Phần 5: Đám Cưới Bên Hồ
Chương 60
Jerusalem

    
ai buổi lễ hồi hương đáng chú ý diễn ra vào ngày sua Giáng sinh. Buổi lễ đầu tiên được tổ chức tại căn cứ không quân Andrews ở ngoại ô Washington được truyền hình trực tiếp khắp thế giới. Tổng thống có mặt tham dự, cùng toàn bộ đội an ninh quốc gia và hầu hết nghị sĩ quốc hội. Buổi lễ có ban nhạc hải quân biểu diễn, một ngôi sao nhạc đồng quê hát một bài hát yêu nước. Nhiều bài diễn văn được thực hiện nói về lòng quyết tâm và tính kiên định của người Mỹ. Nhiều lời ca ngợi được dành cho các nhân viên nam nữ thuộc lực lượng tình báo Mỹ và Anh, những người đã biến ngày này thành hiện thực. Không ai nói về tiền chuộc hay đàm phán và cái tên Israel cũng không được nói đến. Elizabeth Halton, vẫn còn bị ảnh hưởng bởi nỗi đau của vụ bắt cóc và hoàn cảnh giải cứu, cố gắng phát biểu trước đám đông nhưng chỉ cố được vài lời trước khi gục xuống. Cô được đưa ngay lên chiếc trực thăng đang đợi sẵn và trong vòng bảo vệ chặt chẽ, được đưa đến một địa điểm bí mật để bình phục.
Buổi lễ hồi hương thứ hai diễn ra tại sân bay Ben Guiron và tình cờ cũng diễn ra đồng thời với buổi lễ đầu tiên. Không có nhà chính trị nào có mặt và không có máy quay truyền hình nào để thu hình sự kiện này cho hậu thế. Không ai chơi các bản nhạc yêu nước, không có bài diễn văn nào và cũng chẳng có nghi thức đón tiếp chính thức. Với sự can thiệp của nhà nước Israel, hai mươi sáu người đàn ông và phụ nữ trên chiếc chuyên cơ vừa đến Luân Đôn xem như không có mặt. Họ là những người vô hình, là những bóng ma, họ có khả năng thoắt ẩn thoắt hiện. Họ biến mất vào màn đêm và dù đã quá khuya, họ vẫn được đưa ngay đến khu văn phòng vô danh ở đại lộ King Saul thuộc Tel Aviv, nơi họ phải trải qua đợt thẩm vấn đầu tiên. Những buổi thẩm vấn này không phải chỉ là nghi thức chiếu lệ, họ biết rằng ngay khi buổi lễ chấm dứt, các cuộc thẩm vấn sẽ bắt đầu. Một cơn bão đang đến. Những mái che sẽ phải được xây dựng gấp gáp. Vấn đề lương thực được đặt sang một bên. Báo chí sẽ được công bố tất cả sự thật.
Trong vòng bảy mươi hai giờ đầu tiên sau vụ giải cứu Elizabeth Halton đầy kịch tính, kịch bản sự kiện chính thức ở Anh lại khác xa với thực tế. Cuộc giải cứu cho cô, theo kịch bản này, chính là kết quả của những nỗ lực không mệt mỏi của các cơ quan tình báo và cảnh sát Anh, hợp tác ăn ý với các đồng nghiệp ở Mỹ. Dù tiền chuộc đã được đại sứ Halton chuẩn bị nhưng nó vẫn chưa được trả cho ai. Hai tay súng đã giết những kẻ đánh bom tự sát không thành ở tu viện Westminster là thành viên của ban SO 19 của cảnh sát thành phố. Tuy nhiên vì lí do an ninh, hai người đàn ông này không được đưa ra nhận diện trước công chúng hay được thông báo cho giới báo chí bình luận – vào lúc này hay ở bất kỳ thời điểm nào trong tương lai. Cảnh sát trưởng thành phố nhấn mạnh.
