acid mạnh nhất - và nguy hiểm nhất - mà ta có thể mua được; như một vũ khí, ngay cả với một số lượng cực nhỏ cũng có thể, chỉ trong vài giây, giết hoặc phá hoại thể xác vĩnh viễn.
Bảng bằng chứng:
Ngôi nhà an toàn trên phố Elizabeth của hung thủ:
+ Sử dụng bẫy điện.
+ Dấu tay: không. Chỉ có dấu găng tay.
+ Camera và màn hình an ninh; không có manh mối.
+ Bộ bài tarot, thiếu lá số mười hai; không có manh mối.
+ Bản đồ chi tiết bảo tàng nơi Geneva bị tấn công và các tòa nhà bên kia con phố. Dấu vết:
- Falafel và sữa chua.
- Các mẩu gỗ lấy ra từ mặt bàn làm việc với vệt acid sulfuric tinh chất.
- Chất lỏng trong suốt, không phải chất nổ. Gửi tới phòng thí nghiệm của FBI.
- Nhiều sợi vải từ dây thừng hơn. Thừng thắt cổ?
- Carbon nguyên chất tìm thấy trên tấm bản đồ.
+ Ngôi nhà được thuê bằng tiền mặt, với cái tên Billy Todd Hammil. Khớp với miêu tả của Nghi phạm 109, nhưng không có manh mối nào liên quan tới cái tên Hammil thực tế.
Hiện trường Bảo tàng Mỹ - Phi
+ Gói đồ hiếp dâm:
- Lá bài tarot, số mười hai trong bộ bài, Người treo ngược, có nghĩa là sự tìm kiếm tâm linh.
- Chiếc túi có hình mặt cười. + Quá chung chung để lần tìm.
- Dao rọc giấy.
- Bao cao su Trojan.
- Băng dính.
- Dầu thơm mùi hoa nhài.
- Vật không rõ giá 5,95 đô. Có khả năng là chiếc mũ trùm.
- Hóa đơn, cho thấy cửa hàng nằm ở thành phố New York, cửa hàng tạp hóa giảm giá hoặc một hàng dược phẩm.
- Nhiều khả năng được mua từ một cửa hàng trên phố Mulberry, Little Italy. Hung thủ được nhận dạng bởi nhân viên bán hàng.
+ Dấu tay:
- Nghi phạm đeo găng tay cao su.
- Dấu tay trên gói đồ thuộc về một người có bàn tay nhỏ, không có dữ liệu trong hệ thống IAFIS. Nhiều khả năng là của nhân viên bán hàng.
+ Dấu vết:
- Sợi thừng vải bông, một vài có vết máu người. Dây để thắt cổ?
- Gửi tói CODIS.
* Không tìm thấy DNA trùng khớp ở CODIS.
* Bỏng ngô và kẹo bông với những dấu vết nước đái chó.
+ Vũ khí:
- Dùi cui hoặc một chiếc côn.
- Khẩu súng có ổ thuốc lớn, hạt kích nổ vành, kiểu súng ngắn Quân đội Bắc Mỹ 22 ly - loại Black Widow hoặc Minimaster.
- Những viên đạn tự chế, đầu đạn chứa những chiếc kim. Không thấy dữ liệu trong IBIS hay DRUGFIRE.
+ Động cơ:
- Chưa chắc chắn. Hiếp dâm chỉ là động cơ giả.
- Động cơ thật sự có thể là để lấy đi tấm vi phim của bài báo trên tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu ngày 23 tháng 7 năm 1868, và giết Geneva Settle vì việc cô quan tâm tới bài báo này bởi một lý do chưa biết. Bài báo viết về một ông tổ của Geneva tên là Charles Singleton. (Xem thông tin bên biểu đồ bên cạnh.)
- Người thủ thư - nạn nhân bị giết báo rằng có ai đó muốn được xem bài báo.
- Yêu cầu có được nhật ký cuộc gọi của người thủ thư để kiểm tra điều này.
* Không có manh mối nào.
* Yêu cầu cần có thông tin từ những nhân viên thư viện hoặc với những người mong muốn được thấy câu chuyện.
* Không có manh mối nào.
- Tìm kiếm bản copy của bài báo.
- Một vài nguồn báo cáo về một người đàn ông yêu cầu cùng một bài báo. Không manh mối nào được xác nhận. Phần lớn các ấn bản đều đã mất hoặc bị phá hủy. Xác định được vị trí một ấn bản. (Xem biểu đồ bên cạnh).
- Kết luận: Geneva Settle vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm.
+ Hồ sơ các vụ việc gửi tới VICAP và NCIC.
