Bút ký của Harry Haller
Chương 3
Dành riêng cho những người điên

    

ôi mời được cô gái lạ lùng, xinh xắn mới quen ở quán Đại Bàng Đen đi ăn vào tối thứ Ba; tôi đã phải nỗ lực ghê gớm mới qua hết được thì giờ cho đến hôm đó. Cuối cùng, khi ngày thứ Ba ấy tới, tôi mới thấy rõ ràng mức độ quan trọng đến kinh hoàng trong quan hệ của mình với người thiếu nữ vô danh ấy. Tôi toàn nghĩ đến nàng, chờ đợi ở nàng đủ mọi thứ, sẵn sàng hy sinh và hiến dâng nàng tất cả, dù chẳng yêu nàng mảy may. Chỉ cần tưởng tượng nàng nuốt lời hoặc quên hẹn là thấy ngay mình sẽ lâm vào trạng huống nào: thế gian sẽ lại trống rỗng, ngày lại ngày sẽ u ám và chẳng đáng kể gì nữa, quanh tôi sẽ lại chỉ toàn sự vắng lặng và lịm chết đến rợn người; không còn lối nào thoát khỏi địa ngục câm nín này, ngoài lưỡi dao cạo. Trong đôi ba ngày ấy tôi chẳng ham hố gì hơn lưỡi dao cạo, nó không mảy may mất đi vẻ đáng sợ. Song chính đây mới là điều đáng ghét: tôi sợ ghê gớm, sợ đến đứng tim khi phải cứa cổ mình; tôi sợ chết với sức mạnh hoang dại, dai dẳng; tôi kháng cự và vùng lên, như thể tôi là kẻ khỏe khoắn nhất thế gian và cuộc đời tôi là cả một thiên đường. Tôi nhận biết hoàn cảnh của mình rõ rành rành, không chút mơ hồ, rằng chính sự căng thẳng khôn kham giữa sự không thể sống và sự không thể chết đã khiến người con gái vô danh ấy, cô vũ nữ nhỏ nhắn xinh đẹp ở quán Đại Bàng Đen ấy, trở thành quan trọng xiết bao đối với tôi. Nàng là khung cửa sổ tí hon, là lỗ hổng bé tẹo lung linh sáng nơi hang động sợ hãi tối om của tôi. Nàng là sự giải thoát, là con đường đưa tôi đến tự do. Nàng phải dạy tôi sống hoặc dạy tôi chết, nàng phải chạm bàn tay cương nghị và xinh xắn lên trái tim đông cứng của tôi, để nó hoặc bừng nở do tiếp cận sự sống, hoặc rã thành tro bụi. Từ đâu nàng có những sức mạnh ấy, từ đâu nàng có pháp thuật ấy, cái ý nghĩa sâu xa mà nàng có đối với tôi đã nảy nở từ những nguyên do bí ẩn nào, tôi chịu không nghĩ ra được; mà cũng chẳng có gì quan trọng, tôi không cần phải biết. Tôi chẳng quan tâm chút nào nữa đến tri thức hay nhận thức, vì tôi đã bị nhồi nhét chính những thứ ấy quá nhiều rồi; chính nó chứa đựng nỗi dằn vặt và nhục nhã ghê gớm, ê chề nhất của tôi, nó khiến tôi nhận ra và ý thức quá rõ về trạng huống của mình. Tôi thấy tên khốn nạn ấy, tên thô lỗ Sói Thảo Nguyên ấy, ngay trước mắt không khác một con ruồi sa lưới nhện, tôi nhìn số phận nó nhích dần tới giây phút quyết định như thế nào, thấy nó bất lực ra sao, còn con nhên đang sẵn sàng đớp nó và một bàn tay cứu vớt xuất hiện cũng ngay gần đấy như thế nào. Tôi có thể nói những điều sáng suốt và rành mạch nhất về các mối tương quan cùng nguyên do gây nên sự đau khổ, bệnh tâm hồn, chứng quỷ ám và loạn thần kinh của tôi, vì tôi thấu suốt cơ chế của chúng. Nhưng trí thức và hiểu biết không phải là điều tôi cần, khiến tôi khao khát đến tuyệt vọng nhường ấy, mà sự trải nghiệm, sự quyết định, cú hích và sức đẩy.
Tuy trong đôi ngày chờ đợi ấy tôi không hề nghi ngờ rằng cô bạn sẽ nuốt lời, song đến ngày cuối tôi rất hồi hộp và không còn dám chắc chắn nữa; trong đời, tôi chưa từng nóng lòng ngóng chờ ngày qua đi và chiều tối đến như thế. Nhưng trong sự căng thẳng và sốt ruột khiến tôi dường như không chịu đựng nổi thì đồng thời chúng lại có mặt rất hay: với kẻ đã vỡ mộng, từ lâu không đợi chờ gì nữa, không ham muốn gì nữa như tôi thì quả là tuyệt diệu, khi suốt ngày toàn đi tới đi lui vì bồn chồn, lo lắng, mong chờ day dứt, hình dung lúc gặp gỡ, chuyện trò, buổi tối này sẽ đưa tới đâu, rồi lo cạo râu, đóng bộ (đặc biệt chăm chút, sơ mi mới, ca vát mới, dây giày mới). Dù cô gái nhỏ nhắn thông minh và đầy bí ẩn này là ai, dù nàng quan hệ với tôi theo cách nào đi nữa, tôi cũng chẳng xem đó là quan trọng; tôi chỉ cần biết một điều: nàng có thật, phép lạ đã xảy ra khiến một lần nữa tôi tìm thấy một con người và hứng thú mới cho cuộc sống! Quan trọng là phép lạ kia cứ tiếp diễn, còn tôi phó thác mình cho lực hấp dẫn này và đi theo ngôi sao ấy!
Giây phút gặp lại nàng thật không thể nào quên! Lúc đó tôi đang ngồi tại một chiếc bàn con trong ngôi nhà hàng cũ kỹ nhưng ấm cúng ấy - trước đấy tôi đã gọi điện đặt chỗ, một việc không cần thiết - tìm hiểu thực đơn và cắm vào một ly nước hai đóa lan xinh xắn mua tặng cô bạn. Tôi phải chờ nàng khá lâu, nhưng biết chắc nàng sẽ đến nên không hồi hộp nữa. Và nàng đến kia rồi; nàng dừng lại trước chỗ treo áo, chỉ chào tôi bằng cái nhìn chăm chú, hơi xét nét từ đôi mắt xám nhạt. Tôi nghi ngại để ý xem gã chạy bàn cư xử với nàng thế nào. Không, đội ơn Chúa, gã không thân mật mà giữ đủ khoảng cách, lễ độ không chê trách được. Nhưng họ quen biết nhau sẵn rồi, nàng gọi gã là Emil.
Khi tôi tặng nàng hai bông lan, nàng cười thích thú.
“Anh thật dễ thương, Harry ạ. Anh muốn tặng quà cho em, đúng không, mà không rõ nên chọn món gì, được phép tặng em tới mức nào, có xúc phạm em chăng, nên anh mới mua lan; chỉ là hoa thôi, nhưng đắt lắm đấy. Em cám ơn anh. Có điều em muốn nói ngay với anh: em không muốn được anh tặng. Em sống nhờ vào đàn ông, nhưng không muốn sống dựa vào anh. Mà anh đã thay đổi thật thôi! Không nhận ra nữa đấy. Hôm trước trông anh như mới được cứu khỏi dây thòng lọng, nay đã ra dáng con người rồi. Anh có làm theo lệnh của em không đấy?”
“Lệnh gì cơ?”
“Anh mau quên thế à? Em muốn nói là anh nhảy Fostrott được chưa? Anh đã bảo chẳng ao ước gì hơn là nhận mệnh lệnh của em, anh không thích gì hơn là vâng lời em mà. Anh nhớ chứ?”
“À, có chứ và sẽ như vậy mà. Anh nói nghiêm túc đấy.”
“Thế nhưng anh vẫn chưa học nhảy?”
“Nhanh thế được à, chỉ trong vài ngày ư?”
“Dĩ nhiên. Anh có thể học điệu Fox trong một giờ, điệu Boston trong hai giờ. Tango thì lâu hơn, song anh đâu cần.”
“Nhưng bây giờ anh phải dứt khoát biết tên em!”
Nàng lặng lẽ nhìn tôi một lúc.
“Có thể anh đoán ra mà. Em sẽ rất vui nếu anh đoán được. Chú ý nhìn em thật kỹ vào! Chẳng lẽ anh không thấy đôi lúc em có nét mặt con trai sao? Bây giờ chẳng hạn?”
Đúng thế, khi nhìn kỹ khuôn mặt nàng, tôi phải công nhận nàng có lý, đó là một khuôn mặt con trai. Tôi đang ngẫm nghĩ thì gương mặt kia như liền trò chuyện cùng tôi, gợi tôi nhớ lại thời niên thiếu của mình và người bạn trai thuở ấy tên Hermann. Trong một thoàng nàng dường như biến hẳn thành cậu Hermann nọ.
“Nếu em là trai,” tôi sửng sốt nói, “tên em phải là Hermann.”
“Biết đâu đấy, có thể em là trai và chỉ cải trang thôi,” nàng đùa.
“Em tên là Hermine(1) à?”
Nàng rạng rỡ gật đầu, vui mừng vì tôi đã đoán ra. Ngay lúc ấy nhà hàng bưng ra món xúp, chúng tôi liền bắt đầu ăn, nàng hào hứng như một đứa trẻ. Trong tất cả những điều nàng làm tôi thích và say mê thì điều tuyệt vời và độc đáo hơn cả là nàng có thể đột nhiên chuyển từ vẻ nghiêm trang cùng tột sang vẻ vui đùa ngộ nghĩnh nhất mực và ngược lại, rất tự nhiên chứ không cường điệu, cứ như một đứa bé giàu năng khiếu. Giờ đây nàng vui nhộn một lúc, trêu chọc tôi về chuyện Foxtrott, thậm chí còn thúc nhẹ chân tôi, hăm hở khen ngơi món ăn, nhận xét tôi đã chịu khó trong việc ăn mặc, nhưng chê vẫn còn nhiều thiếu sót.
Trong lúc ấy tôi hỏi nàng: “Em làm cách nào mà đột nhiên trông như con trai khiến anh đoán được tên em vậy?”
“Ơ, chính anh làm những chuyện ấy mà. Chàng học giả ơi, chẳng lẽ anh không hiểu rằng em khiến anh được hài lòng và em quan trọng đối với anh, bởi vì em là một loại gương soi cho anh, vì trong em có cái gì đó cho anh lời giải đáp và hiểu anh? Đúng ra mọi người đều nên là tấm gương soi cho nhau, đáp ứng nhau như thế, nhưng những kẻ kỳ quái như anh đích thị là kỳ quặc và dễ sa vào ma lực, khiến không thể nhìn thấy hay đọc được gì hết trong mắt kẻ khác, thành thử chẳng có gì liên quan tới họ nữa. Và khi một kẻ kỳ quái như thế đột nhiên lại gặp được một khuôn mặt thật sự chăm chú nhìn mình, cảm thấy nơi khuôn mặt ấy có chút gì như một lời đáp lại và mang nét thân thuộc, thì lúc đó dĩ nhiên hắn sẽ vui mừng.”
“Em biết hết mọi thứ, Hermine ạ,” tôi sửng sốt kêu lên. “Quả đúng y như em nói. Nhưng em vẫn khác anh hoàn toàn! Em chính là sự tương phản của anh; em có tất cả những gì anh thiếu.”
“Anh thấy thế,” nàng nói vắn tắt, “tốt thôi.”
Giờ đây một áng mây nặng trĩu nghiêm trang lướt trên khuôn mặt nàng, đối với tôi nó quả thật giống như một tấm gương ảo thuật; đột nhiên trên cả khuôn mặt ấy chỉ còn nét nghiêm trang, chỉ còn nét bi thương, thăm thẳm như đôi mắt trống rỗng của một chiếc mặt nạ. Nàng chậm rãi thốt ra từng tiếng một, như miễn cưỡng:
“Anh này, chớ quên điều anh đã nói với em đấy! Anh đã bảo em phải sai khiến anh và anh sẽ vui sướng tuân theo mọi sai khiến của em. Anh chớ quên nhé! Harry thân mến ơi, anh phải biết rằng anh cảm thấy từ em như thế nào – khuôn mặt em cho anh lời giải đáp, cái gì đó trong em đáp ứng anh, khiến anh tin cậy – thì em cũng cảm thấy từ anh như thế. Hôm trước thấy anh bước vào quán Đại Bàng Đen, mệt mỏi và lơ đãng kinh khủng, em đã cảm thấy ngay: người này sẽ nghe lời mình đây, anh ta khát khao được mình sai khiến đây! Và em cũng sẽ làm, vì thế em đã bắt chuyện với anh và vì thế mình đã trở thành bạn bè.”
Nàng nói rất mực nghiêm trang như thế, dưới sự thúc giục gay gắt như thế của tâm hồn, khiến tôi không kịp hiểu hết, nên đã tìm cách trấn an nàng và lái sang chuyện khác. Nàng nhíu mày không hài lòng, rồi nhìn tôi với vẻ chế ngự, lạnh lùng nói tiếp: “Anh phải giữ lời, cưng ạ; em bảo rồi đấy, bằng không anh sẽ ân hận. Anh sẽ nhận được nhiều mệnh lệnh của em và sẽ làm theo, những mệnh lệnh hay ho, thú vị và anh sẽ thích thú tuân lời cho mà xem. Và rốt cuộc anh cũng hoàn thành mệnh lệnh cuối cùng của em đấy, Harry ạ.”
“Anh sẽ làm,” tôi nhu nhược đáp. “Mệnh lệnh cuối cùng em giao cho anh là cái gì?” Tôi hỏi, nhưng đã linh cảm thấy rồi, có Chúa biết tại sao.
Nàng lắc đầu như thể run run vì giá lạnh và có vẻ như đang dần tỉnh từ sự trầm ngâm. Nàng nhìn tôi chăm chắm, rồi chợt trở nên ủ dột hơn.
“Không cho anh biết thì em mới là khôn ngoan. Nhưng Harry ơi, em không muốn khôn ngoan, lần này không. Em muốn điều gì đấy khác hẳn. Anh lắng nghe nhé! Anh nghe, rồi anh sẽ quên, sẽ cười, sẽ khóc vì điều em sắp nói. Cưng ơi, chú ý nhé! Em muốn cùng anh chơi trò sống và chết, ông anh thân mến ạ, và em muốn lật cho anh thấy các quân bài của em ngay trước khi mình chơi.”
Khuôn mặt nàng mới đẹp sao, mới siêu phàm sao khi nàng nói điều ấy! Trong đôi mắt lạnh lùng và sáng kia bềnh bồng một nỗi buồn có ý thức; đôi mắt ấy dường như đã chịu đựng và chấp nhận mọi khổ đau mà người ta có thể hình dung. Nàng thốt ra thật khó khăn, ngọng nghịu, không khác người nói lúc khuôn mặt cứng đơ vì giá lạnh; nhưng giữa đôi môi và nơi khóe miệng nàng, ở sự nghịch ngợm của chót lưỡi hiếm khi hé lộ - trái ngược với ánh mắt và giọng nói – lại rào rạt nhục cảm ngọt ngào và những đòi hỏi thiết tha về lạc thú. Một lọn tóc ngắn lòa xòa trên vầng tráng phẳng phiu trầm lặng và từ đó, từ nơi góc trán vương lọn tóc ấy, làn sóng của vẻ nam tính, vẻ lưỡng tính ma thuật ở nàng thỉnh thoảng lại ùa tới như một làn hơi sinh động. Đầy sợ hãi, tôi lắng nghe nàng nói, nhưng nửa mê nửa tỉnh, như thể mụ mẫm.
“Anh thích em,” nàng nói tiếp, “vì cái lý do em đã nói với anh; em đã phá vỡ nỗi cô đơn của anh, em đã níu được anh ngay trước cổng địa ngục và làm anh tỉnh lại. Nhưng em muốn nhiều hơn ở anh, thật nhiều. Em muốn làm cho anh say mê em. Không, đừng phản đối, để em nói đã! Anh rất thích em, em cảm thấy mà, và anh biết ơn em, nhưng không say mê. Em muốn làm cho anh say mê em, nghề của em mà; em sống nhờ làm được cho đàn ông say mê em. Nhưng chú ý này, em làm thế không phải vì thấy anh đáng mê đâu nhé. Em không mê anh đâu, Harry ạ, giống như anh đối với em thôi. Nhưng em cần anh, như anh cần em vậy. Anh cần em, lúc này đây, vì anh đang tuyệt vọng và cần được đẩy xuống nước cho tỉnh lại. Anh cần em để học khiêu vũ, học cười, học sống. Còn em cần anh, không phải hôm nay, sau này cơ, cũng cho việc gì đấy thật quan trọng và thật đẹp. Khi anh mê đắm em rồi, em sẽ trao cho anh mệnh lệnh cuối cùng, anh sẽ tuân lời và điều ấy sẽ tốt đẹp cho cả anh lẫn em.”
Nàng nhẹ nâng một trong hai bông lan nâu tím, vân màu lục, cuối nhìn đăm đăm một lúc.
“Anh sẽ thấy chuyện ấy chẳng dễ dàng đâu, nhưng anh sẽ làm. Anh sẽ thực hiện mệnh lệnh của em và giết em. Thế đấy. Đừng hỏi thêm!”
Nàng nín lặng trong khi mắt vẫn không rời đóa lan, khuôn mặt dịu lại, như một nụ hoa nở bung dưới sức căng, và đột nhiên một nụ cười làm mê đắm rạng rỡ trên đôi môi, còn đôi mắt nàng vẫn đăm đăm nhìn một lúc như bị thôi miên. Đoạn nàng lắc cái đầu có những lọn tóc xoăn như một bé trai, hớp một ngụm nước, rồi sực nhớ ra chúng tôi đang dùng bữa, liền thích thú ăn uống ngon lành.