Những thông tin rò rỉ đầu tiên của vụ này xuất hiện bốn ngày sau Giáng sinh, không phải ở Anh mà là ở Đan Mạch, nơi một tờ báo địa phương đăng một bài tường thuật khá hấp dẫn về một vụ nổ bí mật ở một ngôi nhà nghỉ hè dọc Biển Bắc. Cảnh sát Đan Mạch ban đầu nói rằng ngôi nhà này không có người ở, nhưng một nhân viên y tế địa phương đã phản đối lời khẳng định đó, cho rằng chính anh ta đã nhìn thấy ba thi thể được lấy lên từ đống cháy đen đổ nát. Nhân viên y tế này cũng khẳng định đã chữa trị cho một người đàn ông nói tiếng Đức vì những vết thương nhẹ trên mặt. Lars Mortensen, giám đốc cơ quan an ninh Đan Mạch, xuất hiện trước một cuộc họp báo được sắp đặt vội vã ở Copenhagen xác nhận rằng, thực sự có ba người bị sát hại trong vụ này và rằng vụ này có liên quan đến cuộc truy tìm Elizabeth Halton. Mortensen sau đó tuyên bố ông không còn gì để nói về chuyện này cho đến khi thực hiện một cuộc điều tra chính thức.
Thông tin rò rỉ tiếp xảy ra hai ngày sau ở Amsterdam, nơi một phụ nữ Ai Cập độ tuổi cuối trung niên xuất hiện tại một cuộc họp báo xác nhận rằng một trong những người bị giết ở miền Bắc Đan Mạch chính là chồng bà, Ibrahim Fawaz. Bằng tiếng Arập thông qua một thông dịch viên, bà Fawaz nói rằng mình đã được các quan chức Mỹ thông báo rằng chồng bà đang làm việc cho họ và đã thiệt mạng trong một nỗ lực không thành khi giải cứu cô Halton. Bà còn nói rằng tất cả những nổ lực để đến được với con trai, con dâu và cháu trai ở Copenhagen đều không thành công. Những luật sư của bà suy luận rằng Ibrahim Fawaz đã bị bắt cóc bởi các mật vụ Mỹ và được chiêu dụ vào hàng ngũ làm việc cho CIA. Họ kêu gọi ngài Bộ trưởng tư pháp Hà Lan ra lệnh mở cuộc điều tra về vấn đề này. Vào lúc bốn giờ chiều ngày hôm đó, ngài Bộ trưởng đã hứa hẹn rằng cuộc điều tra sẽ được thực hiện một cách đầy đủ và khả quan.
Buổi sáng hôm sau ở Luân Đôn, người phát ngôn của Bộ nội vụ xác nhận thông tin cho rằng con trai Ibrahim Fawaz là một trong hai tên khủng bố được phát hiện đã chết trong chiếc xe bán tải chứa đầy bom đâm xuống một cánh đồng ở Essex ngay sau bình minh ngày Giáng sinh. Người phát ngôn này cũng xác nhận rằng Fawaz con đã bị bắn nhiều phát vào chân và tay tài xế xe bán tải, hiện vẫn chưa được nhận dạng, đã bị bắn chết bằng phát súng vào đầu. Ai gây ra thương vong và chính xác những gì đã xảy ra ở Essex vẫn là một bí mật chưa biết được, dù các nhà điều tra người Anh đang làm việc với một giả định rằng một vụ tấn công thứ hai đã được lên kế hoạch cho buổi sáng Giáng sinh và cuối cùng nó cũng đã tan tành mây khói.
Vào ngày đầu năm mới, tờ Điện tín đặt dấu hỏi về sự kiện tại tu viện Westminster này. Theo thông tin chính thức của báo chí, nhiều nhân chứng cho biết tay súng hét lớn bảo Elizabeth Halton chạy đi không nói giọng Anh. Một nhân chứng khác, đi qua hai người đàn ông cầm súng vài giây trước khi họ chuẩn bị bắn, đã nghe thấy họ nói với nhau bằng một ngôn ngữ không phải là tiếng Anh. Sau khi nghe băng thu âm hai mươi ngôn ngữ khác nhau, nhân chứng đó xác nhận tiếng Hebrew là thứ tiếng anh ta đã nghe.
