Chương 18
Căn cứ không quân Andrews

    
ảy giờ 12 phút sáng thứ bảy
Chiếc phản lực Gulfstream đáp xuống căn cứ không quân Andrews ở ngoại ô Washington, chạy từ từ đến nhà chứa máy bay có sàn nhẵn như đá cẩm thạch mới lau. Gabriel bước xuống bậc thang của máy bay, cặp Samsonite xách trên tay, bước đến chiếc Suburban mang biển số đăng ký bang Virginia. Hai nhân viên an ninh CIA bên trong không nói tiếng nào khi anh quăng chiếc cặp vào ghế sau rồi leo vào. Gabriel đã quá quen thái độ này của người Mỹ. Họ được huấn luyện để nghĩ rằng các đặc vụ của Văn phòng xem những cuộc gặp gỡ với nhân viên CIA là cơ hội, để thu thập thông tin tình báo. Anh bị thôi thúc phải nói một điều gì đó để họ xoá đi câu chuyện tưởng tượng này trong ấn tượng của mình. Nhưng thay vào đó, anh chỉ hỏi họ đưa mình đi đâu.
“Tổng hành dinh”, người đàn ông trong ghế hành khách nói.
“Tôi không muốn đến Tổng hành dinh”.
“Anh sẽ vào một căn phòng bí mật. Không ai biết anh ở đó”.
“Sao chúng ta không thể gặp ở một ngôi nhà an toàn, cách vẫn thường làm đó?”.
“Người liên hệ với anh không có thời gian rời khỏi toà nhà hôm nay. Tôi tin chắc anh hiểu điều đó”.
Gabriel định phản đối nhưng anh tự ngăn mình lại. Năm nay, đã hai lần ảnh của anh xuất hiện trên các tờ báo khắp thế giới, lần đầu cho những hoạt động của anh ở Vatican, lần kia cho nỗ lực ngăn vụ bắt cóc Elizabeth. Việc anh xuất hiện lần đầu ở Langley có vẻ không có ý nghĩa nhiều. Ngoài ra, nếu cứ làm việc cho Shamron và Thủ tướng, thì chắc chắn đây không phải là lần cuối cùng anh lên báo.
Ít có xe cộ lưu thông trên đường vào giờ này ngày thứ bảy, vì vậy họ chỉ mất 30 phút để lái xe từ Andrews đến khu rừng cây Langley. Sau khi dừng ở cổng gác đồ sộ để kiểm tra giấy tờ, họ cho xe chạy một mạch đến OHB, toà nhà Tổng hành dinh. Vì Gabriel phải vào toà nhà “đen”, họ nhấn ga qua cửa chính rồi rẽ vào một bãi đỗ xe ngầm. Một trong hai nhân viên an ninh giúp Gabriel cầm cặp Samsonite; người kia dẫn đường vào thang máy an ninh. Một chiếc khoá thẻ được tra vào, bấm nút và một lúc sau họ đi nhanh lên tầng bảy. Khi cửa mở, hai nhân viên an ninh nữa đang đợi trong phòng nghỉ, súng hiện rõ dưới áo mang phù hiệu của họ. Gabriel được hộ tống đi dọc theo hành lang trải thảm đến một cửa an ninh, bên trong có một dãy văn phòng rộng, trong đó có những sĩ quan tình báo hùng mạnh nhất thế giới. Người đàn ông đứng trong phòng chờ, mặc quần bằng vải Flanen xám và áo sơ mi vải Oxford nhăn nhúm, trông như thể ông ta lang thang vào nhầm chỗ.
“Chuyến bay thế nào?”, Adrian Carter hỏi.
“Ông có chiếc máy bay rất đẹp”.
Ông ta bắt tay Gabriel nồng nhiệt rồi nhìn vào chiếc cặp.
“Định ở lâu, hay chỉ một hai ngày?”.
“Chừng nào tôi còn được tiếp đón”, Gabriel nói.
“Hy vọng anh còn mang đến nhiều thứ hơn là quần áo và đồ lót sạch”.