Tôi nghe rõ từng lời nói ghê gớm của nàng, thậm chí đoán được cả cái “mệnh lệnh cuối cùng” trước khi nàng nói ra, nên không kinh hoàng nữa về câu “Anh phải giết em.” Với tôi thì mọi điều nàng nói đều rất thuyết phục và là tiền định, nên tôi chấp nhận chứ không phản bác, tuy nhiên tôi vẫn thấy mọi điều ấy không hoàn toàn thực tế và nghiêm túc, dù nàng nói ra với vẻ nghiêm chỉnh đáng sợ. Một phần tâm hồn tôi nuốt và tin từng lời nàng nói, phần kia gật gù trấn an và ghi nhận rằng hóa ra cô nàng Hermine thông minh, khỏe mạnh, vững vàng nhường ấy cũng có những tưởng tượng và trạng thái nửa tỉnh nửa mê. Nàng vừa dứt lời, một tấm màn của huyền ảo và bất lực phủ lên toàn cảnh.
Tuy nhiên tôi lại không thể nhảy ngược trở về với cõi khả thể và cõi thực dễ dàng như Hermine đi trên dây. 
“Nghĩa là anh sẽ có lần giết em?” tôi hỏi, vẫn chưa hết mơ màng, trong khi nàng đã lại cười và hăm hở cắt miếng thịt vịt.
“Dĩ nhiên,” nàng gật đầu chiếu lệ, “nói thế đủ rồi, bây giờ là lúc mình ăn. Harry, làm ơn gọi cho em ít xa lát! Anh không thấy ngon miệng à? Em nghĩ trước hết anh phải học tất cả những gì mà đối với người khác là đương nhiên, thậm chí cả sự vui thú trong ăn uống. Cho nên cưng hãy nhìn nhé, đây là cái đùi vịt, khi ta lóc lớp thịt trắng ngon lành này khỏi xương thì đúng là một bữa tiệc, ta sẽ thấy thèm, tim ta sẽ căng thẳng và biết ơn như một kẻ si tình lần đầu được giúp người mình yêu cởi bỏ áo khoác[2]. Anh hiểu chứ? Không à? Anh đúng là ngố như cừu! Chú ý nhé, em cho anh một miếng của chiếc đùi vịt ngon lành này, anh sẽ thấy. Nào, há miệng ra! Anh thật đáng ghét! Lạy Chúa, chàng còn liếc qua những người khác, xem họ có nhìn khi chàng ăn một miếng từ cái nĩa của tôi không! Đừng lo, hỡi cậu con trai hoang toàng, em sẽ không bêu rếu anh đâu. Nhưng nếu anh phải xin phép người khác mới dám vui thú thì anh đúng là một gã ngố đáng thương!”
Quang cảnh lúc này đây khiến khung cảnh trước đó càng trở nên như không có thật, không đáng tin, rằng mới vài phút trước thôi đôi mắt này còn nhìn trừng trừng, nặng nề và khủng khiếp. Hermine trong khung cảnh đó cũng như chính cuộc đời thôi: luôn chỉ là một khoảnh khắc, không bao giờ lường trước được. Giờ đây nàng đang ăn; đùi vịt và xa lát, bánh ngọt và rượu mùi được coi trọng, thành đối tượng của hân hoan và bình phẩm, của trò chuyện và tưởng tượng. Mỗi lần món cũ được dọn đi, món mới được bưng ra là bắt đầu một chương mới. Người đàn bà này, người đã thấu suốt tôi hoàn toàn, người dường như hiểu biết về cuộc đời hơn mọi nhà thông thái, lại như trẻ thơ chơi thật tuyệt vời trò chơi về cuộc đời trong khoảnh khắc ấy, khiến tôi chỉ đáng là học trò. Dù là thông tuệ cao vời hay thơ ngây nhất mực: ai biết cách sống khoảnh khắc ấy như thế, ai sống trong hiện tại như thế, ai ân cần và thân ái trân trọng từng bông hoa nhỏ trên đường, từng giá trị của khoảnh khắc chơi đùa nho nhỏ thì cuộc đời chẳng gây nổi thiệt hại gì cho họ. Và lẽ nào cô bé vui tươi đang ăn uống ngon lành kia với vẻ rất sành ẩm thực lại đồng thời là một kẻ mơ mộng, một kẻ loạn thần kinh ước ao được chết hoặc một kẻ tính toán chu đáo, mang trái tim lạnh lùng, cố ý làm tôi say mê và trở thành nô lệ của nàng? Không thể nào lại thế được. Không, nàng sống hết mình với khoảnh khắc của hiện tại, nên nàng mở lòng với mọi điều chợt nghĩ ra, dù vui hay chỉ thoáng qua như một thoáng rùng mình mơ hồ từ cõi xa xăm sâu thẳm của tâm hồn và cứ để mặc nó phát triển.
Cô nàng Hermine này, người mà hôm nay là lần thứ hai tôi gặp, đã biết hết tất cả về tôi và dường như tôi không thể giấu giếm nàng một điều gì. Có thể nàng không thấu hiểu hết được đời sống tinh thần của tôi; có thể nàng không theo nổi tôi trong quan hệ với âm nhạc, với Goethe, Novalis hay Baudelaire[3] – nhưng chính điều này cũng rất không chắc, có thể nàng chẳng gặp khó khăn gì. Mà dù đúng vậy chăng nữa thì “cuộc sống tinh thần” của tôi còn lại gì nào? Tất cả đều chẳng đã nát vụn và mất hết ý nghĩa rồi ư? Còn đối với những vấn đề khác của tôi, những chuyện riêng tư và những mong muốn của tôi, nàng sẽ hiểu được hết, tôi chắc chắn. Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ nói với nàng về Sói Thảo Nguyên, về tập luận thuyết, về hết thảy mọi chuyện, những chuyện cho đến nay chỉ hiện hữu với riêng tôi và tôi chưa hề hé với ai một lời nào. Không thể cầm lòng được, tôi bắt đầu liền.
“Hermine này,” tôi nói, “mới đây anh gặp một chuyện khá ly kỳ. Một kẻ không quen biết đưa anh một quyển sách mỏng, giống tập quảng cáo về chợ phiên, trong đó viết chính xác toàn bộ câu chuyện của anh và mọi thứ liên quan đến anh. Em thấy có lạ kỳ không?”
“Quyển ấy tên gì?” nàng hỏi qua quýt.
“Tên là Luận thuyết về Sói Thảo Nguyên.”
“Ồ, Sói Thảo Nguyên thì tuyệt quá! Và anh là con Sói Thảo Nguyên ấy à? Nó viết về anh?”
“Phải, chính anh đấy. Anh là một kẻ nửa người nửa sói, hoặc giả anh tưởng thế.”
Nàng không đáp, nàng chăm chú nhìn vào mắt tôi, dò xét, ngó hai bàn tay tôi và trong một khoảnh khắc ánh mắt và khuôn mặt nàng trở lại vẻ nghiêm trang sâu lắng, cuồng nhiệt nhưng ảm đạm lúc nãy. Nếu tôi đoán không sai, thì nàng đang nghĩ không biết tôi có đủ là sói không để hoàn thành “mệnh lệnh cuối cùng” của nàng.
“Dĩ nhiên đó chỉ là một điều tưởng tượng của anh thôi,” nàng nói, tươi tỉnh trở lại, “hoặc, nếu anh muốn, một bài thơ. Nhưng cũng có chút gì đấy thật. Bữa nay anh không là sói, nhưng hôm trước, khi bước vào trong quán, anh cứ như từ mặt trăng rơi xuống; lúc ấy anh quả có hơi giống mãnh thú, chính điều ấy đã làm em thích.”
Nàng chợt ngừng, vì đột nhiên nảy ra một ý gì đấy, rồi nói tiếp như bị đụng chạm: “Những từ như ‘mãnh thú’ hay ‘thú dữ’ nghe mới ngớ ngẩn làm sao! Người ta không nên nói như thế về súc vật. Chúng thường gớm ghiếc thật đấy, nhưng vẫn hoàn hảo hơn con người nhiều.”
“Thế nào là ‘hoàn hảo’? Em muốn nói gì chứ?”
“Thế này nhé, anh cứ nhìn một con vật mà xem, con mèo, con chó, con chim hoặc thậm chí một trong những con to đẹp trong vườn thú, chẳng hạn con báo châu Mỹ hay con hươu cao cổ! Anh thấy là chúng đều hoàn hảo, không một con nào lúng túng hoặc không biết phải làm gì và phải cư xử thế nào. Chúng không muốn nịnh nọt anh, cũng không muốn làm anh thán phục. Chúng không đóng trò. Chúng thế nào thì chúng sống thế, như đá, như hoa hay như các tinh tú trên bầu trời. Anh hiểu chứ?”
Tôi hiểu.
“Phần lớn thú vật đều buồn bã,” nàng nói tiếp. “Khi một con người quá buồn, không phải do đau răng hay mất tiền, mà vì có một lần nào đấy trong vòng một giờ y cảm thấy hết thảy cuộc đời mình là như thế nào, lúc ấy y mới thật sự buồn, lúc ấy trông y luôn hao hao một con thú – lúc ấy trông y thảm não lắm, nhưng hoàn hảo hơn, đẹp hơn lúc thường. Thế đấy, và anh, con Sói Thảo Nguyên, đã trông như thế đấy, khi em gặp anh lần đầu.”
“Ờ, thế em nghĩ gì về tập sách miêu tả anh trong đó, hở Hermine?”
“Chậc, anh biết không, em không thích nghĩ ngợi hoài hoài. Mình sẽ nói về điều này một lần khác. Có thể lần nào đấy anh đưa nó cho em đọc. À không, nếu có lần nào đấy em nên đọc sách lại, hãy đưa em một trong những quyển sách do chính anh viết.”
Nàng gọi cà phê, rồi có vẻ lơ đãng, mơ màng một lúc; đột nhiên nàng rạng rỡ như vừa ngẫm nghĩ ra điều gì.
“Này,” nàng hớn hở reo lên, “em nghĩ ra rồi!”
“Chuyện gì thế?”
“Chuyện về điệu Foxtrott ấy, em nghĩ suốt từ nãy đến giờ. Cho em biết: anh có căn phòng nào mà thỉnh thoảng hai đứa mình khiêu vũ chừng một giờ được không? Nhỏ cũng được, chẳng sao, miễn không có ai ở ngay bên dưới, kẻo mỗi lần trần nhà rung chuyển sơ sơ họ lại lên làm toáng lên. Tốt, rất tốt! Vậy anh có thể học nhảy ở nhà được rồi.”
“Ừ,” tôi rụt rè, “càng tốt. Nhưng anh cứ tưởng phải có nhạc mới nhảy được.” 
“Dĩ nhiên cần chứ. Thế này nhé, anh sẽ mua nhạc; tối đa chỉ bằng tiền anh học một khóa nhảy có cô giáo hướng dẫn thôi. Anh tiết kiệm được tiền trả cô giáo, vì em sẽ tự đảm nhiệm vai trò ấy. Thế là lúc nào mình muốn nhạc cũng có, lại còn lời thêm cái máy quay đĩa.”
“Máy quay đĩa à?”
“Đương nhiên. Anh sắm một cái nhỏ thôi và dăm đĩa hát nữa…”
“Tuyệt vời,” tôi reo lên, “và nếu em dạy anh khiêu vũ thật sự thành công, em sẽ được chiếc máy quay đĩa này như tiền thù lao. Đồng ý?”
Tôi nói ra vẻ cương quyết, nhưng lòng lại không nghĩ thế. Tôi không thể hình dung nổi trong căn phòng làm việc của mình với đầy sách vở lại có một cái máy mà mình không chút thiện cảm, cả cái chuyện nhảy nhót tôi cũng có lắm điều bất ưng. Thỉnh thoảng, tôi nghĩ thế, tập tành cũng được, tuy tin chắc rằng mình đã quá già, gân cốt cũng đơ, không học nổi nữa. Mà với tôi thì dồn dập kiểu này là hối hả quá và tôi cảm thấy trong người mình nhất loạt chống lại, như tôi – một kẻ già nua sành âm nhạc vẫn phản đối máy quay đĩa, Jazz và nhạc khiêu vũ tân thời. Bây giờ trong thư phòng này, nơi suy nghĩ và trú ẩn của tôi, bên cạnh Novalis và Jean Paul lại vang lên cả những bản nhạc bán chạy của Mỹ, còn tôi phải nhảy múa nữa thì đó quả là một đòi hỏi quá đáng mà người ta không thể chờ đợi ở tôi. Nhưng đó không phải là đòi hỏi của một kẻ bất kỳ nào,  mà của Hermine, và nàng có quyền ra lệnh. Tôi tuân lời. Dĩ nhiên tôi tuân lời.
Xế trưa hôm sau chúng tôi gặp nhau trong một quán cà phê. Khi tôi đến, nàng đã ngồi ở đấy, uống trà và mỉm cười đưa tôi xem một tờ báo nàng phát hiện có tên tôi. Đó là một trong những tờ báo phản động ở đất nước tôi, chuyên kích động hận thù, thỉnh thoảng lại loan truyền một bài phỉ báng tôi kịch liệt. Trong thời chiến, tôi là kẻ chống chiến tranh; khi chiến tranh kết thúc, thỉnh thoảng tôi lại kêu gọi sự trầm tĩnh, nhẫn nại, lòng nhân đạo và tự phê phán, chống lại sự kích động mang đầu óc dân tộc ngày một thêm gay gắt, ngu xuẩn và điên rồ. Giờ đây tờ báo đó cũng lại có một bài công kích kiểu ấy, viết tồi, nửa của biên tập, nửa kia góp nhặt từ những bài tương tự của báo giới có quan điểm gần gũi với y. Mọi người đều biết không ai viết lách kém cỏi như những kẻ bảo vệ các ý thức hệ đã già cỗi, không ai hành nghề thiếu trong sạch và cẩu thả đến thế. Hermine đã đọc bài báo ấy, nên biết rằng Harry Haller là một phần tử nguy hại, một tên vô Tổ quốc và tất nhiên Tổ quốc của y sẽ không thể nào ngóc đầu lên nổi, chừng nào những bọn người như thế, những tư tưởng như thế được dung túng và thanh niên được giáo dục những ý tưởng nhân đạo ủy mị thay vì dùng chiến tranh phục hận kẻ thù truyền kiếp[3].
“Phải anh đây không?” Hermine chỉ vào tên tôi, hỏi. “Chà, Harry ơi, vậy là anh có khá nhiều kẻ thù rồi đấy nhé. Anh bực mình không?”
Tôi đọc lướt vài hàng, toàn thứ quen thuộc; từ nhiều năm nay tôi đã quá quen đến thành chán ngấy từng lời phỉ báng sao chép vụng về kiểu ấy.
“Không,” tôi đáp, “anh không bực mình, anh quá quen những thứ này rồi. Đã đôi lần anh nói lên suy nghĩ của mình, rằng mỗi dân tộc, thậm chí mỗi người, thay vì tự ru ngủ với những ‘câu hỏi về lỗi lầm’ nhuốm sự giả trá chính trị, cần tìm hiểu ngay chính dân tộc mình, bản thân mình để xem chính nó có lỗi tới đâu trong cuộc chiến tranh ấy cùng mọi thống khổ khác trên thế giới, do sai lầm, sơ suất và tập quán xấu xa; đó là phương cách duy nhất ngõ hầu tránh được cuộc chiến tranh sắp tới. Họ không tha thứ cho anh điều ấy, vì dĩ nhiên họ đều tự cho là vô tội: Hoàng đế, tướng tá, giới đại kỹ nghệ gia, các chính trị gia, các tờ báo - chẳng ai thấy mình có chút gì đáng trách, chẳng ai có lỗi lầm nào hết thảy! Người ta có thể nghĩ rằng thế gian này thật là tuyệt vời, chỉ phải cái có cả chục triệu người bị giết vùi thây trong lòng đất thôi. Và Hermine ơi, dù những bài báo phỉ báng kiểu này không thể khiến anh bực bội nữa, nhưng đôi khi quả có làm anh buồn rầu. Hai phần ba đồng bào anh đọc những loại báo này, sáng nào, tối nào cũng đọc những giọng điệu này, ngày nào họ cũng bị nhào nặn, hiệu triệu, kích động, biến thành bất mãn và căm hận; mục đích và cứu cánh của tất cả những việc này lại là chiến tranh, là cuộc chiến tranh sắp tới, hẳn sẽ kinh tởm hơn cuộc chiến tranh vừa qua. Tất cả những điều này đều rõ ràng và đơn giản, ai cũng có thể nhận thấy được, ai cũng có thể rút ra cùng một kết luận ấy sau chỉ một giờ suy ngẫm. Nhưng không ai muốn cả, không ai muốn ngăn ngừa cuộc chiến tranh sắp tới, không ai muốn tránh cho bản thân và con cái mình hàng triệu cuộc tàn sát sắp tới, nếu họ không thể trả một giá rẻ hơn. Để ra một giờ ngẫm nghĩ, quán chiếu mình một lúc và tự hỏi rằng chính mình đã tham gia và chịu trách nhiệm tới mức nào về sự hỗn loạn và độc ác trên thế gian này - em thấy đấy, chẳng ai muốn cả! Thành ra mọi chuyện sẽ cứ tiếp diễn như vậy và cuộc chiến tranh sắp tới đang ngày ngày được hàng nghìn, hàng vạn người hăm hở chuẩn bị. Từ khi nhận biết điều này, anh như bị tê liệt và tuyệt vọng; anh không còn ‘Tổ quốc’, không còn lý tưởng nữa, tất cả chỉ còn là vật trang trí cho những ngài đang chuẩn bị cuộc chém giết sắp tới. Ngẫm nghĩ, nói hoặc viết một điều gì nhân bản thì thật là vô nghĩa, đầu óc bận bịu với những tư tưởng tốt lanh thì thật là vô nghĩa - trong lúc hai, ba người làm những chuyện này thì ngày ngày có tới cả nghìn tờ báo, tạp chí, diễn văn, những buổi họp công khai hoặc bí mật, ra sức hướng tới điều ngược lại và chúng sẽ thành công.”