Vụ việc bị vỡ lỡ vào ngày hôm sau khi tờ Times, trong một bài điều tra rùm beng có tựa đến LIÊN KẾT JERUSALEM, đã nêu ra trường hợp chấn động về sự dính dáng của Israel trong vụ giải cứu Elizabeth Halton. Trong báo cáo có hình chụp một người đàn ông đang chờ đi vào tu viện vài giây sau vụ giải cứu. Các chuyên gia về nhận diện gương mặt do tờ Times thuê đã nêu kết luận rằng một trong những người đàn ông này không ai khác chính là Gabriel Allon, điệp viên Israel huyền thoại, người đã giết ba tên khủng bố ở công viên Hyde Park buổi sáng ngày diễn ra vụ bắt cóc Elizabeth Halton…
Đến tối đó, đã xuất hiện nhiều yêu cầu lớn tiếng ở Quốc hội để Chính phủ hoàng gia và các cơ quan mật vụ nói rõ về những sự kiện dẫn đến cuộc giải cứu quý cô Halton. Những yêu cầu này được đưa ra khắp các thủ đô của các nước Tây Âu, và ở Washington, nơi các phóng viên và nghị sĩ Quốc hội kêu gọi Nhà Trắng giải thích những gì Tổng thống biết về mối liên hệ của Allon tới vụ này. Theo những phụ tá của Tổng thống, ngày càng rõ ràng, rằng các nhân viên tình báo Mỹ và đồng nghiệp Israel đã cày xéo khắp châu Âu trong cuộc tìm kiếm điên cuồng để tìm thấy cô Halton trước thời hạn chót và giải thoát cho cô. Chính xác thì chuyện gì đã xảy ra? Luật pháp có bị bẻ cong hay vi phạm không? Nếu có thì ai đã làm?
Chính quyền Israel, bị bao vây bởi những yêu cầu của báo chí trong và ngoài nước, đã phá tan sự im lặng chính thức về vụ này vào sáng hôm sau. Một nữ phát ngôn viên cho văn phòng Thủ tướng thừa nhận rằng cơ quan tình báo mật của Israel đã hỗ trợ cho các nhà điều tra Mỹ. Rồi cô nói rõ rằng bản chất của cuộc hỗ trợ này sẽ không bao giờ được công bố rộng rãi. Đối với đề nghị Gabriel Allon đi Luân Đôn và Washington để hỗ trợ những cuộc điều tra chính thức cho vụ này, câu trả lời của anh ra vẫn chưa rõ. Gabriel Allon đang trong kỳ nghĩ dài vì lí do cá nhân, cô giải thích, và theo chính quyền Israel, không ai biết tung tích của anh.
Nếu họ có nỗ lực nghiêm túc nào để xác định nơi ở hiện tại của anh, điều mà họ hầu như chắc chắn chưa làm, thì họ hẳn đã tìm thấy anh đang nghỉ ngơi yên tĩnh trong căn hộ nhỏ trên phố Narkiss.
Từ trước tới giờ anh đã trải qua nhiều những cơn bão như thế này và biết rằng hành động tốt nhất là đặt bảng che cửa chính và cửa sổ rồi không nói lời nào.
Những vết thương của anh đau đến nỗi anh không còn nhiều sức lực cho việc gì khác. Trong những lần bị tra tấn bởi bàn tay của bọn bắt cóc và vụ nổ xảy ra trong vụ giải cứu con tin, anh đã bị nhiều vết gãy và nứt xương, hàng chục vết thương trên mặt và những chỗ khác, chân tay anh bầm tím. Bụng dưới anh đau dữ dội đến nỗi anh không ăn được gì, hai ngày sau khi trở về Jerusalem, anh thấy mình không thể xoay đầu được. Một bác sĩ của văn phòng thường đến khám cho anh phát hiện anh đã chấn thương cổ mà trước đó đã không chẩn đoán được, việc này khiến anh phải đeo nẹp cổ cứng trong vài tuần.
