Phần 4: Cây Cầu Bắc Qua Sông Jahannam
Chương 43
Windfield House

    
ảy giờ 5 phút sáng rhứ sáu.
Khoảng một giờ đồng hồ sau thì tin tức về vụ thảm hoạ ở phía bắc Đan Mạch được truyền tới Washington, và sau 30 phút nữa thì tin tức đầu tiên đã đến Windfield House, nơi trú ngụ của Đại sứ quán Mỹ tại vương quốc Anh. Đã 3 giơ 15 phút sáng tại luân Đôn, 10 giờ 15 phút tối tại Washington, Robert Halton vẫn ngồi tại bàn làm việc của mình chờ tin tức từ phòng họp ở Nhà Trắng. Mặc dù ông đã ngồi hàng giờ đồng hồ để chờ điện thoại gọi đến nhưng ông vẫn giật mình khi tiếng chuông như tiếng súng phát ra ở gần đó. Lúc vồ lấy ống nghe, ông tưởng rằng sẽ nghe thấy tiếng Elizabeth khóc thổn thức bên kia đầu dây, nhưng ông lại nghe thấy giọng nói của Cyrus Mansfield, cố vấn của Bộ trưởng An ninh quốc gia. Những tin tức Mansfield nói với Halton không phải là những gì ông muốn nghe. Gabriel Allon và nguồn tin quý giá của mình ở Ai Cập đã được chuyển từ Copenhagen đến một nơi lộn xộn ở Đan Mạch, Mansfield nói. Có một vài vết tích liên quan đến một căn nhà bỏ hoang ở một nơi vắng vẻ tại bờ biển phía Bắc, cụ thể vẫn chưa biết rõ. Ở đó xảy ra một vụ nổ. Ít nhất 3 người đã chết. Phải đợi đến khi những đội điều tra đến hiện trường, cùng đội pháp y của Đan Mạch thì mới biết được Elizabeth có ở trong số bị giết đó không.
Thời gian còn lại của đêm đó, Robert Halton đã được thông báo những tin khủng khiếp. Mansfield gọi đến chỉ để thông báo cả những tin không quan trọng khiến cho người khác nổi cáu. Trong những hoàn cảnh như thế này thì có rất nhiều thông tin mâu thuẫn nhau và sau đó mới biết được thông tin nào là sai. Halton được cho biết có 3 xác chết trong căn nhà đó và 30 phút sau lại được thông báo lại là 4 xác chết. Mansfield nói rằng có bằng chứng cho thấy Elizabeth từng ở Đan Mạch và cho là cô vẫn còn tiếp tục ở đấy. Ở nơi đó đã diễn ra vụ nổ súng, Allon bị thương nặng và đã chết.
Cuối cùng vào 7 giờ 5 phút sáng giờ Luân Đôn, khi ánh bình minh chiếu qua công viên Regent, đích thân Bộ trưởng gọi đến nói rằng lính cứu hoả chỉ tìm thấy 3 xác chết trong đám tro tàn mà thôi. Theo lời khai của Gabriel Allon bị thương khá nặng nhưng vẫn còn sống. Có hai xác chết là của bọn khủng bố, một nam một nữ và xác còn lại là Ibrahim Fawaz, người Ai Cập. Hội đồng an ninh quốc gia, FBI, CIA và bộ ngoại giao Mỹ cho rằng Elizabeth vẫn còn sống và vẫn tiếp tục ra sức cứu cô thậm chí cả sau khi hết thời hạn. Robert Halton cúp máy và quỳ xuống tạ ơn Chúa. Sau đó ông vào phòng tắm và bị trượt chân. Ông nằm sõng xoài ở đó.
Ông nằm vài phút trên sàn đá hoa lạnh lẽo, thân thể gần như bị tê liệt trong đau khổ và buồn bã. Mày đang ở đâu thế này, Robert Halton, ông nghĩ. Có phải ở cái nơi mà những thương nhân tự do đã biến các công ty khai thác dầu thành một cuộc chiến năng lượng toàn cầu khốc liệt? Ở một nơi mà người đàn ông, nuốt nỗi đau của việc đã mất đi người vợ thân thương của rmình, sẵn sàng làm tất cả vì con gái? Ở một nơi mà một người đã xoay chuyển cục diện và đưa người bạn thân của ông vào Nhà Trắng? Halton thầm nghĩ và ông thấy không còn là mình nữa. Ông đã bị bọn khủng bố bắt cóc giống như Elizabeth, nhưng là về mặt tinh thần.
Halton đứng dậy súc miệng, bước ra khỏi nhà tắm, trở lại phòng làm việc. Giờ đây là sáng thứ sáu và tối nay có thể con gái ông sẽ chết. Robert Carlyle Halton, nhà tỉ phú và là người chi phối các chức vụ quan trọng đã không thể giúp được gì khi những đặc vụ Mỹ, Bộ ngoại giao, bộ phận hành pháp cùng với đối tác của họ từ châu Âu cho đến Trung Đông tìm kiếm con gái ông trong vô vọng. Halton đứng mơ hồ khi nghe những lời đảm bảo rỗng tuếch của họ rằng cuối cùng Elizabeth sẽ được cứu sống trở về với ông. Ông không đứng yên nữa mà sẽ sử dụng một vũ khí mà chỉ có những kẻ chống lại những người báng bổ đạo Hồi biết đó là gì. Hành động của ông có thể sẽ bị kết tội là phản quốc và Halton sẽ đưa cho bọn chúng vũ khí mà chúng có thể sử dụng để chống lại Hoa Kỳ và đồng minh, nếu buộc phải phản quốc để cứu được con gái mình thì Robert Halton sẵn sàng làm một kẻ phản bội, trong vài giờ thôi mà.