Hermine lắng nghe với vẻ cảm thông.
“Vâng,” nàng nói, “anh có lý đấy. Dĩ nhiên sẽ xảy ra cuộc chiến tranh mới, không cần đọc báo cũng biết. Tất nhiên người ta có thể vì thế mà buồn phiền, nhưng đâu được gì. Chẳng khác một người rầu rĩ vì nhất định sẽ có ngày phải chết, dù ông ta làm đủ cách nhằm cưỡng lại. Harry yêu quý ơi, cuộc chiến chống lại chết chóc luôn luôn là một hành động đẹp đẽ, cao quý, tuyệt vời và đáng kính, cuộc chiến chống lại chiến tranh cũng thế. Nhưng nó cũng luôn là một hành động hào hiệp viển vông vô vọng, kiểu Don Quichotte thôi.”
“Điều đó có thể đúng,” tôi gay gắt kêu lên, “nhưng viện ra những chân lý kiểu chẳng bao lâu nữa chúng ta đều phải chết để rồi làm ngơ trước mọi chuyện sẽ khiến cả cuộc sống trở thành tẻ nhạt và ngớ ngẩn. Vậy chúng ta nên quẳng hết mọi thứ, từ bỏ mọi suy nghĩ, mọi phấn đấu, mọi hanh động nhân đạo, để mặc cho tham vọng cùng tiền tái tiếp tục thống trị, ung dung uống bia chờ cuộc tổng động viên sắp tới ư?”
Ánh mắt Hermine nhìn tôi lúc ấy mới lạ lùng sao, một ánh mắt ranh mãnh, đầy thích thú, đầy giễu cợt và đầy cảm thông của tình bạn, đồng thời cũng rất nặng nề, am hiểu và hết sức nghiêm chỉnh!
“Anh đâu cần phải thế,” nàng dịu dàng như một bà mẹ. “Không phải vì anh biết cuộc chiến đấu của mình chẳng đạt kết quả gì mà đời anh thành tẻ nhạt và ngớ ngẩn. Harry ơi, nó sẽ tẻ nhạt hơn nhiều, nếu anh tranh đấu cho điều gì đấy tốt đẹp và lý tưởng với ý nghĩ phải đạt cho bằng được. Lý tưởng là để đạt đến ư? Chẳng lẽ chúng ta, con người, sống để triệt bỏ cái chết ư? Không, chúng ta sống để hãi sợ nó, nhưng rồi lại yêu nó và chính vì nó mà thỉnh thoảng cuộc đời ngắn ngủi bừng lên được một giờ thật huy hoàng. Harry ơi, anh là một đứa trẻ con. Bây giờ hãy ngoan ngoãn đi với em; bữa nay mình có nhiều việc phải làm. Hôm nay em không bận tâm đến chiến tranh và báo chí nữa. Thế còn anh?”
Ờ không, cả tôi cũng không muốn bận tâm nữa.
Chúng tôi cùng đi - đây là lần đầu tiên chúng tôi đi với nhau trong phố - đến một cửa hàng nhạc cụ, ngắm nghía các máy quay đĩa, mở ra đóng vào, vặn dây cót[5] nghe thử, rồi khi tìm được một cái rất thích hợp, giá phải chăng, tôi muốn mua liền, nhưng Hermine chưa chịu ngay. Nàng bảo hãy thư thả, rồi tôi phải cùng với nàng vào một cửa hàng thứ hai, xem và nghe đủ mọi loại lớn nhỏ, từ đắt nhất đến rẻ nhất, lúc ấy nàng mới đồng ý quay lại tiệm đầu tiên để mua chiếc máy chúng tôi đã tìm thấy ở đó.
“Em thấy chưa,” tôi nói, “lẽ ra mình không cần mất công đi tới đi lui như thế này.”
“Anh nghĩ vậy à? Nhỡ đâu ngày mai mình lại tìm thấy cũng cái máy này ở tủ kính trưng bày của một cửa hàng khác, rẻ hơn hai mươi franc[6]. Hơn nữa mua sắm thế mới vui, cái gì vui thì mình phải tận hưởng. Anh còn phải học nhiều.”
Một người giao hàng mang giúp món chúng tôi vừa sắm này đi theo về căn hộ của tôi.
Hermine quan sát kỹ càng phòng khách của tôi, ngợi khen lò sưởi và chiếc đi văng; nàng ngồi thử mấy chiếc ghế, cầm lên vài quyển sách, dừng lại một lúc lâu trước tấm ảnh người yêu của tôi. Chúng tôi đặt chiếc máy quay đĩa trên nóc tủ, giữa những chồng sách. Và giờ đây bắt đầu bài học của tôi. Nàng cho chạy một điệu Foxtrott, biểu diễn vài bước, rồi nắm tay tôi, hướng dẫn. Tôi ngoan ngoãn bước theo, va vào mấy cái ghế; tôi làm theo lệnh nàng, nhưng không hiểu, nên đã giẫn lên chân nàng, đúng là vừa mẫn cán vừa vụng về. Sau bài thứ hai, nàng gieo người lên đi văng, cười rũ rượi như một đứa trẻ.
“Trời ạ, sao mà người anh cứng đơ thế! Anh hãy bước bình thường như đi dạo vậy! Không cần phải gồng! Em nghĩ anh đã nóng người rồi chứ gì? Vậy mình nghỉ năm phút! Anh thấy đấy, nếu rành rẽ thì khiêu vũ cũng đơn giản như suy nghĩ tôi, thậm chí dễ hơn nhiều. Giờ đây anh sẽ bớt nóng nảy khi thấy người ta không muốn tập thói quen ngẫm nghĩ, mà thích gọi ông Haller là một kẻ bán nước hơn và bình thản chờ cuộc chiến tranh sắp tới.”
Một giờ sau nàng từ giã, cả quyết rằng lần tới tôi sẽ khá hơn. Tôi lại nghĩ khác, nên rất thất vọng về sự ngu dốt và vụng về của mình; tôi cho rằng trong một giờ này tôi chẳng học được gì sất và không tin lần tới sẽ khá hơn. Không, để khiêu vũ người ta phải sẵn có những khả năng mà tôi hoàn toàn thiếu: vui vẻ, tự nhiên, vô tư, hào hứng. Ờ thì, tôi đã nghĩ thế từ lâu rồi mà.
Nhưng xem kìa, lần thứ nhì quả thật có khá hơn, thậm chí tôi còn bắt đầu thấy thích thú nữa; cuối giờ học Hermine quả quyết tôi nhảy Foxtrott được rồi. Nhưng khi nàng suy diễn tiếp rằng ngày mai tôi phải tới một quán ăn để nhảy với nàng thì tôi hết cả hồn vía, cực lực phản đối. Nàng lạnh lùng nhắc nhở tôi đã thề tuân lệnh và hẹn tôi ngày mai tới dùng trà tại khách sạn Cung Thiên Bình.
Buổi tối ấy tôi ngồi ở nhà, muốn đọc sách mà không nổi. Tôi sợ ngày mai; tôi kinh hoàng khi nghĩ rằng mình, một kẻ kỳ quặc già nua, nhút nhát và nhạy cảm, không chỉ đến một trong những trà đình, đồng thời là vũ trường, tân thời và chán ngắt với nhạc Jazz, lại còn phải chứng tỏ mình là một vũ nam giữa những kẻ lạ hoắc, ngoài ra chẳng biết gì thêm. Tôi thú nhận đã tự cười thầm và xấu hổ, khi một mình quay máy đĩa rồi đôi chân đi vớ nhẹ nhàng tập lại những bước nhảy của bài Fox trong căn phòng im ắng.
Hôm sau có một ban nhạc nhỏ chơi tại khách sạn Cung Thiên Bình; người ta bưng trà và Whisky ra cho khách. Tôi tìm cách dụ khị Hermine, đặt bánh ngọt trước mặt nàng, đề nghị gọi một chai vang ngon, nhưng nàng không nhân nhượng.
“Bữa nay anh đến đây không phải để tiêu khiển. Mà đây là giờ học khiêu vũ.”
Tôi phải nhảy với nàng hai, ba lần và trong lúc nghỉ giải lao nàng giới thiệu tôi với anh chàng thổi kèn saxophone, một thanh niên đẹp trai, da nâu, gốc Tây Ban Nha hay Nam Mỹ gì đấy, chơi được mọi nhạc cụ, nàng bảo thế, và nói được mọi thứ tiếng trên thế giới. Senõr[7] này có vẻ rất thân quen với Hermine; trước mặt y có hai cây kèn saxophone kích cỡ khác nhau mà y dùng thay đổi, trong lúc đôi mắt đen nhánh của y chăm chú thú vị ngắm nhìn người ta khiêu vũ. Tôi sửng sốt khi cảm thấy lòng mình có gì đấy như thể ghen tuông với tay nhạc công bảnh trai, vô hại này; không phải ghen vì yêu đương, bởi giữa tôi và Hermine làm gì có chuyện ấy, nhưng ghen về tình bạn của họ thì đúng hơn, vì tôi thấy y không thật xứng đáng với lòng quan tâm, sự đề cao khác thường, phải nói là ngưỡng mộ, mà nàng dành cho y. Mình phải làm quen với những hạng người kỳ quái, tôi bực bội nghĩ.
Rồi Hermine được mời nhảy hết bài này đến bài khác, còn tôi ngồi một mình bên ly trà, nghe nhạc, một loại nhạc xưa nay tôi không ưa nổi. Chúa ơi, tôi thầm nghĩ, thế là giờ đây tôi được hướng dẫn vào - và để trở thành quen thuộc - với một thế giới mà mình lạ lẫm, ghê tởm, khinh bỉ xiết bao và cho đến nay vẫn thận trọng lánh xa, thế giới của bọn la cà trác táng, thế giới của những cái bàn cẩm thạch bóng láng sao chép vụng về, của nhạc Jazz, của gái điếm thượng lưu, của đám lái thương lưu động! Tôi rầu rĩ nhấp trà, đăm đăm nhìn đám người thanh lịch nửa vời. Hai cô gái đẹp thu hút ánh mắt tôi, cả hai đều nhảy giỏi, tôi khâm phục và ganh tị dõi theo; bước nhảy của họ mới dẻo, đẹp, tươi và vững làm sao.
Rồi Hermine lại xuất hiện, không hài lòng về tôi. Nàng xỉ vả rằng tôi đến đây đâu phải để mang bộ mặt như thế và ngồi xụi lơ ở bàn uống trà, mà hãy vui lòng mạnh dạn khiêu vũ. Sao cơ, tôi không quen ai à? Cần gì. Chẳng lẽ không có cô gái nào làm tôi thích ư?
Tôi chỉ cho nàng cái cô đẹp nhất vừa đứng gần chúng tôi, thật dễ thương trong chiếc váy nhung xinh xắn, mái tóc vàng ngắn và dày, đôi cánh tay tròn lẳn rất đàn bà. Hermine dứt khoát đòi tôi phải tới mời cô nàng đó nhảy. Tôi tuyệt vọng phản đối.
“Anh không thể!” tôi khổ sở nói. “Ừ, phải chi anh là một gã xinh trai trẻ trung! Đằng này lại là một lão già ngu ngốc cứng đờ, không hề biết nhảy - cô ta sẽ cười anh trẹo quai hàm mất!”
Hermine khinh miệt nhìn tôi.
“Còn em cười anh thì dĩ nhiên anh mặc kệ chứ gì. Anh thật hèn! Ai lân la làm quen với đàn bà con gái cũng đều mạo hiểm, vì có thể bị cười; đó là cái giá phải trả. Harry ơi, hãy liều đi, cùng lắm thì anh chịu bị cười thôi - bằng không em hết tin rằng anh tuân lời em.”
Nàng không nhân nhượng. Tôi bối rối đứng lên, bước tới chỗ cô gái xinh đẹp nọ, đúng lúc nhạc lại vừa trỗi lên.
“Đúng ra có người mời em bài này rồi,” nàng nói và tò mò nhìn tôi với đôi mắt to linh lợi, “nhưng người bạn nhảy của em chừng như đã mọc rễ luôn nơi quầy rượu đàng kia. Nào, mời ông!”
Tôi ôm nàng, đi những bước đầu tiên, lòng còn đang ngạc nhiên vì không bị nàng từ chối, thì nàng đã nhận ra trình độ nhảy của tôi, liền đảm trách việc hướng dẫn. Nàng nhảy thật tuyệt vời, dìu tôi theo; trong giây lát tôi quên bẵng mọi chuyện mình phải làm cũng những quy tắc khi khiêu vũ, tôi cứ việc bơi theo, cảm thấy đôi hông căng, đôi đầu gối mềm mại nhanh nhẹn của nàng; tôi nhìn vào khuôn mặt trẻ trung, rạng rỡ của nàng, thú thật với nàng hôm nay là lần đầu tiên tôi khiêu vũ trong đời. Nàng mỉm cười, khuyến khích tôi, khôn ngoan đáp lại ánh mắt hân hoan cùng những lời tán tỉnh của tôi không phải bằng lời nói, mà qua những động tác nhẹ nhàng, khiến chúng tôi thêm gần gũi và say đắm. Tay phải tôi ôm chặt eo nàng, sung sướng và hăm hở theo những động tác của đôi chân, đôi tay, đôi vai nàng; tôi sửng sốt vì không một lần giẫm lên chân nàng, rồi khi tiếng nhạc chấm dứt, hai chúng tôi đứng lại, vỗ tay cho đến khi bản nhạc được chơi lại và một lần nữa tôi hăm hở, kính ngưỡng, say mê hoàn tất nghi thức.
Khi bài khiêu vũ chấm dứt, theo tôi là quá sớm, cô gái váy nhung ấy rút lui và Hermine - từ nãy vẫn nhìn chúng tôi - đột nhiên xuất hiện bên cạnh tôi.
“Anh thấy gì chưa?” nàng cười khen ngợi. “Anh phát hiện chân cẳng đàn bà không phải là chân bàn rồi chứ? Hoan hô! Anh nhảy Fox được rồi đấy, đội ơn Chúa, mai mình sẽ tập điệu Boston; ba tuần nữa sẽ có khiêu vũ hóa trang tại sảnh đường Địa Cầu.”
Lúc đó nghỉ xả hơi, chúng tôi ngồi vào bàn; tay Pablo đẹp trai, trẻ trung, cái gã thổi kèn saxophone ấy, tới gật đầu chào rồi ngồi xuống cạnh Hermine. Xem ra y rất thân mật với nàng. Còn tôi, xin thú nhận, hoàn toàn chẳng chút thích thú trong lần đầu gặp gỡ này. Không thể chối cãi rằng y tốt mã, thân hình đẹp, bảnh trai, ngoài ra tôi chẳng phát hiện thêm điểm nào hơn người ở y. Về mặt thông thạo nhiều thứ tiếng thì y chẳng hề gặp khó khăn, vì y có nói năng gì đâu, ngoài những từ như không dám, cám ơn, đúng vậy, hẳn rồi, hallo và đại loại mà tất nhiên y có thể nói những từ ấy bằng nhiều thứ ngôn ngữ. Không, Senõr Pablo này chẳng nói năng gì sất và y, tay caballero[7a] điển trai này, dường như cũng không suy nghĩ nhiều nữa cơ. Công việc của y là thổi kèn saxophone trong dàn nhạc Jazz và dường như y nhiệt thành say mê nghề ấy, nên đôi khi đang chơi nhạc y đột nhiên vỗ tay hoặc tự cho phép lớn tiếng bật ra như thể ca hát những âm thanh bày tỏ lòng hâm mộ: “Ô ô ô ô, ha ha, hallo!” Ngoài ra, rõ ràng y chẳng có nhiệm vụ gì khác trên thế gian này hơn là đẹp trai, làm cho phụ nữ hài lòng, đeo cổ cồn cùng ca vát kiểu mới nhất và mang thật nhiều nhẫn. Y giúp vui bằng cách ngồi vào bàn chúng tôi, mỉm cười với chúng tôi, nhìn đồng hồ đeo tay và vấn thuốc lá, việc mà y rất khéo. Đôi mắt đẹp sẫm màu của người Creole[8], mái tóc xoăn đen chẳng cho thấy y có được chút lãng mạn hay ưu tư hoặc suy nghĩ gì - nhìn gần thì tay á thánh đẹp trai có sức quyến rũ đặc biệt này chẳng qua chỉ là một thanh niên vui nhộn, hơi được nuông chiều, biết cách cư xử, thế thôi. Tôi nói với y về thứ nhạc cụ y đang sử dụng và về những âm điệu trong nhạc Jazz, để y biết là đang đụng phải một kẻ thưởng thức lão luyện và am hiểu về những chuyện liên quan đến âm nhạc. Nhưng y không đi vào những chuyện ấy; rồi trong lúc vì lịch sự tôi nói gì đấy với y, đúng ra với Hermine, như thể biện minh về mặt lý thuyết cho nhạc Jazz, y chỉ mỉm cười vô thưởng vô phạt, chẳng ăn nhập gì đến tôi cũng những nỗ lực của tôi, chừng như y hoàn toàn không biết rằng trước khi có nhạc Jazz và ngoài nó ra còn có vài ba thứ nhạc khác nữa. Y khả ái, khả ái và nhã nhặn, mỉm cười dễ thương từ đôi mắt to chẳng chứa đựng gì; nhưng giữa y và tôi dường như không có điều gì chung - chẳng điều gì quan trọng và thiêng liêng đối với tôi, chúng tôi sinh ra từ những vùng đất đối nghịch, ngôn ngữ không có được một từ giống nhau. (Nhưng về sau Hermine kể tôi nghe một điều khác thường. Nàng cho biết sau buổi trò chuyện này Pablo bảo nàng cần đối xử ân cần với tôi, vì tôi thật rất bất hạnh. Khi nàng hỏi y căn cứ vào đâu, y đáp: “Ông ấy là một con người khốn khổ. Cứ nhìn vào mắt ông ấy khắc rõ! Ông ấy không biết cười.”)