Trong hai tuần anh không rời khỏi giường. Dù đã bắt đầu lành lặn và bình phục, bản tính ham làm việc của anh biến anh thành một bệnh nhân tồi. Để giúp mình trải qua những giờ phút nhàn rỗi, anh chăm chú theo dõi vụ của mình trên báo chí và truyền hình. Khi chứng cứ về sự tham gia của Israel trong vụ này ngày càng rõ, các cộng đồng Hồi giáo đang yên ổn ở châu Âu cũng như những người ủng hộ phần còn lại của châu Âu đều tỏ thái độ phẫn nộ. Nỗi sợ hãi của những vụ đánh bom ở Luân Đôn và vụ bắt cóc Elizabeth Halton hình như nhanh chóng rơi vào quên lãng, thay vào đó lại nổi lên sự quan tâm của toàn lục địa về chiến thuật được sử dụng để tìm kiếm và giải cứu cho cô. Những thoả thuận được khơi mào một cách thận trọng của Shamron với các Bộ tư pháp và cơ quan an ninh châu Âu chẳng mấy chốc bị phơi bày ra ánh sáng. Gabriel một lần nữa lại trở thành người bị truy tìm nhiều hơn- truy tìm để thẩm vấn ở Hà Lan và Đan Mạch về cái chết của Ibrahim Fawaz, truy tìm để thẩm vấn ở Anh về vai trò của anh trong vụ giải cứu Elizabeth Halton.
Còn có một vơn bão khác đang tràn tới, một sự kiện hầu như không được giới truyền thông toàn cầu chú ý và cộng đồng bảo vệ nhân quyền hình như đã bị ám ảnh bởi những hành động được cho là sai lầm của Gabriel và đồng đội của anh. Phía bên kia biên giới phía tây của Israel, ở Ai Cập, chính quyền sở tại đang đối mặt với tổ chức Thanh kiếm Allah – cuộc thanh trừng có động cơ theo cách họ đã xử lí với mọi thách thức của người Hồi giáo trong quá khứ - với lực lượng áp đảo và sự dã man cùng cực. Văn phòng đã nhận được những báo cáo về các cuộc chiến trên đường phố giữa quân đội và các phần tử Hồi giáo từ khu vực châu thổ sông Nile cho đến Thượng Ai Cập. Còn có các báo cáo về những vụ thảm sát, hành quyết nhanh chóng, sử dụng biện pháp tra tấn rộng rãi, và một trại tập trung ở sa mạc phía tây nơi hàng ngàn phần tử cấp tiến bị giam giữ mà không có lời buộc tội. Một bản đánh giá được chuẩn bị nhanh chóng của Văn phòng kết luận rằng chính sự đàn áp đã làm nảy sinh những phần tử cấp tiến và những phần tử này phạm nhiều tội ác khủng bố.
Đến giữa tháng Giêng, Gabriel đã đủ khoẻ để rời khỏi giường bệnh. Bác sĩ đến xem rồi sau khi khám và kiểm tra kỹ cổ anh, bác sĩ quyết định tháo nẹp. Do muốn quên đi những sự kiện không mấy vui đang diễn ra xung quanh, anh chỉ tập trung vào kế hoạch cho đám cưới. Anh ngồi hàng giờ với Chiara trong phòng khách, lật từng trang tạp chí cưới hào nhoáng và bàn bạc kỹ về những vấn đề như thức ăn và hoa. Họ chọn một ngày giữa tháng năm rồi lên một danh sách khách mời tạm thời, trong đó có bảy trăm cái tên. Sau hai tiếng đồng hồ bàn thảo, họ quyết định chỉ gạt ra tên của hai mươi người. Một tuần sau, khi những vết bầm trên mặt đã trở về trạng thái chấp nhận được, họ cùng nhau đi Jerusalem để kiểm tra phòng tiệc của khách sạn và những nơi khác có thể tổ chức nghi lễ và tiếp khách. Người điều phối sự kiện đặc biệt tại khách sạn King David, sau khi hỏi về danh sách khách mời, đã vui vẻ đề nghị họ nên tổ chức đám cưới ở sân vận động Teddy Kollek, một đề nghị mà Chiara không thấy thú vị chút nào. Cô thất vọng khi lái xe trên quãng đường ngắn về đường Narkiss.