“Có chứ”.
Carter mỉm cười mệt mỏi rồi im lặng dẫn Gabriel vào văn phòng của mình.
Gabriel đề nghị uống cà phê đen rồi ngồi lên chiếc ghế dài của Carter. Carter lấy một cái điều khiển từ xa từ bên rìa chiếc bàn sạch sẽ rồi chĩa vào một dãy màn ảnh truyền hình. Hình ảnh của Elizabeth Halton xuất hiện trên một màn hình. Cô ngồi trên sàn một căn phòng không có gì nổi bật, vẫn là bộ quần áo chạy bộ mà cô đã mặc trong công viên Hyde Park buổi sáng ngày bị bắt cóc. Trong tay cô là một tờ báo Times, có đầu đề viết về vụ bắt cóc mình. Bốn người đàn ông đang đứng phía sau, đồ bó sát đen, khăn trùm đầu đen, dải băng đầu màu xanh có hình những thanh kiếm và trăng lưỡi liềm.
Người đàn ông đứng ngay sau Elizabeth có con dao lớn trong tay và một tờ giấy trong tay kia. Anh ta đang đọc một tuyên bố bằng tiến Arập giọng Ai Cập.
“Tôi hiểu anh không cần dịch”, Carter nói.
Gabriel có ý lắng nghe rồi lắc đầu. “Hắn nói hắn từ tổ chức Thanh kiếm Allah đến. Hắn nói bọn chúng muốn các ông thả Sheikh Abdullah abdul-Razzaq và trả ông ta về Ai Cập hạn chót là 6 giờ tối ngày thứ sáu tuần sau. Hắn nói nếu ông không tuân theo yêu cầu của chúng, con gái ngài đại sứ sẽ chết. Không có gia hạn, đàm phán và không cần liên lạc. Nếu có bất kỳ nổ lực giải cứu nào Elizabeth Halton sẽ bị giết ngay lập tức”.
Hình ảnh nhoè đi. Carterdùng điều khiển tắt tivi rồi nhìn Gabriel.
“Anh có vẻ không ngạc nhiên”.
“Tôi đã biết về mạng lưới Thanh kiếm Allah hôm qua. Đó là lí do tôi có mặt ở đây”.
“Làm sao anh tìm ra?”.
“Những nguồn tin và phương pháp, Adrian à. Những nguồn tin và phương pháp”.
“Thôi nào”, Carter nói mềm mỏng. “Mạng sống của một phụ nữ đang gặp nguy hiểm. Giờ không phải là lúc tranh cãi”.
“Việc chúng tôi đang có hoà ước Ai Cập không có nghĩa là chúng tôi không cho gián điệp theo dõi họ. Chúng tôi cần biết thể chế này sẽ tồn tại hay sụp đổ. Chúng tôi cần biết liệu có phải mình sắp đối mặt với một nước cộng hoà Hồi giáo thù địch có vũ khí tiên tiến của Mỹ hay không. Và không phải lúc nào chúng tôi cũng lấy thông tin cần thiết từ những người bạn ở Langley này”.
“Tình báo của anh là SSI, tôi hiểu rồi?”.
Gabriel thở dài. “Tình báo của chúng tôi có nhiệm vụ giữ cho Mubarak và thể chế của ông ấy tồn tại”.
Carter xem đó như là sự xác nhận cho những hoài nghi của mình. “Tại sao chúng tôi chi trên 50 tỷ đô la để dựng lên thể chế đó mà anh lại phát hiện về mạng lưới Thanh kiếm Allah trước chúng tôi?”.
“Vì chúng tôi giỏi hơn các ông, Adrian, đặc biệt là ở khu vực Trung Đông. Chúng tôi lúc nào cũng giỏi hơn và sẽ luôn giỏi hơn. Ông có sức mạnh quân sự và cả sức mạnh kinh tế, nhưng chúng tôi có nỗi ám ảnh là mình có thể không sống sót. Nỗi sợ là động lực còn mạnh hơn tiền bạc”.