Khi gã mắt đen này cáo biệt chúng tôi và nhạc lại trỗi lên, Hermine đứng dậy. “Harry, bây giờ anh lại có thể nhảy với em đấy. Hay anh không uốn nữa?”
Ngay cả với nàng giờ đây tôi nhảy cũng dễ dàng hơn, phóng khoáng và vui vẻ hơn, tuy không thật thoải mái và đắm say như với cô gái nọ. Hermine để tôi dịu đi, nàng theo bước chân tôi, mềm mại và nhẹ nhàng như một cánh hoa; rồi tôi cũng cảm thấy cả ở nàng những vẻ duyên dáng lúc sát lại gần, lúc rời xa, cả nàng cũng tỏa mùi hương đàn bà và tình yêu, cả lối khiêu vũ của nàng cũng trìu mến và tha thiết hát lên bài ca thanh nhã và quyến rũ của giới tính - thế mà tôi lại không thể hoàn toàn tự do, hân hoan đáp lại tất cả những điều ấy, không thể toàn tâm dâng hiên. Hermine quá gần gũi với tôi; nàng là bạn học, là em gái, nàng tương tự tôi, giống tôi và giống Hermann, người bạn thuở thiếu thời của tôi, kẻ say mê nhiệt thành, nhà thơ, bạn đồng hành sôi nổi trong những đeo đuổi về tình thần và những thái quá của tôi.
Sau đó, khi tôi nói với nàng những điều này, nàng bảo “Em biết, em biết rất rõ. Tuy em sẽ vẫn cứ làm cho anh phải lòng em, nhưng chuyện ấy chẳng vội gì. Trước hết mình là bạn, mình mong muốn trở thành bạn thân, vì mình đã chấp nhận nhau. Bây giờ mình muốn học hỏi lẫn nhau và cùng nhau chơi đùa. Em cho anh thấy cái sân khấu bé nhỏ của em, em dạy anh khiêu vũ, vui chơi một tí và ngớ ngẩn một tí, còn anh chỉ bảo cho em những tư tưởng và đôi chút kiến thức của anh.”
“Chà, Hermine ơi, anh đâu có gì nhiều để chỉ bảo, em biết nhiều hơn anh chứ. Em là một người thật kỳ lạ đấy, cô bé ơi! Em hiểu anh trong mọi chuyện, em vượt xa anh. Anh có đáng kể gì với em không đấy? Anh không làm em nhàm chán sao?”
Nàng sa sầm nhìn xuống đất.
“Em không thích nghe anh nói thế đâu. Hãy nhớ lại buổi tối anh kiệt sức và tuyệt vọng trốn chạy đau khổ lẫn cô đơn, tình cờ gặp em, rồi thành bạn đồng hành của em! Theo anh nghĩ thì tại sao lúc ấy em có thể nhận biết và hiểu được anh chứ?”
“Tại sao thế, Hermine? Nói anh biết đi!”
“Vì em giống như anh. Vì em cũng cô đơn y hệt anh, em cũng không mấy yêu thương và coi trọng cuộc sống, không mấy coi trọng con người ta cùng bản thân em, giống như anh vậy. Bao giờ cũng có một vài kẻ đòi hỏi cuộc đời điều tối đa, chứ không thể chấp nhận sự ngu xuẩn và thô bạo của nó.”
“Em ơi, em!” tôi kêu lên đầy kinh ngạc. “Bạn ơi, anh hiểu em, không ai hiểu em bằng anh. Thế mà em vẫn là một điều bí ẩn đối với anh. Em sẽ vượt qua cuộc đời dễ như bỡn, em biết trân trọng khác thường những điều nhỏ nhặt và những thú vui, em là một nghệ sĩ như thế đấy trong cuộc sống. Làm sao em có thể đau khổ vì nó? Làm sao em có thể tuyệt vọng được?”
“Em không tuyệt vọng, Harry ạ. Nhưng đau khổ vì cuộc sống thì có đấy, em kinh nghiệm chuyện đó mà. Anh ngạc nhiên rằng em không hạnh phúc, trong khi em biết nhảy nhót và rành rẽ những chuyện hời hợt của cuộc đời. Còn em, bạn ơi, em ngạc nhiên thấy anh thất vọng đến thế về cuộc đời, trong khi anh lại rất quen thuộc với những điều đẹp đẽ nhất, sâu xa nhất, trong tinh thần, nghệ thuật và tư tưởng! Chính vì thế mình đã thu hút lẫn nhau, chính vì thế mình là anh em. Em sẽ dạy anh khiêu vũ, vui chơi và cười đùa, nhưng vẫn không thỏa mản. Và anh sẽ dạy em suy nghĩ cùng hiểu biết, nhưng vẫn không thỏa mãn. Anh có biết rằng hai đứa mình là con của quỷ không?”
“Anh biết, đúng thế đấy. Quỷ là tinh thần, còn mình là những đứa con bất hạnh của nó. Mình rơi khỏi thiên nhiên, lơ lững giữa tầng không. Nhưng anh chợt nhớ ra điều này: trong tập Luận thuyết về Sói Thảo Nguyên mà anh đã kể với em có nói rằng việc Harry tin hắn có một hoặc hai linh hồn, hắn được tạo ra từ một hoặc hai nhân cách chỉ là tưởng tượng của hắn thôi. Mọi người đều hình thành với mười, với cả trăm, cả nghìn linh hồn.”
“Em rất thích điều này,” Hermine kêu lên. “Chẳng hạn ở anh phần tâm linh đã phát triển rất cao, thành ra bù lại anh lạc hậu trên mọi nghệ thuật sống cỏn con. Nhà tư tưởng Harry đã trăm tuổi, còn gã vũ nam Harry chưa được nửa ngày tuổi. Bây giờ mình sẽ làm cho gã vũ nam này tiến xa hơn, cùng với lũ anh em cũng nhỏ bé, ngu muội và chưa trưởng thành như hắn.”
Nàng mỉm cười nhìn tôi, rồi đổi giọng dịu dàng hỏi:
“Còn anh thích Maria thế nào?”
“Maria? Ai vậy?”
“Cô nàng anh vừa cùng nhảy đó. Một cô gái đẹp, rất đẹp. Nếu em không nhầm thì anh đã hơi phải lòng nàng rồi.”
“Em biết cô ấy à?”
“Biết chứ, chúng em rất thân nhau mà. Anh mến nàng lắm phải không?”
“Anh mến cô ấy và rất mừng vì cô ấy đã khoan dung cho trình độ khiêu vũ của anh.”
“A, nếu chỉ có thế thôi! Anh phải tán tỉnh nàng một chút, Harry ạ. Nàng rất xinh, nhảy giỏi, còn anh đã phải lòng nàng rồi. Em tin anh sẽ thành công.”
“Ái chà, anh không tham vọng thế đâu.”
“Anh hơi nói dối đấy nhé. Em được biết anh có đâu đấy trên thế gian này một người tình và xuân thu nhị kỳ mới gặp, để rồi cùng nàng cãi cọ. Anh đúng là rất đàng hoàng, nếu muốn trung thành với cô bạn lạ kỳ ấy, nhưng cho em được phép không tin lắm! Em hoàn toàn không tin rằng anh rất mực coi trọng tình yêu. Anh có thể như thế, anh có thể yêu theo kiểu lý tưởng của anh, nhiều như anh muốn; đó là chuyện của anh, em chẳng cần phải lo. Nhưng điều em phải quan tâm là giúp anh học thuần thục hơn chút ít những nghệ thuật và trò chơi nho nhỏ, nhẹ nhàng trong cuộc đời. Trong lĩnh vực này em là cô giáo của anh và sẽ giỏi hơn cô người tình lý tưởng của anh, anh cứ tin đi! Sói Thảo Nguyên ơi, lại đến lúc anh cần ngủ với một cô gái đẹp rồi đấy!”
“Hermine,” tôi khổ sở kêu lên, “nhìn anh này, anh là một lão già!”
“Anh là một cậu bé. Anh đã quá lười không chịu học nhảy như thế nào để đến nỗi suýt quá muộn thì anh cũng quá lười học yêu đương như thế. Bạn ơi, yêu đương kiểu lý tưởng và bi thảm thì chắc chắn anh xuất sắc rồi, em không hề hoài nghi, mà xin bày tỏ lòng kính trọng! Giờ đây anh sẽ học cách yêu đương hơi bình thường và con người hơn. Bước đầu đã xong, chẳng bao lâu nữa em có thể để anh đi dự vũ hội được rồi. Trước hết anh còn phải học điệu Boston nữa, mai mình bắt đầu. Em sẽ đến vào lúc ba giờ. Nhân thể hỏi luôn, anh thấy nhạc ở đây thế nào?”
“Tuyệt.”
“Anh thấy chưa, đó cũng là một tiến bộ anh học thêm được đấy. Trước đây anh không chịu nổi mọi thứ nhạc khiêu vũ và nhạc Jazz,  anh thấy chúng không nghiêm trang và quá hời hợt. Bây giờ anh đã thấy ta chẳng cần phải coi trọng nó mà nó vẫn có thể rất dễ thương, rất hay. Nói thêm, nếu thiếu Pablo thì ban nhạc chẳng còn gĩ nữa. Anh ấy dẫn dắt nó, bơm nhiệt tình vào nó.”
Cái máy quay đĩa đã làm vẩn đục bầu không khí khổ hạnh trong phòng làm việc của tôi như thế nào, những điệu khiêu vũ của Mỹ đã thâm nhập một cách lạc lõng vào thế giới âm nhạc mà tôi dày công chăm chút, đã gây khó chịu, thậm chí hủy hoại như thế nào, thì những điều mới mẻ, những điều đáng sợ, những điều gây tan rã cũng đã từ mọi phía lấn vào cuộc sống của tôi, cho đến nay vẫn được phân định rạch ròi và hết sức tách biệt. Tập luận thuyết về Sói Thảo Nguyên và Hermine đã có lý với thuyết về nghìn linh hồn, vì ngày ngày lại thêm vài linh hồn mới xuất hiện trong tôi, bên cạnh hết thảy những linh hồn cũ; chúng đưa yêu sách, gây náo loạn và nay tôi thấy cái ảo giác về nhân cách của mình rõ rành rành như một tấm hình ngay trước mắt. Tôi đã chỉ chú tâm đến dăm ba khả năng và kỹ xảo mà mình ngẫu nhiên có được chút tài, đã vẽ nên hình ảnh một tay Harry và đã sống cuộc đời của hắn, kẻ thật ra chẳng là gì khác hơn một chuyên gia được đào tạo rất lơ mơ về thơ văn, âm nhạc và triết lý[9] - còn tất cả những gì sót lại nơi cá nhân mình, cái đống hỗn mang những khả năng, bản năng, khát vọng tôi đều coi là phiền nhiễu và gán cho cái nhãn Sói Thảo Nguyên.
Tuy nhiên, sự thay đổi cách suy nghĩ này về ảo giác của tôi, sự xóa bỏ này về nhân cách của tôi hoàn toàn không phải một việc phiêu lưu thoải mái và thú vị; ngược lại nó thường vô cùng đau đớn, thường gần như khôn kham. Cái máy quay đĩa thường vang lên thật khủng khiếp ngay giữa môi trường này, nơi mọi thứ được bố trí hòa hợp với những thanh âm khác hẳn. Và đôi lúc, khi tôi nhảy điệu Onestep giữa những kẻ chơi bời trác táng và những kẻ khoe khoang bịp bợm thanh lịch trong một nhà hàng thời thượng, tôi cảm thấy như đã phản bội lại tất cả những gì từng là đáng trọng và thiêng liêng đối với mình trong đời. Giả dụ Hermine bỏ tôi lẻ loi chỉ tám ngày thôi, hẳn tôi sẽ ngay lập tức thoát khỏi những trò thử gian lao và lố bịch nhằm trở thành một kẻ ăn chơi phóng đãng. Nhưng Hermine lại luôn có mặt; tuy không phải ngày nào tôi cũng gặp nàng, nhưng nàng luôn theo dõi, hướng dẫn, giám sát, kiểm định tôi - nàng mỉm cười, vì đọc được cả những ý tưởng phản kháng dữ dội và trốn chạy trên gương mặt tôi.
Cùng với sự hủy hoại dần dần cái mà trước đây tôi gọi là nhân cách của mình, tôi cũng bắt đầu hiểu tại sao bất chấp mọi tuyệt vọng mình lại phải sợ chết khủng khiếp đến thế và bắt đầu nhận ra rằng ngay cả sự sợ hãi đến mức kinh tởm và hèn hạ này trước cái chết cũng là một phần sự hiện hữu trưởng giả, giả dối trước kia của tôi. Cái ông Haller này, cho đến nay là nhà văn có năng khiếu, kẻ am hiểu Mozart và Goethe, tác giả của những chiêm nghiệm đáng đọc về sự siêu hình của nghệ thuật, về thiên tư và sự bi thảm, về nhân loại, nhà ẩn cư sầu muộn trong căn phòng đầy sách vở của mình, đã buộc phải tự phê bình từng điểm một và chẳng điểm nào không thiếu sót. Cái ông Haller tài hoa và lôi cuốn này tuy đã rao giảng về lý trí và lòng nhân đạo, đã phản đối sự tàn bạo của chiến tranh, nhưng trong lúc thế giới chém giết lẫn nhau ông lại không chịu để bị lôi ra xử bắn nơi pháp trường, như đúng ra đó là hệ quả tất nhiên từ những tư tưởng của ông, mà lại tìm ra một giải pháp thích nghi nào đấy, đương nhiên hết sức đúng đắn và cao cả, song dẫu sao vẫn chỉ là nửa vời thôi. Ngoài ra, ông còn là kẻ thù của quyền lực và sự bóc lột, nhưng ông lại gửi ngân hàng nhiều cổ phiếu của các hãng kỹ nghệ và ông cứ việc tiêu pha số tiền lãi từ các cổ phiếu ấy mà chẳng hề thấy lương tâm cắn rứt. Mọi chuyện khác cũng đều như thế. Tuy Harry Haller đã giả trang tuyệt vời thành kẻ có lý tưởng, kẻ khinh miệt thế gian, thành kẻ ẩn xư âu sầu và nhà tiên tri phẫn nộ, nhưng thực chất hắn là một kẻ trưởng giả, coi lối sống như của Hermine là đáng chê trách, hắn bực dọc vì những đêm uổng phí trong quán ăn, về những đồng tiền hắn đã vung vít cũng chính ở đấy, hắn bị lương tâm cắn rứt nhưng lại hoàn toàn không khao khát sự giải thoát và toàn thiện, mà ngược lại vô cùng khao khát trở về với quãng đời thoải mái trước kia, khi những trò trí thức vặt vãnh của hắn còn khiến hắn thú vị và đem lại cho hắn vinh quang. Y hệt như vậy, những độc giả nhật báo bị hắn khinh miệt và nhạo báng cũng khao khát quay về với thời kỳ lý tưởng trước chiến tranh, vì như thế thoải mái hơn là học hỏi từ nhữn điều họ đang phải hứng chịu. Trời đánh thánh vật lão Haller này, hắn làm tôi muốn nôn mửa! Tuy thế tôi vẫn bám chặt lấy hắn hay đúng hơn bám vào cái mặt nạ đã rã rời của hắn, vào thói làm duyên làm dáng của hắn với trí tuệ, vào nỗi sợ hãi kiểu trưởng giả của hắn trước sự hỗn loạn và ngẫu nhiên (cái chết cũng thuộc vào đây), và tôi so sánh một cách giễu cợt và đầy đố kỵ tay Harry mới hình thành này, cái gã vụng về hơi nhút nhát và lố bịch của các phòng khiêu vũ, với hình ảnh lý tưởng giả dối trước kia của hắn, trên đấy hắn đã phát hiện - sau lần ở nhà ông giáo sư - chính mọi đặc điểm đáng căm ghét mà ngày đó tấm hình Goethe đã khiến hắn vô cùng bực bội. Chính hắn, tay Harry trước đây, từng y hệt một ông Goethe được lý tưởng háo kiểu trưởng giả như thế, một người hùng của trí tuệ như thế với ánh mắt rất mực quý tộc, sáng ngời - như được phết dầu láng - sự cao cả, đầu óc sắc sảo, lòng nhân đạo và gần như mủi lòng trước chính tâm hồn quý phái của mình! Quỷ thần ơi, hình ảnh đẹp đẽ này chẳng may đã lỗ chỗ thảm hại, cái ông Haller lý tưởng này đã bị hạ bệ thảm thương! Trông hắn cứ như một kẻ quyền cao chức trọng bị lũ cướp đường trấn lột sạch, còn mỗi cái quần te tua; lẽ ra hắn nên khôn ngoan học đóng vai kẻ lam lũ rách rưới, nhưng hắn lại cứ khoác mớ giẻ rách ấy như thể trên đó vẫn lủng lẳng huân chương và tiếp tục nức nở đòi lại phẩm cách đã mất.