- Vụ giết người ở Amarillo, Texas, năm năm trước. Cũng có hiện trường được làm giả (làm như vụ giết người là nghi lễ tôn giáo, nhưng động cơ thật sự vẫn chưa được tìm ra).
- Nạn nhân là một nhân viên gác ngục về hưu.
- Bức ảnh từ máy tính được gửi tới nhà tù Texas.
- Vụ giết người ở Ohio, ba năm về trước. Cũng có hiện trường được làm giả (làm như đó là một vụ tấn công tình dục đồng giới, nhưng động cơ thật sự là được thuê giết). Hồ sơ bị thất lạc.
Hồ sơ về Nghi phạm 109
+ Nam da trắng.
+ lm8, gần 90kg.
+ Giọng trung.
+ Sử dụng điện thoại để tiếp cận nạn nhân.
+ Mang một chiếc giày Bass cỡ 11 màu nâu sáng, khoảng ba năm hoặc hơn. Bàn chân phải hơi hướng ra ngoài.
+ Mùi hoa nhài.
+ Quần tối màu.
+ Đeo mũ trùm, màu tối.
+ Sẽ nhắm vào những người vô tội để tạo cơ hội hạ gục nạn nhân và trốn thoát.
+ Nhiều khả năng là một kẻ giết thuê.
+ Nhiều khả năng là một cựu phạm nhân ở Amarillo, TX.
+ Có giọng miền Nam.
+ Mái tóc màu nâu sáng, được chải chuốt chỉnh tề, râu cạo sạch sẽ.
+ Không đặc biệt, nổi bật.
+ Được thấy mặc một chiếc áo mưa tối màu.
Hồ sơ về kẻ thuê Nghi phạm 109
+ Chưa có thông tin gì lúc này.
Hồ sơ về đồng phạm Nghi phạm 109
+ Nam, da đen.
+ Cuối ba mươi, đầu bốn mươi.
+ Cao khoảng lm8.
+ Thân thể khỏe mạnh cường tráng.
+ Mặc chiếc áo dã chiến màu xanh.
+ Từng là phạm nhân.
+ Chân khập khiễng.
+ Được báo cáo có mang súng.
+ Râu được cạo sạch sẽ.
+ Đeo chiếc khăn trùm đầu màu đen.
+ Đang đợi thêm các nhân chứng và băng ghi hình an ninh.
Hồ sơ về Charles Singleton
+ Cựu nô lệ, tổ tiên của Geneva Settle. Có gia đình, một con trai. Được ông chủ cho một vườn cây ở tiểu bang New York. Làm việc với vai trò một thầy giáo. Tham gia vào cuộc vận động vì dân quyền từ rất sớm.
+ Charles bị cho là đã thực hiện một vụ trộm năm 1868, chủ đề của bài báo trong tấm vi phim bị lấy trộm.
+ Có một bí mật chưa được hé lộ. Lo lắng rằng sẽ gây ra thảm kịch nếu bí mật bị hé lộ.
+ Tham gia vào các buổi họp bí mật ở Gallows Heights gần New York.
+ Dính líu tới những hoạt động mạo hiểm?
- Làm việc với Frederick Douglass và những người khác liên quan tới Tu chính án số 14 trình Thượng viện để được phê chuẩn.
- Vụ án, theo tờ Tuần báo Minh họa dành cho người da màu:
- Charles bị bắt bởi Thám tử William Simms vì ăn trộm một lượng lớn từ Quỹ Nô lệ tự do ở New York. Đột nhập vào két, nhân chứng nhìn thấy ông ta rời khỏi đó nhanh chóng. Dụng cụ dùng để gây án được tìm thấy ở gần đó. Phần lớn tiền đã được tìm lại. Bị tuyên án năm năm tù. Không có thông tin gì sau khi bị tuyên án. Bị cho là tận dụng quan hệ với những nhà lãnh đạo trong cuộc vận động dân quyền thời gian đầu để tiếp cận Quỹ.
+ Thư của Charles:
- Bức thư thứ nhất, gửi tới vợ: về cuộc khởi nghĩa gọi quân năm 1863, sự chống lại người da đen ở khắp tiểu bang New York, hành hình, đốt phá. Nguy cơ ảnh hưởng tới tài sản mà người da đen sở hữu.
- Bức thư thứ hai, tới vợ: Charles trong trận chiến ở Appromattox vào giai đoạn cuối cuộc Nội chiến.
- Bức thư thứ ba, tới vợ: Tham gia vào cuộc vận động quyền dân sự. Bị đe dọa vì công việc của mình. Đau khổ với bí mật.