Gabriel thận trọng nói. “Có lẽ đây là một sai lầm”.
“Thế chúng ta sẽ xem lại”, cô đáp.
“Ý anh không phải là đám cưới mà là quy mô của đám cưới. Có lẽ chúng ta nên tổ chức một đám cưới nhỏ và riêng tư. Chỉ có gia đình và bạn bè. Những người bạn thực sự”.
Cô thở hắt ra. “Không có điều gì làm em vui hơn thế”.
Đến đầu tháng hai, anh cảm thấy nỗi khao khát được làm việc. Anh rời đường Narkiss lúc mười giờ vào một buổi sáng, lái xe đến bảo tàng Israel để xem có điều gì ở đó có thể làm anh bận rộn. Sau một cuộc gặp ngắn với trưởng ban hội hoạ châu Âu, anh rời nơi đó với một bức tranh khá đẹp của Rembrandt, hình như có tên là Thánh Peter trong nhà lao. Bức tranh đẹp về cấu trúc và chỉ cần một lớp sơn vani sạch và một ít nét vẽ phụ. Anh biến phòng ngủ trống trong căn hộ thành xưởng tranh nhưng Chiara than phiền về mùi của hoá chất, van nài anh chuyển những hoạt động sau này sang một studio đúng nghĩa. Anh đã tìm thấy một cái, trong khu vực dành cho nghệ sĩ nhìn xuống thung lũng Hinnom, và bắt đầu làm việc ở đó trong tuần kế tiếp.
Với sự xuất hiện của bức tran Rembrandt, những ngày trôi qua của anh cuối cùng cũng có chút gì mang tính công việc thường nhật. Anh thường đến studio sớm rồi làm việc cho đến trưa; sau đó, sau khi nghỉ ngơi ăn trưa thư giãn với Chiara, anh thường trở về studio làm việc cho đến khi không còn đủ ánh sáng. Một hay hai lần mỗi tuần, anh thường cắt ngắn buổi làm việc chiều rồi lái xe băng qua Jerusalem đến bệnh viện tâm thần núi Herzl để ở cạnh Leah. Đã nhiều tháng qua anh không gặp cô, và trong ba lần đầu tiên anh xuất hiện, cô không nhận ra anh. Trong lần thăm thứ tư, cô đã chào anh bằng tên rồi ngẩng mặt lên để được anh hôn. Anh đẩy xe lăn của cô vào vườn rồi họ cùng ngồi với nhau dưới một cây ôliu – cũng cây ôliu mà anh đã thấy trong giấc mơ khi đang ở trong tay những tên sát thủ nhóm Thanh kiếm Allah. Cô đặt bàn tay lên mặt anh. Da cô đầy sẹo do bị bỏng và sờ vào thấy lạnh lẽo.
“Anh lại chiến đấu”, cô nói.
Anh gật đầu chầm chậm.
“Nhóm Tháng Chín Đen phải không?”, cô hỏi.
“Cách đây đã lâu rồi, Leah. Chúng không còn tồn tại nữa”.
Cô nhìn bàn tay anh. Bàn tay lấm lem bột màu.
“Anh lại vẽ nữa phải không?”.
“Phục chế thôi”.
“Anh có thể phục chế cho em khi anh xong việc không?”.
Một giọt nước mắt lăn dài trên má anh. Cô lau đi rồi nhìn bàn tay anh lần nữa.
“Sao anh không đeo nhẫn cưới?”.
“Anh và cô ấy chưa cưới mà”.
“Suy nghĩ lại phải không?”.
“Không phải đâu, Leah – không phải suy nghĩ lại”.
“Thế anh còn chờ gì nữa?”, cô bất ngờ nhìn lảng đi, mắt không còn chút ánh sáng. “Hãy nhìn tuyết đi, Gabriel. Đẹp không nào?”.
Anh đứng dậy đẩy cô quay trở lại bênh viện.