Tôi thường hay gặp lại gã nhạc công Pablo nọ; chính vì Hermine quá mến y, thiết tha bầu bạn với y, nên tôi phải xét lại đánh giá của mình về y. Ấn tượng Pablo đã để lại trong tôi là một con số không xinh xắn, một gã đẹp trai nhỏ nhắn, kiêu căng đôi chút, một đứa trẻ vui nhộn và không gây phiền toái, hớn hở thổi chiếc kèn trompet ở chợ phiên, dễ bảo nếu biết cách phỉnh phờ hoặc dùng bánh kẹo. Nhưng Pablo không quan tâm đến nhận xét của tôi; y dửng dưng về chuyện ấy cũng như đối với những lý thuyết về âm nhạc của tôi. Y lịch sự và thân mật nghe tôi nói, thường xuyên mỉm cười, nhưng không bao giờ trả lời nghiêm túc. Mặc dù vậy, chừng như tôi đã khơi được sự chú ý của y, vì rõ ràng y cố hắng làm tôi vui lòng và tỏ ra thiện cảm với tôi. Có lần, khi tôi bực mình và gần như lỗ mãng tại một trong những buổi trò chuyện chẳng tới đâu ấy, y sửng sốt và buồn bã nhìn vào mặt tôi, nắm lấy bàn tay trái của tôi vuốt ve, rồi móc gì đấy từ một chiếc hộp nhỏ mạ vàng mời tôi hít, bảo rằng nó sẽ làm tôi dễ chịu. Tôi đưa mắt hỏi Hermine, nàng gật đầu nên tôi đã nhận và hít thử. Quả thật chỉ lát sau tôi liền thấy tỉnh táo và sinh động hơn, chắc hẳn trong thứ bột ấy có cocain. Hermine kể với tôi rằng Pablo có nhiều loại thuốc như thế này, nhận qua những lối bí mật; thỉnh thoảng y đem mời bạn bè; y là bậc thầy trong việc trộn và định liều lượng: thuốc để giảm đau, để ngủ, để tạo những giấc mơ đẹp, để tinh thần vui tươi và để kích động tình yêu.
Có lần tôi gặp y ngoài đường, trên bến cảng, y nhập bọn với tôi ngay, không dùng dằng. Rốt cuộc, lần ấy tôi đã khiến y chịu nói.
“Ông Pablo này,” tôi nói trong lúc y đang nghịch với một cây ba toong mảnh dẻ màu đen ánh sắc bạc, “ông là bạn của Hermine, đấy chính là lý do khiến tôi chú ý đến ông. Nhưng phải nói rằng ông đã không tạo điều kiện dễ dàng để tôi cùng ông trò chuyện. Tôi đã nhiều lần thử nói với ông về âm nhạc - tôi muốn được nghe ý kiến, phản bác, nhận xét của ông; nhưng ông không thèm trả lời tôi dù chỉ một lời.”
Y chân thành cười và lần này không tránh né mà bình thản đáp: “Thưa ông, theo ý tôi thì trò chuyện về âm nhạc chẳng có ý nghĩa gì. Tôi không bao giờ nói về âm nhạc. Thế thì tôi nên trả lời gì đây về những lời lẽ rất thông minh và xác đáng của ông? Mọi điều ông nói ra đều rất có lý. Nhưng ông thấy đấy, tôi là một nhạc công, không phải bậc trí giả và tôi tin rằng việc có lý trong âm nhạc chẳng có chút giá trị nào. Trong âm nhạc, việc có lý hay có khiếu thẩm mỹ hoặc có học vấn và đủ mọi thứ chẳng đáng kể gì.”
“Ra thế. Nhưng như vậy cái gì mới đáng kể?”
“Phải chơi nhạc, ông Haller ạ, phải chơi thật nhiều, thật hết mình! Thế đấy, thưa Monsieur[10]. Nếu trong đầu tôi chứa toàn bộ tác phẩm của Bach và Haydn và tôi có thể nói thao thao bao điều thông thái về chúng, thì cũng chẳng giúp ích được ai. Nhưng khi lôi cây kèn của mình ra, chơi liên miên một bài Shimmy, thì dù dở hoặc hay, nó chắc chắn vẫn làm cho người ta vui, nó thấm vào máu họ, khiến chân họ rậm rật. Chỉ điều đó mới đáng kể. Ông cứ nhìn thử một lần những khuôn mặt trong phòng khiêu vũ vào lúc tiếng nhạc trỗi lại sau một lúc nghỉ khá dài mà xem - ông sẽ thấy chúng tươi cười, thấy những cặp mắt sáng lên, những đôi chân rậm rật như thế nào! Chính vì điều ấy nên người ta chơi nhạc!”
“Hay lắm, ông Pablo ạ. Nhưng không phải chỉ có thứ nhạc nhục cảm, còn có nhạc cho tinh thần nữa. Không chỉ có loại nhạc được chơi trong khoảnh khắc này, mà còn thứ bất tử, nó tiếp tục sống, dù hiện không được chơi. Có thể một người nào đấy nằm cô đơn trên giường và gợi lại trong tâm trí mình một giai điệu của bài Điệu sáo mê hồn hay Khổ hình của Chúa theo lời kể của thánh Matthieu thì vẫn có âm nhạc, dù chẳng có ai thổi sáo hay kéo vĩ cầm.”
“Đúng thế, thưa ông Haller. Cả bài Yearning và bài Valencia hằng đêm cũng được bao kẻ cô đơn và mơ mộng câm nín tái tạo; cả cô thư ký đánh máy đáng thương nhất trong văn phòng cũng có bài Onestep mới nhất trong đầu và gõ phím theo nhịp của bài ấy. Họ có lý, tất cả những con người cô đơn này; tôi không đố kỵ với họ về những thứ âm nhạc câm nín ấy, dù là Yearning  hay Điệu sáo mê hồn hay Valencia! Nhưng những con người nọ lấy từ đâu ra thứ âm nhạc cô đơn, câm nín ấy của họ? Họ lấy từ chúng tôi, từ các nhạc công; đầu tiên nó phải được chơi, được nghe và thấm vào máu, trước khi ai đấy nằm ở nhà, ở trong phòng có thể nghĩ đến nó và mơ về nó.”
“Đồng ý,” tôi lạnh lùng nói. “Tuy nhiên không thể đặt Mozart ngang hàng với điệu Foxtrott mới nhất được. Việc ông chơi cho người ta loại nhạc siêu phàm và vĩnh cữu hoặc thứ rẻ tiền chỉ tồn tại ngày một ngày hai thật hoàn toàn không như nhau.”
Thấy giọng nói của tôi bị kích động, Pablo liền tỏ ngay cái vẻ dễ thương nhất của mình, y trìu mến vuốt ve cánh tay tôi, giọng dịu dàng không tưởng tượng nổi.
“Chà, thưa ông, có thể ông hoàn toàn đúng trong chuyện thứ bậc. Tôi chẳng có gì phản đối, khi ông đặt Mozart ngang hàng với điệu Foxtrott mới nhất được. Việc ông chơi cho người ta loại nhạc siêu phàm và vĩnh cửu hoặc thứ rẻ tiền chỉ tồn tại ngày một ngày hai thật hoàn toàn không như nhau.”
Thấy giọng nói của tôi bị kích động, Pablo liền tỏ ngay cái vẻ dễ thương nhất của mình, y trìu mến vuốt ve cánh tay tôi, giọng dịu dàng không tưởng tượng nổi.
“Chà, thưa ông, có thể ông hoàn toàn đúng trong chuyện thứ bậc. Tôi chẳng có gì phản đối, khi ông đặt Mozart, Haydn và bản Valencia vào những thứ bậc mà ông ưa thích! Với tôi điều đó hoàn toàn chẳng có gì quan trọng, tôi không có quyền quyết định về những thứ bậc ấy, tôi không được hỏi ý kiến về chuyện đó. Có lẽ một trăm năm nữa người ta vẫn chơi nhạc Mozart, còn bản Valencia có thể chỉ hai năm rồi thôi - tôi nghĩ chuyện này chúng ta có thể yên tâm phó thác cho Chúa; Người là đấng công minh, Người nắm trong tay hạn kỳ sống của hết thảy chúng ta, cả của mỗi bản Valse và mỗi bản Foxtrott nữa, chắc chắn Người sẽ có quyết định đúng. Về phần đám nhạc công chúng tôi, chúng tôi phản làm nhiệm vụ và công việc của mình: đó là phải chơi những gì hiện giờ người ta khao khát và phải chơi thật hay, thật đẹp và thật diễn cảm.”
Tôi thở dài bỏ cuộc. Không tranh luận nổi với anh chàng này.
Có những khoảnh khắc cái cũ và cái mới, đau khổ và hứng thú, sợ hãi và hân hoan trộn lẫn với nhau rất kỳ lạ. Lúc thì tôi ở trên thiên đường, lúc dưới địa ngục, nhưng phần lớn ở cả hai nơi cùng lúc. Tay Harry cũ và gã Harry mới lúc thì cãi vã kịch liệt, lúc lại sống hòa thuận với nhau. Đôi khi tay Harry cũ như thể chết đứ đừ rồi, bị chôn rồi, đột nhiên sống lại, ra lệnh và hà hiếp, cái gì cũng tỏ ra biết hơn, còn gã Harry mới, nhỏ thó, non trẻ xấu hổ, lặng thinh, chịu bị dồn ép tới chân tường. Lúc khác gã Harry trẻ túm cổ tay Harry cũ, bóp thật chặt, lúc ấy hắn tha hồ rên rỉ, tha hồ hấp hối, tha hồ nghĩ tới con dao cạo.
Nhưng khổ đau và hạnh phúc thường nhận chìm tôi trong cùng một ngọn sóng. Một trong những khoảnh khắc ấy xảy ra ít ngày sau khi tôi thử khiêu vũ lần đầu tiên trước mọi người; buổi tối đó tôi bước vào phòng ngủ của mình và vừa kinh ngạc, vừa hoảng sợ, vừa hân hoan - nghĩa là không có tên gọi để diễn tả tâm trạng tôi lúc ấy - thấy cô nàng Maria xinh đẹp đang nằm trên giường tôi.
Trong tất cả những điều ngạc nhiên Hermine đến nay đã gây ra cho tôi, đây là điều mãnh liệt nhất. Vì tôi không nghi ngờ một phút giây nào rằng chính nàng đã gửi đến cho tôi con chim thiên đường này. Trái với lệ thường, chiều hôm ấy tôi không đi chơi với Hermine mà tới đại giáo đường nghe một buổi trình diễn thành công về thánh ca cổ - đó là một chuyến du ngoạn đẹp và buồn vào đời sống ngày trước của tôi, vào những cánh đồng thuở thanh xuân của tôi, vào những vùng của gã Harry lý tưởng. Trong không gian vòi vọi kiểu gô tích của giáo đường với khung trần hình vòm đẹp như lưới giăng đung đưa sống động mà ma quái dưới ánh sáng của vài ngọn nến lung linh, tôi nghe những khúc nhạc của Buxtehude, Pachelbel[11], Bach, Haydn, tôi lại đi trên những con đường dấu yêu xưa, lại nghe giọng hát du dương của người nữ ca sĩ chuyên nhạc Bach[12] mà thuở hai chúng tôi còn là bạn, tôi đã cùng nàng dự nhiều buổi trình diễn tuyệt vời. Tiếng nhạc xưa, phẩm cách và sự thiêng liêng vô hạn của nó đã gọi tôi nhớ đến mọi cảm giác hạnh phúc, phấn khởi và hăng say của tuổi trẻ; tôi buồn bã đắm mình ngồi trên bệ cao của khu hát kinh, trong một giờ làm người khách trong cái thế giới thiêng lêng, cao cả từng là quê hương của tôi ngày trước[13]. Lúc nghe một bài song tấu của Haydn tôi đột nhiên ứa nước mắt; không chờ buổi hòa nhạc kết thúc, bỏ luôn cả ý định tái ngộ người nữ ca sĩ (ôi ngày trước, sau những buổi hòa nhạc thế này tôi đã từng sống biết bao buổi chiều rạng rỡ với các nghệ sĩ!), tôi đã len lén ra khỏi giáo đường, mệt mỏi bước đi trong đêm tối trên những con đường hẻm, mà đây đó sau những ô cửa sổ của các quán ăn có các ban nhạc Jazz chơi những giai điệu trong đời sống hiện thời của tôi. Ôi, cuộc đời tôi đã trở thành một mê lộ ảm đạm xiết bao!
Đêm ấy, tôi vừa đi vừa suy nghĩ miên man về mối quan hệ lạ lùng giữa tôi với âm nhạc và lại một lần nữa nghiệm ra rằng mối liên hệ vừa cảm động vừa tai hại với âm nhạc chính là số mệnh của toàn giới trí thức Đức. Mẫu quyền thống trị trong tinh thần người Đức, đó là sự gắn bó với thiên nhiên dưới dạng bá chủ của âm nhạc, điều chưa hề thấy ở một dân tộc nào khác. Những người trí thức chúng tôi thay vì dũng cảm chống lại điều đó và phục tình trí tuệ, Logos, thần ngôn, khiến người ta phải lắng nghe, hết thảy chúng tôi lại mơ tưởng đến một thứ ngôn ngữ không lời, nói được điều không thể nói, diễn tả được điều không thể diễn tả. Thay vì sử dụng hết lòng và trung thực phương tiện của mình, người trí thức Đức lại luôn phản kháng ngôn từ cùng lý trí, nhưng mê đắm âm nhạc. Người trí thức Đức đắm chìm trong nhạc, trong những kết cấu âm thanh thần thánh tuyệt vời, trong những cảm xúc và tâm trạng cực kỳ tao nhã - những thé không bao giờ được thú đẩy thành hiện thực - và xao lãng phần lớn bổn phận thật sự của mình. Tất cả giới trí thức chúng tôi lạc lõng, xa lạ và thù địch với thực tế, cho nên vai trò của tinh thần mới thảm hại đến thế ngay cả trong thực tại của nước Đức, trong lịch sử, trong chính trị và công luận của chúng tôi. À vâng, tôi thường suy đi ngẫm lại những ý tưởng này và đôi khi không phải không cảm thấy khát khao mãnh liệt được một lần cùng dựng xây thực tại, được một lần hành động nghiêm túc và có trách nhiệm, thay vì chỉ mãi bận rộn với tính thẩm mỹ và chuyện bán buôn thứ nghệ thuật thuộc tâm hồn. Nhưng lần nào nỗi khát khao ấy cũng đều kết thúc với ngao ngán, với sự cam chịu vận số rủi ro. Các ngài tướng tá và những nhà đại kỹ nghệ hoàn toàn có lý: đám “trí thức” chúng tôi chẳng làm nên trò trống gì, chỉ là một đám thông minh ba hoa, vô trách nhiệm, xa thực tế và không cần thiết. Quỷ thần ơi! Tôi lại nghĩ đến lưỡi dao cạo!
Cuối cùng, đầu óc đầy ắp những suy nghĩ như thế cùng dư âm của tiếng nhạc, lòng nặng trĩu u buồn cùng nỗi khát khao đến tuyệt vọng cuộc sống, thực tại, ý nghĩa và những điều đã mất không tìm lại được nữa, tôi trở về nhà, bước lên cầu thang, bật đèn phòng khách, cố đọc chút ít nhưng hoài công, nghĩ đến cuộc hò hẹn buộc tôi tối mai phải đến quán rượu Cécil uống Whisky và khiêu vũ, rồi cảm thấy oán hận và cay đắng không chỉ với bản thân mình mà cả Hermine nữa. Có thể nàng có hảo ý và chân thành, có thể nàng là một con người tuyệt vời, nhưng tốt hơn lẽ ra ngày nọ nàng cứ để mặc tôi chết quách, thay vì lôi kéo tôi vào cái thế giới ăn chơi hỗn độn, lạ lẫm, quay cuồng này và dìm tôi trong đó, nơi tôi sẽ mãi vẫn là một kẻ xa lạ và điều tốt đẹp nhất trong tôi sẽ cùng quẫn, lụi tàn!
Nên tôi đã rầu rĩ tắt đèn, rầu rĩ bước qua phòng ngủ, rầu rĩ bắt đầu cởi áo quần; chợt một mùi hương khác lạ khiến tôi ngờ vực, nó thoang thoảng mùi nước hoa; nhìn quanh tôi thấy cô nàng Maria xinh đẹp đang nằm trên giường của tôi, đôi mắt to màu xanh mỉm cười, vẻ hơi bồn chồn.
“Maria!,” tôi kêu lên. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là bà chủ nhà, nếu biết chuyện, sẽ không cho tôi tiếp tục thuê căn hộ này nữa.
“Em đến đây,” nàng nói khẽ. “Ông có giận em không?”
“Không, không. Tôi biết Hermine đã đưa cô chìa khóa. Thế đấy.”
“Ồ, ông bực mình về chuyện ấy. Em đi vậy.”
“Không đâu, Maria đẹp xinh ơi, ở lại đi! Có điều tối nay tôi rất buồn, hôm nay tôi không thể nào vui vẻ được, có thể mai chăng.”
Tôi hơi cúi về phía nàng, nàng liền ôm lấy đầu tôi bằng đôi bàn tay to khỏe, ghì xuống và hôn tôi thật lâu. Rồi tôi ngồi xuống cạnh giường, nắm tay nàng, yêu cầu nàng nõi khẽ kẻo người ta nghe thấy; tôi cúi nhìn khuôn mặt đầy đặn xinh xắn, lạ lùng và kỳ diệu tựa một bông hoa to đang nằm đấy, trên chiếc gối của tôi. Nàng từ từ kéo bàn tay tôi tới đôi môi nàng, luồn nó xuống dưới chân và áp lên bộ ngực ấm, phập phồng.
“Anh đâu cần phải vui vẻ,” nàng nói, “Hermine cho em biết rằng anh đang ưu phiền. Ai cũng hiểu mà. Anh có còn ưng em không, hở anh? Hôm trước, khi mình nhảy với nhau, anh si em lắm mà.”