Carter đặt chiếc điều khiển lên bàn, suy tư rồi ngồi xuống chiếc ghế xoay lãnh đạo của mình.
“Ông lấy cuốn video khi nào?”, Gabriel hỏi.
Carter kể cho anh.
“Thế thông tin có đến với báo chí Anh chưa?”.
“Chưa”, Caretrr nói. “Chúng tôi mong muốn là sẽ không có chuyện đó – ít nhất là chưa phải lúc này. Chúng tôi muốn giữ bí mật khi lên kế hoạch đáp trả mà không có báo chí la ó theo mỗi bước đi”.
“Tôi sẽ không nhờ MI5 và Sở cảnh sát Anh bảo vệ cho bí mật được lâu. Người nào đó sẽ tiết lộ thông tin, như cách họ tiết lộ việc tôi dính líu và bị bắt”.
“Đừng quá nghiêm khắc đối với Graham Seymour”, Carter nói. “Chúng tôi cần anh ta và anh cũng vậy. Chúng ta, những anh em trong thế giới bí mật không bao giờ phản bội nhau khi gặp khó khăn trong những thời điểm như thế này. Chúng ta kết hợp với nhau để cùng hàn gắn vết thương. Chúng ta phải làm thế. Chính những kẻ mọi rợ là những cánh cổng ngáng đường”.
“Những kẻ mọi rợ đã phá cổng cách đây lâu rồi, Adrian. Chúng đang sống giữa chúng ta và đang tàn phá con cái chúng ta”, Gabriel nhấm nháp cà phê. “Lập trường của Tổng thống thế nào?”
“Không giống kiểu mà tôi muốn đối với kẻ thù tồi tệ nhất”, Carter đáp. “Như anh biết đấy, ông ta là người rất sùng đạo, ông ta chịu trách nhiệm, với cương vị người cha đỡ đầu cho Elizabeth. Điều đó có nghĩa là, ông ta biết nếu chiều theo yêu cầu của những kẻ bắt cóc, không nhà ngoại giao Mỹ nào trên thế giới sẽ còn được an toàn. Ông ta cũng hiểu nếu Sheikh Abdullah Abdul-Razzaq được phép trở về Ai Cập, chính quyền Mubarak sẽ thấy xuất hiện nhiều bất ổn. Với tất cả những vấn đề đó, Ai Cập vẫn là đất nước quan trọng nhất trong thế giới Arập. Nếu Ai Cập biến thành đất nước Hồi giáo, điều đó sẽ có hiệu ứng chia rẻ tai hoạ khắp khu vực – tai hoạ cho đất nước tôi và anh. Có nghĩa là Elizabeth Halton sẽ chết trong một tuần nữa, nếu ta không thể tìm thấy cô ấy và giải thoát cho ấy trước”.
Carter bước đến bên cửa sổ nhìn ra phía những cành cây trụi lá dọc bờ sông. “Anh đã ở vào hoàn cảnh như thế này rồi mà, Gabriel. Anh sẽ làm gì nếu là Tổng thống?”.
“Tôi sẽ bảo những tên lính to con nhất, lì lợm nhất làm mọi thứ có thể để tìm ra cô ấy”.
“Thế nếu không tìm được thì sao? Ta có thoả hiệp để cứu đứa con gái của ta khỏi mấy tên man rợ đó?”.
Gabriel không trả lời. Carter im lặng nhìn ra cửa sổ một lúc. “Bác sĩ của tôi nói stress trong công việc không tốt cho tim tôi. Ông ta nói tôi cần tập thể dục nhiều hơn. Hãy đi dạo với tôi, Gabriel. Như thế ta sẽ khoẻ khoắn hơn”.
“Bên ngoài lạnh 20 độ đấy”.
“Không khí lạnh tốt cho anh”, Carter nói. “Nó giúp ta suy nghĩ minh mẫn. Nó làm ta thêm quyết tâm cho những công việc phía trước”.