Ông bước tới ngồi xuống bàn làm việc một cách điềm tĩnh trước màn hình vi tính, tưởng tượng ra giây phút mình không còn là một người cha vô dụng nữa. Ông nhấp chuột và một bức thư hiện ra, ông đã viết nó trong tuần đầu xảy ra sự việc để dùng đến trong lúc này. Đôi mắt ông lướt qua bức thư.
Vì những sự việc đang diễn ra … không thể nào tiếp tục làm nhiệm vụ của một người đại sứ tại Luân Đôn. Thật vinh dự đã phục vụ … Robert Carlyle … Ông thêm vào ngày tháng rồi cho in ra, rồi nhìn lá thư chầm chậm rơi xuống từ bàn máy in. Sau khi ký tên xong, ông gửi đi bằng máy fax nhưng ông không bấm nút gửi vội, ông cần phải làm vài việc trước khi fax nó.
Halton nhấc điện thoại lên gọi đến một thuê bao ở Luân Đôn, số thuê bao nằm tại nhà số 10 phố Downing khu ở của Thủ tướng Anh. Và bên kia đầu dây là Oliver Gibbons, thư ký của Thủ tướng. Halton và Gibbons đã nói chuyện với nhau vài lần 2 tuần trước nên không cần phải quá trịnh trọng. Halton nói ông cần nói chuyện với Thủ tướng ngay lập tức, Gibbons đáp lại rằng Thủ tướng đang có cuộc họp trong bữa ăn sáng và 20 phút sau mới có thể nói chuyện được.
Cuộc họp kết thúc sớm hơn dự định bởi vì 12 phút sau Thủ tướng quay ra nghe điện thoại. “Tôi đang định làm chuyện gì dại dột”, Halton nói. “Tôi muốn biết liệu ông và các nhà chức trách có muốn nó xảy ra hay không?”.
Cuộc nói chuyện diễn ra rất ngắn và sau đó trong cuộc điều tra chính thức chỉ diễn ra khoảng 6 phút, Thủ tướng hứa rằng cảnh sát và các đặc vụ Anh sẽ làm những gì có thể để giúp ông. Halton cám ơn Thủ tướng rồi ông gọi số Đại sứ quán của ông. Stephen Berns, người đại diện của văn phòng ngoại giao nhấc máy. Cấp trên của anh ta Jack Hammon đã bị giết tại Hyde Park vào cái buổi sáng Elizabeth bị bắt cóc. Berns được thăng chức và trở thành người phát ngôn chính của Đại sứ quán trong suốt giai đoạn khủng hoảng.
“Tôi cần mở một cuộc họp với giới báo chí, Steve. Tôi muốn nó diễn ra tại Windfield thay vì ở Đại sứ quán. Việc này rất quan trọng, giới truyền thông có quyền được phát sóng trực tiếp từ đầu đến cuối cuộc họp báo, đặc biệt là giới truyền thông ở châu Âu và các kênh vệ tinh ở Arập”.
“Vào lúc mấy giờ?”.
“Anh có thể sắp xếp nó diễn ra vào sáng sớm không?”.
“Không vấn đề gì”, Berns nói. “Tôi có cần phác thảo trước bài diễn văn cho ông không?”.
“Không, tôi có thể tự lo lấy mà không cần bất kỳ văn bản nào cả. Nhưng tôi cần anh giúp một chuyện”.
“Giúp như thế nào ạ?”.
“Anh có thể liên lạc với al- Jazeera được không?”.
Berns khẳng định là anh có thể làm được. Anh đã từng ăn trưa vài lần với Cục trưởng al-Jazeera tại Anh nhằm ngăn đài này phát đi những tin tức có lợi cho al-Qaeda.
“Gọi cho ông ta ngay. Tiết lộ rằng tôi sắp sửa đưa ra một đền nghị với bọn bắt cóc”.
“Đề nghị gì?”.
“Một đề nghị mà chúng không thể nào từ chối được”.
“Tôi có cần phải biết thêm điều gì nữa không, thưa ngài đại sứ?”.
“Tôi sẽ từ chức, Steve à, anh có thể gọi tôi là Bob”.
“Vâng, thưa ngài đại sứ”.
“Halton gác máy rồi đứng dậy đi vào nhà tắm thay quần áo. Giờ đây ông không còn là ngài đại sứ Robert Halton, một nhà ngoại giao Mỹ tuyệt vọng và đau khổ, người mà không còn cách nào khác hơn là đứng nhìn con gái mình bị giết chết. Lại một lần nữa, ông trở về là Robert Carlyle Halton, một tỉ phú và nhà chi phối việc bổ nhiệm các chức vụ quan trọng, ông sẽ giành lại Elizabeth thậm chí phải mất đi những đồng xu cuối cùng.