Tôi hôn lên mắt, môi, cổ và ngực nàng. Mới vừa rồi tôi còn nghĩ tới Hermine, cay đắng và trách móc. Giờ đây tôi ôm trong tay món quà của nàng mà lòng thầm biết ơn. Những mơn trớn của Maria không tổn hại gì đến thứ âm nhạc tuyệt vời tôi vừa nghe tối nay, chúng xứng đáng với thứ âm nhạc ấy và là sự thể hiện của nó. Tôi chậm rãi kéo tấm chăn khỏi thân thể mỹ miều, cho đến khi những nụ hôn của tôi tới với hai bàn chân nàng. Khi tôi nằm xuống bên nàng, khuôn mặt tựa đóa hoa của nàng mỉm cười với tôi đầy vẻ hiền lành và thông hiểu.
Đêm ấy, bên cạnh Maria, tôi ngủ không nhiều, nhưng thật sâu và ngon lành như một đứa trẻ. Giữa những lúc ngủ tôi nốc tràn tuổi thanh xuân tươi đẹp của nàng và qua trò chuyện thì thầm tôi biết được nhiều điều thú vị về cuộc đời nàng và Hermine. Tôi vốn chỉ biết đại khái về loại người và cuộc sống như của hai nàng; trước kia chỉ ở nhà hát tôi mới thỉnh thoảng gặp những mẫu đời tương tự, đàn bà lẫn đàn ông, nữa nghệ sĩ, nửa ăn chơi. Mãi bây giờ tôi mới được nhìn đôi chút vào cuộc sống kỳ quặc, ngây thơ lẫn hư hỏng khác thường này. Những cô gái ấy phần lớn nhà nghèo, như lại thừa thông minh và xinh xắn nên không cam tâm suốt đời kiếm ăn bằng chỉ một nghề với đồng lương ít ỏi và chẳng có gì vui, nên tất cả đều sống lúc bằng những công việc thất thường, lúc nhờ vẻ duyên dáng và sự dễ thương của họ. Thỉnh thoảng họ làm thư ký đánh máy vài ba tháng, lúc là nhân tình của những tay chơi giàu sụ, được tiền tiêu vặt và quà tặng, đôi khi được khoác áo lông, đi ô tô, ở khách sạn lớn, lúc khác lại ở trong những căn gác xép sát mái và có thể đi tới hôn nhân nếu trúng mối, nhưng nói chung họ không ham mấy. Một số người trong bọn họ chẳng ham hố gì tình yêu, mà chỉ miễn cưỡng hiến dâng sau khi đã mặc cả được giá cao nhất. Những người khác - trong số này có Maria, khát khao và giàu năng khiếu khác thường về tình yêu - phần lớn có kinh nghiệm với cả hai phái nam và nữ; họ sống chỉ cho tình yêu và bên cạnh những người bạn chính thức có trả tiền, họ còn nuôi dưỡng những quan hệ tình ái khác. Siêng năng và bận bịu, bồn chồn và nhẹ dạ, khôn ngoan nhưng không ý thức, những con bướm ấy sống cuộc đời vừa trẻ thơ vừa sành sõi, độc lập, không phải bạ ai họ cũng bán; họ chờ thời vận, say mê cuộc sống nhưng lại ít bám víu vào nó bằng kẻ trưởng giả, luôn luôn sẵn sàng theo một hoàng tử trong chuyện thần thoại về lâu đài của chàng và đương nhiên luôn ý thức mơ hồ về một kết cục gay go và buồn thảm.
Maria đã dạy tôi - trong buổi tối đầu tiên lạ kỳ ấy và những ngày sau - nhiều thứ, không chỉ những trò chơi thú vị mới và những cách thức đem lại thích thú cho giác quan, mà cả sự thông cảm mới, nhận thức mới và tình yêu mới. Thế giới của những vũ trường và chốn ăn chơi, những rạp chiếu phim, những quán rượu và những tiền sảnh ở các khách sạn, những nơi đối với tôi, kẻ ẩn cư và nhà thẩm mỹ, vẫn luôn còn là gì đấy thấp kém, bị cấm đoán và làm mất phẩm giá thì với Maria, Hermine và các cô bạn của họ đơn thuần là thế giới thôi, không tốt cũng chẳng xấu, không đánh ham muốn cũng chẳng đáng thù ghét; cuộc sống ngắn ngủi đầy khát vọng của họ bừng nở trong thế giới ấy, ở đấy họ cảm thấy quen thuộc và sành sõi. Họ thích một ly sâm banh hay một đĩa thịt nướng đặc biệt, giống những kẻ như chúng ta yêu quý một nhạc sĩ hoặc một nhà thơ, và họ cũng hết lời tán thưởng, mủi lòng cùng cảm động về một điệu nhảy ăn khách mới hoặc một bài hát tình cảm lâm ly của một ca sĩ nhạc Jazz giống như chúng ta đối với Nietzsche hoặc Hamsun[14]. Maria kể với tôi về tay thổi kèn saxophone Pablo đẹp trai nọ và về một bài hát Mỹ thỉnh thoảng y hát cho họ nghe; nàng kể thật say sưa, đầy ngưỡng mộ và tha thiết khiến tôi xúc động và thương cảm hơn hẳn những trạng thái mê ly của một học giả cao cấp nào đấy bàn về sự thưởng thức những nghệ thuật cao quý được tuyển chọn. Tôi sẵn sàng tán thưởng theo, bất kể bài hát ấy như thế nào. Những lời trìu mến của Maria, ánh mắt khát khao bừng nở của nàng đã phá tan hoang thành trì mỹ học của tôi. Chắc chắn có vài ba nhạc phẩm hay đẹp, dăm nhạc phẩm chọn lọc hiếm hoi mà theo tôi không còn phải bàn cãi hay nghi ngờ gì nữa, đứng đầu là Mozart, nhưng đâu là giới hạn? Chẳng lẽ hết thảy chúng ta, những kẻ am hiểu và những nhà phê bình, thời trẻ không từng nồng nhiệt say mê những tác phẩm nghệ thuật cùng những nghệ sĩ mà nay dường như ta thấy là đáng hoài nghi và chướng tai, gai mắt? Chẳng lẽ chúng ta chưa từng cảm thấy như thế ở Liszt, Wagner[15] - thậm chí ở Beethoven, đối với nhiều người? Lẽ nào niềm xúc cảm bừng nở như trẻ thơ của Maria về bài hát nọ từ nước Mỹ lại không là một trải nghiệm về nghệ thuật cũng thuần khiết, hay ho, trác việt, vượt lên mọi hoài nghi giống như niềm thương cảm của một nhà giáo nào đấy về chàng Tristan[16] hoặc phút mê ly của một nhạc trưởng lúc điều khiển Bản giao hưởng số 9? Và chẳng lẽ điều này không phù hợp lạ lùng với những quan điểm của Pablo và xác nhận y có lý?
Dường như Maria cũng rất yêu gã Pablo điển trai này.
“Y đẹp trai thật đấy,” tôi nói, “ngay cả anh cũng rất thích y. Nhưng Maria ơi, hãy cho anh biết làm cách nào em có thể đồng thời yêu cả anh nữa, một kẻ già nua chán ngắt, chẳng đẹp trai mà tóc đã đốm bạc, không biết thổi saxophone và hát tình ca bằng tiếng Anh?”
“Anh đừng nói vớ vẩn thế!” nàng trách. “Chuyện ấy hoàn toàn tự nhiên thôi. Em cũng thích anh vậy; anh cũng có gì đấy hay đẹp, đáng yêu và độc đáo chứ; anh chớ nên khác anh bây giờ. Đừng nói về những điều ấy và đòi được em giải thích. Thế này nhé, anh anh hôn cổ hoặc tai em, em liền cảm thấy anh thích em, rằng em làm anh hài lòng; anh có kiểu hôn hơi rụt rè, điều ấy bảo em rằng: anh ta thích cô đấy, anh ta biết ơn cô, vì cô xinh đẹp. Em rất thích, rất thích thế. Rồi với người đàn ông khác em lại ưa chính điều ngược lại, ưa kiểu hắn làm ra vẻ không thích gì em và hôn em như thể ban ân huệ.”
Chúng tôi lại thiếp đi. Rồi tôi lại tỉnh giấc, thấy vẫn ôm choàng nàng, người đẹp của tôi, đóa hoa mỹ miều của tôi.
Tôi không ngớt suy nghĩ, lạ lùng thay, rằng bông hoa mỹ miều này dẫu sao vẫn là món quà Hermine tặng tôi! Hình bóng nàng luôn ẩn sau bông hoa ấy như sau một chiếc mặt nạ! Và trong lúc ấy tôi bỗng dưng nghĩ tới Erike, người tình khó tính xa xôi, người bạn đáng thương của tôi. Nàng xinh chẳng thua Maria, dù kém mơn mởn, phóng túng và thiếu những nghệ thuật yêu đương tuyệt vời nho nhỏ. Nàng đứng trước mặt tôi một lúc lâu như một bức tranh, rõ ràng và đau xót, được yêu thương và gắn bó sâu đậm với số phận của tôi, rồi lại chìm đi, trong giấc ngủ, trong lãng quên, trong chốn xa xăm nửa phần buồn tủi.
Và cứ thế, trong cái đêm xinh đẹp êm ái này bao hình ảnh của cuộc đời đã hiện về ngay trước mắt tôi, kẻ từ lâu từng sống đầy trống trải, nghèo nàn và không hình ảnh. Nay, được thần Ái tình khai mở, nguồn suối hình ảnh dồi dào từ thuở nào bỗng bừng phun; trong một khoảnh khắc trái tim tôi ngừng đập vì hân hoan và buồn bã, khi thấy phòng trưng bày hình ảnh của cuộc đời mình mới phong phú làm sao và tâm hồn Sói Thảo Nguyên khốn khổ đầy ắp đến mức nào các tinh tú cùng những chòm sao vĩnh cữu. Thời thơ ấu và mẹ tôi dịu dàng, rạng rỡ nhìn về phía tôi, như một rặng núi xa hút trầm mặc trong màu xanh thăm thẳm; bản đồng ca về những tình bạn của tôi ngân lên trong sáng và cương quyết, bắt đầu với cậu Hermann huyền thoại, người anh em tinh thần của Hermine; chân dung nhiều người đàn bà - những người tôi đã yêu, thèm khát, ngợi ca và đã cố công nhưng chỉ giành được một số ít - ngát thơm và thoát tục như những bông hoa biển ướt đẫm nở rộ vừa mới từ nước vươn lên, bập bềnh trôi tới. Cả vợ tôi cũng hiện ra - người vợ đã cùng tôi chung sống nhiều năm, đã dạy tôi về tình bạn, sự xung đột, nỗi ngao ngán, và tôi vẫn giữ trọn lòng tin cậy sắt son bất chấp mọi thiếu thốn trong cuộc sống, cho đến ngày tôi ngã bệnh cả về tâm hồn lẫn thể xác và nàng đột nhiên kịch liệt chối từ, rời bỏ tôi - và tôi nhận ra tôi đã yêu thương nàng biết mấy, đã tin tưởng nàng sâu xa biết mấy, nên sự bội tín của nàng mới gây cho tôi một vết thương đau xót trọn đời như thế.
Hết thảy những hình ảnh này - hàng trăm cái, có tên hoặc không - đều hiện về, vươn lên tươi mát và mới mẻ từ giếng khơi của cái đêm ân ái ấy và tôi hiểu lại điều mình đã lãng quên từ lâu trong thống khổ: những hình ảnh này là tài sản và giá trị của đời tôi, là những trải nghiệm tiếp tục tồn tại không thể hủy hoại, được đúc kết thành những ngôi sao mà tôi có thể quên, nhưng quyết không thể hủy diệt; hàng hàng lớp lớp những vì sao ấy là chuyện thần thoại của đời tôi, ánh sao lấp lánh là giá trị không thể hủy diệt về sự tồn tại của tôi. Đời tôi từng nhọc nhằn, sa chân lỡ bước và bất hạnh, dẫn đến sự khước từ và phủ nhận, nó chát vị muối của số phận cả loài người, nhưng nó giàu sang, kiêu hãnh và giàu sang, kể cả trong khốn khổ vẫn cứ là một cuộc đời vương giả. Dẫu cho đoạn đường ngắn ngủi dẫn tới diệt vong, sự diệt vong tuyệt đối, bị lãng phí thảm hại đến đâu đi nữa, thì cốt lõi của cuộc sống ấy vẫn là cao quý, cuộc sống ấy vẫn có diện mạo và nét độc đáo, nó không màng đến những điều nhỏ nhặt mà quan tâm tới những vì sao.
Từ đó đến nay cũng lâu rồi, có bao điều đã xảy ra và bao chuyện đã khác đi; tôi chỉ còn nhớ được vài chi tiết ít ỏi của đêm hôm ấy, dăm ba câu hai chúng tôi đã nói với nhau, vài ba cử chỉ và hành động rời rạc của sự âu yếm thiết tha, những giây phút tỉnh như sáo khi thức dậy từ giấc ngủ nặng nề mệt mỏi yêu đương. Nhưng chính đêm hôm ấy, lần đầu tiên kể từ ngày tôi sa sút, cuộc đời của chính tôi lại đã nhìn tôi bằng đôi mắt sáng ngời không thương xót, trong đó tôi lại nhận ra sự ngẫu nhiên chính là số phận, lại nhận ra đống hoang tàn của đời mình chính là những mảnh vụn thần thánh. Tâm hồn tôi hô hấp trở lại, mắt tôi lại nhìn và có những khoảnh khắc tôi say sưa linh cảm rằng tôi chỉ cần gom lại cái thế giới hình ảnh phân tán, chỉ cần nâng cuộc đời con Sói Thảo Nguyên Harry Haller của tôi toàn vẹn thành bức ảnh, để rồi tự mình bước vào trong thế giới hình ảnh và trở thành bất tử. Chẳng lẽ đó không phải là mục tiêu mà cuộc đời mỗi người nên thử hướng tới ư?
Sáng ra, khi Maria dùng điểm tâm với tôi xong, tôi len lén đưa nàng ra khỏi nhà. Trót lọt. Ngay hôm ấy tôi thuê cho nàng và tôi một căn phòng nhỏ trong khu phố gần bên, dành riêng để hai chúng tôi gặp gỡ.
Hermine, cô giáo dạy khiêu vũ của tôi, có mặt đúng theo bổn phận và tôi phải học nhảy điệu Boston. Nàng nghiêm khắc, không khoan nhượng và không cho tôi bỏ một giờ học nào, vì nàng đã quyết định tôi sẽ cùng nàng dự buổi khiêu vũ hóa trang sắp tới. Hermine yêu cầu tôi đưa tiền để mua đồ phục trang cho nàng, nhưng từ chối không tiết lộ chút gì về chuyện ấy. Tôi vẫn còn bị cấm đến thăm, thậm chí không được biết nàng hiện đang ở đâu.
Quãng thời gian trước buổi khiêu vũ hóa trang, khoảng ba tuần, thật là tuyệt vời. Đối với tôi, Maria dường như là người tình thật sự đầu tiên tôi từng có. Tôi luôn đòi hỏi ở những người đàn bà mình yêu một chút đầu óc và học vấn, mà không nhận thấy rằng ngay cả người phụ nữ trí thức nhất và tương đối có học nhất tôi từng yêu chẳng bao giờ đáp lại được cái Logos - thần ngôn - trong tôi, mà luôn ngược lại; tôi mang những vấn đề và suy tư của mình đến với những người đàn bà và dường như tôi không thể yêu lâu hơn một giờ người con gái nào chưa hề đọc qua một quyển sách, không hề biết đọc sách là gì và không phân biệt nổi Tschaikovsky với Beethoven. Maria thất học. Nàng không cần những thứ vòng vo, những thế giới thay thế này; mọi vấn đề của nàng đều nảy sinh trực tiếp từ các giác quan. Nghệ thuật và nhiệm vụ của nàng là cố tạo thật nhiều lạc thú nhục thể và tình yêu với những giác quan được phú thác, với vóc dáng đặc biệt, màu sắc, mái tóc, giọng nói, làn da, tính khí; nghệ thuật và nhiệm vụ của nàng là tìm kiếm và khơi dậy từ người tình câu trả lời, sự cảm nhận cùng sự đáp ứng sôi nổi, hoan lạc bằng mọi khả năng, mọi đường cong và từng biến đổi trên thân thể nàng. Ngay ở lần khiêu vũ đầu tiên đầy nhút nhát với nàng tôi đã cảm thấy điều ấy, đã đánh hơi thấy cái mùi hương của thứ nhục cảm tài tình, tuyệt vời, cực kỳ tinh tế và đã mê mệt vì nó. Đương nhiên cũng không phải ngẫu nhiên mà Hermine, con người rành hết mọi sự ấy, lại đưa Maria đến với tôi. Nàng thơm ngát tựa hoa hồng và hừng hực chẳng khác mùa hè.