Họ ra khỏi toà nhà OHB bằng cửa hông rồi đi theo con đường mòn trải dài qua hàng cây nhìn xuống sông. Carter mặc áo khoác thật dày và đội mũ len. Gabriel chỉ mặc áo khoác da đã mặt trong buổi sáng hôm trước khi đi Síp và lúc đầu anh gần như tê cóng vì lạnh.
“Được rồi”, Carter nói. “Giờ không ai nghe đâu. Làm sao anh biết chúng định tấn công Luân Đôn?”.
“Không ai nghe sao?”, Gabriel nhìn quanh đám cây. “Chỗ này đầy camera, máy cảm ứng hoạt động và micro giấu bên trong”.
“Đúng”, Carter nói. “Nhưng trả lời câu hỏi đi chứ”.
Gabriel kể cho ông ta nghe về thông tin anh nhận được từ Ibrahim Fawaz, những tấm ảnh anh phát hiện trong cuộc lục soát căn hộ của Samir al-Masri và những đường kẻ trên tập hồ sơ anh đã phát hiện ra là sơ đồ của công viên Hyde Park.
“Hay lắm”, Carter nói với sự ngưỡng mộ trong giọng nói. “Thế anh chàng Gabriel Allon tuyệt vời đang làm gì ở Amsterdam?”.
“Tôi e là ông không được biết phần đó trong câu chuyện đâu”.
Carter chuyển sang chuyện khác. “Ibrahim Fawaz – nghe như kiểu người Hồi giáo mà chúng tôi đang tìm – một người chuyên tiết lộ những kẻ quá khích và khủng bố đang tồn tại bên trong cộng đồng và nơi cầu nguyện”.
“Đó cũng là những gì tôi suy nghĩ. Không may là đã có một mẻ lưới. Bên trong chiếc cặp tôi mang theo là phần tài liệu quan trọng của SSI về tổ chức thanh kiếm Allah. Hãy đoán xem tôi tìm thấy ai trong đống tài liệu đó?”.
“Nguồn tin của anh là Thanh kiếm Allah phải không?”.
Gabriel gật đầu. “Trước khi rời khỏi Ai Cập, Ibrahim Fawaz là Giáo sư kinh tế trường Đại học Minya. Theo hồ sơ, ông ta là một trong những người sáng lập đầu tiên của nhóm này. Ông ta bị bắt sau khi Sadat bị ám sát. Hồ sơ này không nói rõ về lý do và thời gian ông ta bị giam giữ”.
“Thường là thế”, Carter nói. “Sao ông ta rời Ai Cập đến châu Âu? Tại sao ông ta kể cho anh nghe có âm mưu đang được tổ chức từ bên trong nhà thờ Hồi giáo Al Hijrah ở Tây Amsterdam?”.
“Rõ ràng có người nào đó cần phải hỏi những câu này đối với ông ta – sớm còn hơn muộn. Ông ta nói dối tôi và không kể cho tôi nghe hết câu chuyện. Ông ta đang giấu giếm điều gì đó, Adrian”.
Họ đến chỗ giao nhau của hai con đường mòn. Carter chỉ Gabriel đi sang trái và họ cùng đi qua những tán cây trơ trụi. Carter rút ống điếu và một bọc thuốc lá khỏi túi áo khoác, từ từ cho thuốc vào ống điếu. “Họ không cho chúng tôi hút thuốc trong nhà nữa”, ông ta nói, dừng lại mồi thuốc bằng một cái bật lửa màu bạc rất đẹp.
“Ước gì chúng ta có thể vượt qua một quy tắc giống nhau”.
“Anh có tưởng tượng khi Shamron không có thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ không?”, Carter bắt đầu đi tiếp, để lại một làn khói có mùi gỗ thích phía sau lưng như một động cơ hơi nước. “Tôi cho là chúng ta có hai phương án. Phương án một, ta chuyển thông tin về Fawaz của anh cho cảnh sát Hà Lan rồi để họ đưa ông ta ra thẩm vấn, tất nhiên với sự giám sát chặt chẽ của FBI”.