Tôi không diễm phúc được làm người tình độc nhất của Maria hoặc được nàng ưu ái, mà chỉ là một trong nhiều người thôi. Nàng thường không có thì giờ cho tôi, đôi khi chỉ được một giờ lúc xế trưa, còn trọn đêm thì thật họa hoằn. Nàng không chịu nhận tiền của tôi, chắc chắn vì Hermine đã nhúng tay vào. Nhưng nàng sẵn lòng nhận quà, nên khi tôi tặng nàng chẳng hạn một cái ví da nho nhỏ màu đỏ bóng, tôi có thể nhét vào đấy vài ba đồng vàng. Nhân tiện nói thêm, vì cái ví này mà tôi đã bị nàng cười giễu khôn xiết! Nó đẹp thật đấy, nhưng là thứ hàng bán ế, hết mốt từ đời nào rồi. Tôi đã học được nhiều từ Maria trong những lĩnh vực mà cho đến lúc ấy tôi hiểu biết chẳng bao nhiêu, không khác chuyện tôi ít rành rẽ về bất cứ thứ ngôn ngữ nào của người Eskimo. Trước hết tôi học được rằng những đồ chơi nho nhỏ ấy, những món hàng xa xỉ theo thời ấy không chỉ là những thứ vặt vãnh được các nhà chế tạo và kinh doanh tham tiền sáng chế ra, ngược lại có lý do thích đáng; chúng đẹp, thiên hình vạn trạng, đúng là một thế giới nho nhỏ - hay một thế giới lớn thì đúng hơn - của những vật mà tất cả chỉ có mục đích duy nhất là phục vụ tình yêu, làm tinh tế các giác quan, làm hồi sinh cái thế giới đã chết chung quanh, ban cho nó một cách thần kỳ những dụng cụ mới cần cho tình yêu: từ son phấn và nước hoa đến giày nhảy, từ chiếc nhẫn đến hộp thuốc lá, từ khóa thắt lưng đến xắc tay. Xắc tay không đơn thuần là xắc tay, ví tiền không phải là ví tiền, hoa không phải hoa, quạt không phải là quạt, mà tất cả đều là những vật chất diễn cảm tình yêu, ma thuật, sự quyến rũ, là kẻ đưa tin, người buôn lậu, khí giới, tiếng hô xung trận.
Maria yêu ai thật sự, tôi thường ngẫm nghĩ về điều này. Tôi nghĩ nàng yêu gã Pablo trẻ tuổi chơi saxophone hơn cả, với đôi mắt đen mơ màng xa vắng và đôi bàn tay dài, xanh xao, quý phái, u sầu. Tôi cứ nghĩ rằng tay Pablo này lừ đừ, không hứng thú và thụ động trong chuyện yêu đương, nhưng Maria cả quyết rằng tuy phải mất thì giờ mới làm y hào hứng được, nhưng sau đó y sẽ hăm hở, dữ dội, đàn ông và đòi hỏi hơn bất kỳ một võ sĩ hay kỵ sĩ nào. Và thế là tôi biết được điều bí ẩn về người này người nọ, của tay nhạc công chơi Jazz, của người diễn viên, của một số đàn bà, của những cô gái và những người đàn ông trong môi trường của chúng tôi, biết đủ thứ chuyện bí mật, thấy được những mối liên kết  và thù địch ngấm ngầm bên trong, dần dà tôi (kẻ vốn dĩ hoàn toàn xa lạ không chút liên quan với thế giới này) được tin cậy và được coi như người trong cuộc. Cả về Hermine tôi cũng biết được khối điều. Đặc biệt lúc này tôi thường hay gặp Pablo, người mà Maria mê đắm. Thỉnh thoảng nàng cũng cần đến những thứ thuốc bí mật của y; nàng luôn không quên cung cấp cho tôi những lạc thú này và Pablo luôn sốt sắng hết lòng phục vụ tôi. Một lần y chẳng quanh co nói thẳng với tôi: “Ông bất hạnh quá lắm, thế là không tốt, không nên thế. Tôi thật ái ngại. Ông hãy hút thử một sái thuốc phiện loại nhẹ đi.” Nhận xét của tôi về con người vui vẻ, khôn ngoan, trẻ con nhưng khôn dò này thay đổi liên tục; chúng tôi trở thành bạn bè và không hiếm dịp tôi đã nhận chút ít những thứ thuốc của anh ta. Anh ta có vẻ thích thú thấy tôi mê đắm Maria. Một lần anh ta thết “tiệc” trong phòng riêng, trên gác xép một khách sạn ở ngoại ô. Phòng chỉ có một chiếc ghế, Maria và tôi phải ngồi trên giường. Anh mời chúng tôi một thứ rượu mùi tuyệt vời, đầy bí mật, pha trộn từ ba chai con. Rồi khi tôi trở nên quá mức hào hứng, anh ta long lanh ánh mắt đề nghị chúng tôi vui chơi một cuộc tình trác táng tay ba. Tôi cộc cằn từ chối vì không thể làm những chuyện như thế được, tuy nhiên tôi cũng đã liếc nhìn Maria xem thái độ nàng ra sao; tuy nàng tán thành ngay sự thoái thác của tôi, song tôi vẫn thấy đôi mắt nàng le lói và hiểu rằng nàng tiếc rẻ. Pablo thất vọng trước lời từ khước của tôi, nhưng không thấy bị xúc phạm. “Tiếc quá,” anh ta nói, “Harry đắn đo quá nhiều về đạo đức. Đành vậy. Giá được thì sẽ vui đấy, rất vui! Nhưng tôi có thứ thay thế.” Mỗi chúng tôi được hút vào hơi thuốc phiện rồi ngồi bất động, mở mắt, cả ba chúng tôi được sống cảnh tượng mà anh ta đã khêu gợi, trong lúc Maria run rẩy vì mê ly. Sau đó, khi tôi cảm thấy người hơi nôn nao, Pablo liền đặt tôi nằm lên giường, cho uống vài giọt thuốc và khi tôi nhắm mắt trong vài phút, tôi cảm thấy phớt trên mỗi mí mắt mình một cái hôn, nhẹ như hơi thở. Tôi đón nhận nó như thể đó là của Maria. Nhưng tôi biết rõ đó là của anh ta.
Một tối khác anh ta còn làm tôi kinh ngạc hơn nữa. Anh ta đến phòng tôi, bảo cần hai mươi franc và xin tôi số tiền ấy. Đổi lại, anh ta đề nghị tối ấy tôi sẽ thay anh ta vui thú với Maria.
“Pablo,” tôi kinh hoàng nói, “anh không biết điều anh vừa nói rồi. Nhường người tình cho kẻ khác để lấy tiền thì đối với chúng ta đó là điều đáng phỉ nhổ nhất. Coi như tôi không nghe thấy điều anh vừa đề nghị, Pablo ạ.”
Anh ta nhìn tôi vẻ thương hại. “Ông không muốn. Đượt thôi, ông Harry ạ. Ông chỉ toàn tự gây khó khăn cho mình thôi. Vậy đêm nay ông không ngủ với Maria, nếu ông thích thế hơn. Dẫu sao hãy cứ đưa tôi tiền, tôi sẽ hoàn lại. Tôi rất cần.”
“Để làm gì?”
“Cho Agostino, ông biết cái cậu nho nhỏ chơi cây vĩ cầm thứ hai ấy. Cậu ta ốm đã tám ngày nay mà chẳng ai chăm sóc; cậu ta không một xu dính túi, còn tôi cũng hết nhẵn tiền rồi.”
Vì tò mò và phần nào cũng để tự trừng phạt mình, tôi cùng đi với anh ta tới thăm Agostino; anh ta mang sữa và thuốc men đến căn phòng của cậu này trên gác xép, một căn phòng thật thảm hại; anh ta giũ chăn nệm, mở cửa cho thoáng khí và quấn thật gọn gàng, điệu nghệ quanh đầu kẻ bị sốt một miếng gạc; anh ta làm rất nhẹn, dịu dàng và thành thạo không khác một nữ y tá giỏi. Cũng tối hôm ấy tôi thấy anh ta chơi nhạc trong quán Đô Thị tới tận sáng.
Tôi thường trò chuyện với Hermine rất lâu và cụ thể về Maria, về hai bàn tay, đôi vai, hông nàng, về cách nàng cười, hôn và khiêu vũ.
“Nàng đã dạy anh cách này chưa?” có lần Hermine hỏi và diễn tả với tôi một kiểu hôn đặc biệt bằng lưỡi. Tôi yêu cầu nàng đích thân chỉ cho tôi, nhưng nàng nghiêm nghị từ chối. “Sau này hẵng hay,” nàng nói, “bây giờ em vẫn chưa là người tình của anh mà.”
Tôi hỏi do đâu Hermine biết nghệ thuật hôn cùng một số đặc điểm bí mật trong cuộc sống của Maria mà chỉ người tình của nàng mới rõ.
“Ô hay,” nàng đáp, “chúng em là bạn bè mà. Bộ anh nghĩ chúng em giữ bí mật trước nhau à? Em ngủ quá thường ở nhà nàng và chơi đùa với nàng mà. Này, thế là anh đã vớ được một cô gái đẹp sành sỏi hơn nhiều người khác đấy nhé.”
“Hermine này, anh nghĩ rằng em với Maria vẫn còn giấu nhau nhiều điều bí mật đấy. Hay em cũng đã nói với nàng hết mọi điều em biết về anh?”
“Không, đó là những chuyện khác mà có lẽ nàng sẽ không hiểu đâu. Maria đúng là tuyệt vời, anh may lắm đấy, nhưng giữa anh và em có những chuyện mà nàng chẳng có ý niệm gì. Em đã nói với nàng nhiều về anh, tất nhiên, nhiều hơn là có lẽ anh muốn lúc đó. Em phải quyến rũ nàng cho anh mà! Nhưng bạn ơi, Maria không đời nào và cũng chẳng có ai khác hiểu anh như em. Em cũng đã biết thêm đôi chút về anh từ nàng đấy nhé. Những gì Maria biết về anh thì em cũng được biết luôn. Em biết anh hầu như rất rõ, chẳng khác mình từng thường ngủ với nhau.”
Lúc gặp lại Maria, tôi có cảm giác kỳ lạ và khó hiểu khi biết nàng cũng thương yêu Hermine như yêu tôi, nàng cũng vuốt ve, hôn hít, thưởng thức, xem xét chân tay, đầu tóc và da thịt Hermine hệt như nàng làm những điều ấy với tôi. Những liên hệ mới, những giao kết mới, những khả năng mới trong tình yêu và cuộc sống, gián tiếp và phức tạp, xuất hiện trước mắt tôi và tôi nghĩ đến một nghìn linh hồn đề cập trong Luận thuyết về Sói Thảo Nguyên.
Trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, giữa lần quen biết Maria và vũ hội hóa trang, tôi gần như rất hạnh phúc, nhưng lại không hề có cảm giác đây là sự cứu rỗi, là niềm hạnh phúc đạt được rồi, mà cảm thấy rất rõ rằng tất cả chỉ là màn giáo đầu và chuẩn bị, mọi thứ cứ cuồng nhiệt xông tới, còn điều chính yếu tới sau.
Tôi học nhảy khá thành thạo rồi, nên thấy nay đã có thể tham dự buổi vũ hội mà mỗi ngày mỗi được bàn tán nhiều hơn ấy. Hermine có một điều bí mật, nàng quyết không tiết lộ với tôi rằng sẽ xuất hiện trong bộ phục trang nào. Tôi sẽ nhận ra nàng mà, nàng bảo, và nếu không thì nàng sẽ giúp tôi, nhưng tôi không được phép biết gì trước. Nàng cũng hoàn toàn chẳng tò mò về những dự tính hóa trang của tôi, còn tôi quyết định sẽ không hóa trang gì cả. Về phần Maria, khi tôi muốn mời nàng cùng đi dự, nàng bảo đã có một bạn nhảy rồi, luôn cả vé vào cửa cho buổi vũ hội nữa. Tôi hơi thất vọng, vì thấy sẽ phải đi một mình. Đó là vũ hội thanh lịch nhất của thành phố, hằng năm được Hội Nghệ sĩ tổ chức trong Sảnh đường Địa Cầu.
Những ngày này tôi ít gặp Hermine, nhưng hôm trước buổi vũ hội nàng tạt qua tôi một lúc - nàng đến để lấy chiếc vé tôi tìm giúp. Nàng hiền lành ngồi chuyện vãn với tôi; buổi trò chuyện này thật lạ lùng và đã gây cho tôi một ấn tượng sâu đậm.
“Bây giờ thì anh tươm lắm rồi,” nàng nói, “khiêu vũ thật là hợp với anh. Ai không gặp anh trong bốn tuần qua hẳn sẽ không nhận ra anh đâu.”
“Đúng vậy,” tôi công nhận, “nhiều năm rồi anh mới lại kha khá như thế này. Tất cả là nhờ em đấy, Hermine ạ.”
“Ô, thế không phải là nhờ cô nàng Maria xinh đẹp của anh à?”
“Không. Cả nàng cũng là món quà em đã tặng anh mà. Nàng thật tuyệt vời.”
“Nàng là người tình mà anh cần, Sói Thảo Nguyên ạ. Xinh đẹp, trẻ trung, tính tình dễ thương, rất mực khôn khéo trong chuyện yêu đương và không phải ngày nào cũng có được. Nếu anh không phải chia sẻ nàng với những kẻ khác, nếu đối với anh nàng không luôn chỉ là một người khách chợt đến chợt đi thì sẽ chẳng được như thế đâu.”
Đúng, tôi cũng phải công nhận điều ấy.
“Thế là anh có đủ mọi thứ anh cần rồi, phải không?”
“Không đâu, Hermine ơi, không phải thế đâu. Anh đã có được một thứ tuyệt đẹp và mê ly, một niềm vui lớn, một niềm an ủi thân thương. Anh hầu như rất hạnh phúc...”
“Đấy! Vậy anh còn muốn gì thêm?”
“Anh muốn nhiều hơn nữa. Anh không hài lòng với việc được hạnh phúc. Anh sinh ra không phải cho chuyện ấy, đó không phải là số phận của anh. Số phận của anh ngược lại.”
“Nghĩa là phải bất hạnh à? Chà, điều này anh từng có thừa rồi mà, hồi đó, khi anh không dám về nhà vì sợ con dao cạo ấy.”
“Không phải vậy đâu, Hermine ơi, chuyện này khác. Hồi đó anh rất bất hạnh, đồng ý. Nhưng đó là một bất hạnh ngớ ngẩn, vô bổ.”
“Sao thế?”
“Vì nếu không thì anh đã chẳng phải mang nỗi sợ này trước cái chết mà anh vẫn ước ao! Điều bất hạnh mà anh cần và khao khát có khác. Nó là thứ khiến anh đau khổ vì đam mê và chết trong hoan lạc. Đó mới chính là sự bất hạnh hoặc hạnh phúc anh chờ đợi.”
“Em hiểu anh. Trong chuyện này mình là anh em. Nhưng điều gì khiến anh phản đối niềm hạnh phúc đã tìm thấy với Maria lúc này? Sao anh không hài lòng?”
“Anh chẳng có gì để phản đối hạnh phúc ấy; không đâu, anh yêu quý nó, anh biết ơn nó chứ. Nó thật rực rỡ như một ngày nắng đẹp trong một mùa hè mưa tầm tã. Nhưng anh cảm thấy nó không lâu bền. Cả thứ hạnh phúc này cũng vô bổ. Nó làm anh hài lòng đấy, nhưng sự hài lòng không phải là thực phẩm cho anh. Nó khiến Sói Thảo Nguyên buồn ngủ, làm con sói no cành. Nhưng đó không phải là thứ hạnh phúc để phải chết vì nó.”
“Nghĩa là cần phải chết ư, Sói Thảo Nguyên?”
“Anh nghĩ rằng cần! Anh rất hài lòng với hạnh phúc của mình, anh còn có thể chịu đựng nổi nó lâu thêm nữa. Nhưng nếu thỉnh thoảng hạnh phúc cho anh được một giờ để anh thức tỉnh và có được khao khát, thì nỗi khát khao của anh hoàn toàn không hướng tới sự giữ gìn hạnh phúc này mãi mãi, mà hứng chịu lại đau khổ, nhưng đẹp và ít thảm hại hơn xưa. Anh thèm khát thứ đau khổ khiến anh sẵn sàng và vui lòng chết.”
Hermine dịu dàng nhìn vào mắt tôi, một cái nhìn đột nhiên rất mực buồn bã. Ôi, đôi mắt tuyệt vời và đáng sợ! Nàng chậm rãi lựa từng lời, đắn đo sắp xếp rồi mới nói thật khẽ khiến tôi phải cố gắng mới nghe được.
“Hôm nay em muốn nói với anh đôi điều, đôi điều em đã biết từ lâu, cả anh cũng biết nữa, nhưng có thể anh chưa nói với chính anh thôi. Bây giờ em nói với anh những điều em biết về em, về anh và về số phận của chúng mình. Harry ơi, anh từng là một nghệ sĩ và nhà tư tưởng, một người đầy niềm vui và niềm tin, lúc nào cũng đi tìm sự vĩ đại và vĩnh cửu, không bao giờ hài lòng với điều tầm thường và đơn giản. Nhưng cuộc đời càng thức tỉnh anh, khiến anh thấu hiểu chính mình bao nhiêu thì tình trạng cùng quẫn của anh càng lớn bấy nhiêu, anh càng chìm sâu thêm, đến tận cổ, trong đau khổ, lo âu, tuyệt vọng; mọi điều trước đây anh thấy là đẹp đẽ, thiêng liêng và anh yêu quý, tôn sùng, mọi niềm tin trước đây của anh vào con người và về sứ mạng cao cả của chúng ta đều đã không thể giúp được anh, chúng đã trở nên vô dụng và nát vụn. Niềm tin của anh không tìm được không khí để thở nữa. Và chết ngộp thì thật đau khổ. Đúng thế không, Harry? Có phải đó là số phận của anh không?”
Tôi gật lấy gật để.