“Còn phương án thứ hai?”.
“Chúng ta gọi ông ta lên nói chuyện kín, ở một nơi không có những quy tắc xét hỏi thông thường”.
“Ông biết tôi chọn phương án nào rồi”.
“Tôi mừng là anh có suy nghĩ như thế”, Carter nói. “Tôi nghĩ anh nên đi Amsterdam và đích thân chỉ đạo chiến dịch này”.
“Tôi hả?”, Gabriel lắc đầu. “Tôi e là vai trò của mình trong vụ này đã chính thức kết thúc rồi. Ngoài ra, CIA không phải là không có kinh nghiệm đối với kiểu chiến dịch này”.
“Chúng tôi có kinh nghiệm chứ”, Carter nói. “Nhưng không may là chúng tôi lại đào tạo được quá ít người – theo quan điểm của tôi, tôi rất xấu hổ khi nói ra điều này. Người châu Âu không còn nhắm mắt làm ngơ trước những hoạt động ngoài luật pháp của chúng tôi trên đất của họ nữa. Và mật vụ của chúng tôi cũng sợ bị truy tố trong nước hay ở nước ngoài nên họ không còn nhận những nhiệm vụ nhạy cảm mà không tham vấn luật sư. Vị Giám đốc dũng cảm của chúng tôi đã ra tay và thấy rằng hiện nay gió không còn thổi theo hướng của chúng tôi nữa. Những ngày lang thang ở châu Âu và Trung Đông và tha hồ vi phạm luật lệ đã qua rồi. Cánh cửa những nhà tù bí mật đã đóng lại và chúng tôi không còn đưa kẻ thù vào bàn tay của những người mơ mộng sử dụng tiểu thuyết cho vòi rồng cao su và gậy chọc gia súc nữa. Chúng tôi là một câu lạc bộ phù hợp cho những quý ông từ Princeton và Yale, nhưng phải như thế thôi”.
“Chúng tôi muốn khuyên những quý ông của ông từ Princeton và Yale chỉ được gới hạn ở khu đại lộ King Saul để họ không gặp rắc rối”.
Carter bước đi im lặng một lúc, mắt nhìn lên vỉa hè. “Chúng tôi đã chuẩn bị cho một việc như thế này xảy ra trong thời gian dài. Anh em chúng tôi ở FBI có trách nhiệm toàn bộ đối với những vụ giải cứu con tin trong hoàn cảnh như thế này. Tất nhiên là chúng tôi đang thu thập thông tin tình báo, liên lạc với cơ quan liên kết ở châu Âu và Trung Đông. Chúng tôi xem anh và đội ngũ của anh là thành phần đen trong nhiệm vụ đa quốc gia lớn hơn. Do đó, các anh sẽ là nhà thầu phụ của cơ quan tình báo Trung ương. Điều này có vẻ không có trong quy định nhưng với quá trình hợp tác vừa qua, tôi cho rằng mình có thể làm được”.
“Tôi cần sự chấp thuận của Thủ tướng”, Gabriel ngập ngừng. “Và tất nhiên là Shamron phải đồng ý”.
“Tôi sẽ thiết lạp đường dây nối với Jerusalem từ văn phòng của mình. Tôi hứa là không ai nghe trộm hết”.
“Tôi sẽ gọi cho ông từ Đại sứ quán nếu không phiền”.
“Tuỳ anh thôi”, Carter dừng lại gõ ống điếu vào thân cây. “Thế nguồn tin của anh có tình cờ cho anh biết ông ta nghĩ ai đứng đằng sau vụ này không?”
Gabriel trả lời câu hỏi. Carter gật đầu rồi thêm thuốc lá vào ống điếu. “Chúng tôi biết hết cả về Sphinx”, Carter nói. “Chúng tôi cho rằng hắn chính là người lên kế hoạch vụ tấn công khách du lịch tại khu Kim Tự Tháp cách đây ba năm làm 17 người Mỹ thiệt mạng. Chúng tôi còn cho rằng hắn có trách nhiệm đối với vụ giết hai nhà ngoại giao của chúng tôi ở Cairo. Cần nói thêm là một trong hai người là nhân viên CIA. Tôi e Sphinx là người rất có uy tín khi giao thiệp với những kẻ bắt cóc và giết người, những thành viên của Thanh kiếm Allah. Nhờ những nỗ lực của anh ở Luân Đôn, anh nên tin là mình đang ở hàng ưu tiên trong danh sách của hắn. Anh cần phải đề phòng khi trở lại chiến trường”.
“Tôi cho là anh đã nói cho người Ai Cập biết về cuốn video và những yêu sách?”
“Chúng tôi thấy không có chọn lựa nào khác”, Carter nói. “Họ cam kết hỗ trợ đầy đủ và cũng nói rõ với chúng tôi rằng thực hiện theo yêu sách của Thanh kiếm Allah là điều không tốt. Ngày hôm nay, Bộ trưởng Ngoại giao Ai Cập đang công du bí mật đến Washington để củng cố cho quan điểm đó với Bộ trưởng Ngoại giao và Tổng thống Hoa Kỳ. Ông ta mang theo một đội của Bộ nội vụ và đại diện của tất cả các cơ quan an ninh và tình báo Ai Cập. Chúng tôi đang bổ sung thêm thành phần Ai Cập cho lực lượng đặc nhiệm ở đây và Luân Đôn”.
“Phải bảo đảm không ai nói đến chuyện chiến dịch đen trước mặt họ. Người Hồi giáo đã xâm nhập vào mọi tầng lớp xã hội và chính quyền Ai Cập, trong đó có các cơ quan an ninh. Ông có thể tin chắc Sphinx có người liên hệ bên trong SSI”.
“Chiến dịch của anh không tồn tại và không ai biết ngoài tôi”, Carter nhìn đồng hồ. “Anh mất bao lâu để sắp xếp công việc ở Amsterdam?”.
“Tôi đã có người ở đó để bắt đầu theo dõi mục tiêu ngay lập tức”.
“Một người hả? Hy vọng anh ta giỏi”.
“Giỏi chứ”.
“Còn những người còn lại trong đội của anh?”.
“48 tiếng”.
“Vậy chỉ còn năm ngày trước thời hạn chót”, Carter nói. “Hãy dùng máy bay của tôi quay về Ben Guiron, như thế sẽ tiết kiệm cho anh nhiều giờ quý báu. Chúng tôi cần người của CIA tham gia đội của anh để điều phối hoạt động với nỗ lực lớn hơn. Nếu không, chúng tôi sẽ giẫm lên nhau trên sân đấu mất”.
“Tôi không muốn ai từ CIA đến tham gia đội của mình. Người đó sẽ gây cản trở, Ngoài ra, tôi dự kiến chúng tôi sẽ làm những việc vi phạm luật pháp của Hoa Kỳ. Tôi không thể chờ anh ta cứ năm phút lại dừng lại hỏi ý kiến luật sư ở Washington”.
“Tôi e là mình phải đòi hỏi thế”.
“Thôi được, Adrian, chúng tôi sẽ để ông đi cùng”.
“Không gì làm tôi vui hơn đâu, nhưng rời Tổng hành dinh không phải là lựa chọn của tôi, ít nhất là trong thời điểm này. Tôi đang nghĩ đến một ứng cử viên khác, người đã lăn lộn trên chiến trường và được thử thách rèn luyện qua nhiều khó khăn. Điều hay nhất là chính anh đã đào tạo cô ấy”.
Gabriel dừng lại. “Ông nghiêm túc chứ?”
“Tôi rất nghiêm túc”.
“Thế cô ấy đâu?”.
“Ban Trung Đông ở trung tâm Chống khủng bố”.
“Làm sao cô ấy sẵn sàng đi ngay được?”.
“Tôi gọi điện thoại nhé, rồi cô ấy sẽ là của anh”.