“Đầu óc anh sẵn mang một hình ảnh của cuộc đời, một niềm tin, một đòi hỏi; anh từng sẵn sàng hành động, hứng chịu đau khổ và hy sinh, nhưng rồi dần dà nhận thấy rằng thế giới không đòi hỏi ở anh hành động và hy sinh cùng những điều tương tự, rằng cuộc đời không phải là một thiên anh hùng ca với những vai người hùng và những vai này nọ, mà chỉ là một căn buồng tiện nghi trưởng giả, ở đấy người ta hoàn toàn hài lòng với chuyện ăn uống, cà phê cà pháo, đan vớ, chơi bài Ta rô và nghe nhạc từ radio. Còn ai thích lối sống khác, ai mang trong người chí khí anh hùng, yêu cái đẹp, tôn sùng những thi hào hay các bậc thánh thì người ấy là một kẻ dại khờ, một kỵ sĩ kiểu Don Quichotte. Đấy. Bạn ơi, em cũng từng như thế đấy! Em vốn là một cô gái nhiều năng khiếu, được sinh ra để sống theo một tấm gương cao cả, đặt cho mình những đòi hỏi lớn lao và hoàn thành những nhiệm vụ cao quý. Em có thể chọn cho mình một định mệnh to tát, thành vợ một ông vua, thành người tình một nhà cách mạng, em gái một thiên tài, mẹ một kẻ tuẫn đạo. Nhưng cuộc đời chỉ cho em thành một cô điếm thượng lưu với khiếu thẩm mỹ tàm tạm - chỉ điều này thôi cũng đủ làm em khó khăn rồi! Hoàn cảnh em như thế đấy. Em tuyệt vọng mất một lúc và tự trách mình trong thời gian khá lâu. Cuộc đời nhất định phải luôn luôn có lý, em nghĩ thế, thành thử khi cuộc đời nhạo báng những giấc mộng đẹp của em thì bởi vì chúng vớ vẩn và sai lầm. Nhưng trách móc cũng chẳng ích gì. Và vì mắt em tinh, tai em thính và cũng bởi em hơi tò mò, nên em mới quan sát thật kỹ cái gọi là cuộc đời, quan sát những người quen biết và hàng xóm của em, năm mươi con người cùng số phận, hoặc hơn nữa, và Harry ơi, em thấy rằng những giấc mơ của em là đúng đắn, nghìn lần đúng đắn, cũng như những giấc mở của anh vậy. Còn cuộc đời, thực tại mới nhầm lẫn. Việc một người đàn bà thuộc loại như em không tìm được chọn lựa nào khác hơn là gõ máy chữ, phục vụ một tay giỏi kiếm chác, rồi già đi thảm hại và vô nghĩa hoặc lấy một kẻ giỏi kiếm chác như thế vì tiền, hoặc thành một thứ gái điếm, điều ấy cũng đúng chẳng kém việc một người như anh, cô đơn và nhút nhát, phải tuyệt vọng chụp lấy lưỡi dao cạo. Có thể sự khốn khổ nơi em thiên về vật chất và đạo đức, còn ở anh nặng về tinh thần hơn, nhưng cũng là con đường ấy thôi. Anh cho rằng em không hiểu nổi việc anh sợ hãi điệu Foxtrott, việc anh chán ghét những quán rượu và những sàn nhảy, việc anh không ưa nhạc Jazz cùng mấy thứ vớ vẩn đó ư? Em hiểu quá đi chứ, hiểu luôn cả sự kinh tởm của anh trước chính trị, sự buồn phiền của anh về trò tào lao và bộ tịch vô trách nhiệm của các đảng phái, của báo chí, nỗi tuyệt vọng của anh về chiến tranh, về cuộc chiến vừa qua và sẽ đến, về cung cách ngày nay người ta suy nghĩ, đọc sách báo, xây dựng, soạn nhạc, cử hành lễ lạc, tiến hành giáo dục! Sói Thảo Nguyên ơi, anh có lý, có lý nghìn lần, thế nhưng anh vẫn tiêu vong. Anh đòi hỏi quá nhiều và quá ham muốn đôi với cái thế giới bình dị, thoải mái, dễ hài lòng hiện nay; nó tống anh ra, vì anh vượt trội hơn nó cả một kích cỡ. Ngày nay ai muốn sống và vui hưởng cuộc đời thì người ấy không thể giống như anh và em. Cái thế giới xinh đẹp này đây không phải là quê hương cho kẻ đòi hỏi âm nhạc thật sự thay vì tiếng ò e, hân hoan thay vì lạc thú, tâm hồn thay vì tiền bạc, lao động thật sự thay vì náo nhiệt, đam mê thật sự thay vì đùa nghịch...”
Nàng nhìn xuống sàn nhà, trầm ngâm.
“Hermine,” tôi dịu dàng kêu, “em gái ơi, em nhìn đời rõ biết bao! Thế mà em đã dạy Foxtrott cho anh đấy! Nhưng em nghĩ gì khi bảo rằng những người như chúng ta, những người thừa một kích cỡ, không thể sống ở đây? Nguyên do tại đâu? Chỉ thời đại chúng ta ngày nay mới thế? Hay đã mãi vậy rồi?”
“Em không rõ. Vì danh dự của thế giới nên em muốn cho rằng chỉ thời đại chúng ta mới thế, rằng đó chỉ là một thứ bệnh, một bất hạnh nhất thời. Trong khi các nhà lãnh đạo chuẩn bị bền bỉ và hữu hiệu cho cuộc chiến tranh sắp tới thì lũ chúng ta nhảy nhót, kiếm tiền và ăn sô cô la - trong một thời đại như thế này thì quả thật thế giới phải làm ra vẻ rất thanh đạm. Hy vọng những thời đại trước kia khấm khá hơn và rồi mai đây sẽ lại tốt đẹp hơn, giàu sang hơn, phong phú hơn, tận hưởng hơn. Nhưng chúng mình cũng chẳng khá gì hơn. Có lẽ đã luôn như thế này rồi...”
“Luôn như ngày nay à? Luôn là một thế giới cho lũ chính trị gia, bọn gian thương, đám bồi bàn và bọn ăn chơi, còn chẳng có không khí cho con người sao?”
“Chà, điều này em không biết, không ai biết cả. Vả lại, biết hay không cũng vậy thôi. Nhưng bạn ơi, bây giờ em nghĩ tới người mà anh quý mến và thỉnh thoảng vẫn kể và đọc cả thư cho em nghe, em nghĩ đến Mozart. Chuyện của ông ta như thế nào? Hồi đó ai thống trị thế giới, hớt phần béo bở nhất, giữ vai trò quyết định và được chú ý: Mozart hay những kẻ vụ lợi, Mozart hay đám người tầm thường nông cạn? Ông ta đã chết và được chôn cất như thế nào[17]? Đấy, em nghĩ, có lẽ nó đã và sẽ mãi luôn như thế. Còn cái trong trường học gọi là ‘Lịch sử thế giới’ mà ta phải thuộc lòng để nâng cao kiến thức, với những đấng anh hùng, những bậc thiên tài, những hành động và tình cảm vĩ đại - đó chỉ rặt là dối trá thôi, do mấy ông thầy nghĩ ra cho mục đích giáo dục, để lũ trẻ có chuyện làm trong những năm học đã được quy định[18]. Lũ hèn mọn và tầm thường nắm giữ thời gian và thế giới, tiền tài và quyền lực, còn những người khác, những con người đích thực, lại chẳng có gì hết - ngoài cái chết; điều này đã luôn như thế và sẽ mãi như thế.”
“Họ không có gì khác à?”
“Có chứ, sự vĩnh cửu.”
“Em muốn nói tới danh tiếng và vinh quang nơi hậu thế?”
“Không đâu, Sói Thảo Nguyên thân mến ơi, không phải vinh quang - nó có giá trị gì chăng? Bộ anh tưởng mọi con người thật sự chân chính và hoàn hảo đều nổi tiếng và được hậu thế biết đến ư?”
“Không, dĩ nhiên không.”
“Nghĩa là không phải vinh quang rồi nhé. Vinh quang chỉ có cho sự giáo dục thôi, nó là chuyện của các thầy giáo. Đó không phải là vinh quang, không đâu! Nhưng đấy là cái em gọi là sự vĩnh cửu. Những người sùng tín gọi đó là nước Chúa. Em tự nghĩ: hết thảy bọn người chúng ta, những kẻ đòi hỏi cao hơn, mang khát vọng, thừa một kích cỡ, có lẽ không thể nào sống được nếu ngoài thứ không khí của thế giới này ra chẳng có một thứ không khí nào khác để chúng ta thở, nếu ngoài thời gian không có thêm cả sự vĩnh hằng, và đó chính là vương quốc của sự đích thực. Nó bao gồm âm nhạc của Mozart và những bài thơ của các thi hào anh quý mến, nó gồm cả các vị thánh, những bậc đã làm nên phép lạ, đã hứng chịu sự tuẫn đạo và thành một tấm gương vĩ đại cho con người. Nhưng trong sự vĩnh cửu có cả hình ảnh của mỗi hành động chân chính, sức mạng của mỗi tình cảm thật sự, dù không ai biết, trông thấy, ghi chép lại và gìn giữ cho hậu thế. Trong sự vĩnh cửu không có hậu thế, mà chỉ có cùng thế hệ thôi.”
“Em có lý,” tôi nói.
“Những người sùng tín,” nàng trầm ngâm nói tiếp, “biết rõ những điều này hơn cả. Vì thế họ đã dựng nên các vị thánh và cái mà họ gọi là ‘Cộng đồng các thánh’. Các thánh chính là những con người đích thực, là các em của Đấng Cứu Thế. Suốt đời chúng ta tìm đến với họ, bằng mỗi việc thiện, mỗi ý tưởng dũng cảm, mỗi tình thương yêu. ‘Cộng đồng các thánh’ - xưa kia được các họa sĩ minh họa trong một bầu trời dát vàng, rực rỡ, tươi đẹp và đầy yên bình - không là gì khác hơn cái em vừa mới gọi là ‘sự vĩnh cửu’. Đó là một vương quốc ở phía bên kia của thời gian và cái biểu hiện. Chúng ta thuộc về đó; nơi đó là quê hương của chúng ta, con tim chúng ta vươn tới đó, Sói Thảo Nguyên ơi, vì thế nên chúng ta khao khát chết. Ở đó anh sẽ lại tìm thấy Goethe, Novalis và Mozart của anh, còn em sẽ tìm thấy lại những vị thánh của em, thánh Christopher, thánh Philipp xứ Neri và tất cả các vị khác. Trước khi thành thánh, nhiều vị đã phạm tội ghê gớm lắm; cả tội lỗi cũng có thể là một con đường dẫn tới sự thánh thiện, cả tội lỗi và thói hư, tật xấu. Hẳn anh sẽ cười, nhưng em thường tự nghĩ có thể cả anh bạn Pablo của em cũng là một vị thánh đang ẩn mặt. Chao ôi, Harry ơi, chúng ta phải mò mẫm qua bao nhơ bẩn và phi lý đến thế để về nhà! Và chúng ta không có ai dẫn đường, chỉ lối; hướng đạo duy nhất của chúng ta là nỗi nhớ nhà.”
Những lời cuối cùng này nàng lại nói thật khẽ; giờ đây căn phòng tĩnh lặng với vẻ yên bình, mặt trời đang lặn hắt ánh sáng lóng lánh lên những chứ dát vàng trên gáy nhiều quyển trong tủ sách của tôi. Tôi ôm mái đầu Hermine trong đôi tay, hôn lên trán nàng, áp má nàng vào má tôi, như thể anh em; chúng tôi đứng một lúc lâu như thế. Tôi ước ao cứ được mãi thế này và hôm nay không phải đi ra ngoài nữa. Song tối nay, đêm cuối cùng trước buổi đại vũ hội, Maria đã hứa dành cho tôi.
Nhưng trên đường tới gặp Maria tôi lại không nghĩ tới nàng, mà chỉ nghĩ đến những điều Hermine vừa nói. Tất cả những điều này, theo tôi, có lẽ không phải là ý tưởng của chính nàng, mà của tôi; nàng, người có khả năng nhìn thấu những điều vô hình, đã đọc được chúng, đã hấp thụ, rồi thuật lại với tôi, khiến chúng trở nên có hình dáng, thành mới lạ đối với tôi. Tôi đặc biệt biết ơn nàng đã nói ra ý tưởng về sự vĩnh cửu vào lúc ấy. Tôi cần nó, thiếu nó tôi không thể sống và cũng không thể chết. Hôm nay tôi được người bạn gái, đồng thời là cô giáo dạy tôi khiêu vũ, tặng lại cái thế giới bên kia thiêng liêng, phi thời gian, thế giới của giá trị vĩnh cửu, của thực thể thần thánh. Tôi phải nghĩ đến giấc mơ đã gặp Goethe, đến hình ảnh bậc trí giả già nua đã cười cợt quá mức, đã đùa bỡn tôi kiểu những người bất tử. Mãi lúc này tôi mới hiểu tiếng cười của Goethe, tiếng cười của những người bất tử. Nó không có đối tượng, tiếng cười này ấy mà, nó chỉ là ánh sáng, là sự sáng ngời; nó là cái còn sót lại khi một con người đích thực đã trải qua những đau khổ, tật xấu, lầm lạc, đam mê và ngộ nhận của con người, đi vào cõi vĩnh hằng, vào khoảng không của vũ trụ. Và “sự vĩnh cửu” không là gì khác hơn sự giải thoát của thời gian; có thể gọi đó là sự trở về với sự hồn nhiên của nó, sự chuyển hóa trở lại của nó vào không gian.
Tôi tìm Maria nơi chúng tôi thường hay ăn tối với nhau, nhưng nàng chưa đến. Tôi ngồi chờ nàng ở cái bàn đã được bày biện sẵn sàng trong cái quán im ắng ở ngoại ô, đầu óc vẫn còn vương vấn buổi trò chuyện với Hermine. Tôi thấy tất cả những ý tưởng xuất hiện đột ngột giữa nàng và tôi đều rất quen thuộc, đều đã biết từ lâu, được cấu thành từ thần thoại và thế giới hình ảnh của tôi, hoàn toàn của riêng tôi! Những con người bất tử đang sống trong khoảng không phi thời gian, trầm mặc, trở thành hình ảnh, quanh họ là sự vĩnh cửu kết tinh tựa ê te và sự trong sáng lạnh lẽo, rực rõ như trăng sao của cõi siêu trần ấy - từ đâu mà tất cả những điều đó lại quen thuộc với tôi đến thế? Tôi ngẫm nghĩ và chợt nhớ mấy đoạn trong bài Cassations[19] của Mozart, bài Das wohltemperierte Klavier[20] của Bach; tôi thấy dường như trong loại nhạc này đâu đâu cũng rạng ngời thứ ánh sáng mát mẻ lấp lánh sao trời và sự dao động của vĩnh cửu trong vắt tựa ê te. Phải, chính thế, chính âm nhạc này là thứ gì đấy tực như thời gian đông cứng lại thành không gian và một niềm hân hoan siêu phàm, tiếng cười thần thánh bất tuyệt, nhẹ vỗ đôi cách miên viễn bên trên nó. Chà, cụ Goethe già trong giấc mơ của tôi cũng rất hợp vào đấy! Và đột nhiên tôi nghe chung quanh vang dội tiếng cười khó hiểu kia, tôi nghe những người bất tử ấy cười. Tôi ngồi như bị hớp hồn và xuất thần moi túi áo vét tìm bút chì, tìm giấy. Thấy tấm bảng giá rượu vang trước mặt, tôi lật ngược nó lại, viết lên mặt kia những vần thơ mà mãi hôm sau tôi mới lại phát hiện trong túi áo. Những vần thơ ấy như sau:
NHỮNG NGƯỜI BẤT TỬ
Từ những lũng sâu nơi trần thế
Mãi bốc lên tới tận chúng ta nỗi khát khao mãnh liệt của cuộc đời,
Cảnh bần hàn cùng cực, cảnh thừa thãi mê cuồng,
Làn khói đẫm máu của hàng nghìn bữa ăn cuối cùng của đám tử tội,
Khoái lạc vật vã, dục vọng không cùng,
Những bàn tay của lũ sát nhân, những bàn tay của bọn cho vay cắt cổ,
những bàn tay chắp lại của kẻ nguyện cầu,
Bầy người bị nỗi sợ và dục vọng quất túi bụi
Chúng toát mùi thịt sống, nóng ẩm và thối rữa,
Chúng hít thở lạc thú và niềm hưng phấn man dại,
Chúng nhai nhau nghiến ngấu rồi lại ọe ra,
Chúng hoạch định những cuộc chiến tranh và bàn tính về mỹ thuật,
Chúng trang hoàng bằng cuồng vọng ngôi nhà chứa đang ngùn ngụt lửa,
Chúng ăn sống, nuốt tươi và phóng đãng
qua những trò vui chơi nơi chợ phiên huyên náo thế giới trẻ thơ của chúng
Nó vươn lên từ những làn sóng cho mỗi trẻ sơ sinh
Như nó từng rã thành cát bụi cho mỗi con người
Chúng ta, ngược lại, đã ngự
Trong giá băng rực rỡ sao trời trên Thượng giới[21]
Chúng ta không cần biết đến tháng ngày, giờ khắc,
Không phân chia nam nữ, trẻ già.
Tội lỗi hay niềm lo nỗi sợ của các người.
Hành vi sát nhân hay lạc thú nhục dục của các người
Đối với chúng ta chỉ là cảnh tượng như các vầng dương đang luân chuyển,
Đối với chúng ta mỗi một ngày đều là ngày dài nhất.
Chúng ta nhìn xuống cảnh sống nhốn nháo của các người mà lặng lẽ gật gù,
Rồi lặng thinh ngẩng nhìn tinh tú vần xoay.
Chúng ta hít thở mùa đông của vũ trụ,
Làm bạn với thiên long,
Kiếp trường sinh của chúng ta lạnh lẽo và bất biến,
Tiếng cười vĩnh cửu của chúng ta lạnh lẽo và sáng rực ánh sao.
Rồi Maria đến. Sau bữa ăn vui vẻ tôi cùng nàng đi tới căn phòng nhỏ của chúng tôi. Tối hôm ấy nàng đẹp hơn, nồng nàn hơn, gắn bó hơn bao giờ hết và nàng cho tôi nếm những mơn trớn và đùa giỡn mà tôi cảm thấy đó là sự hiến dâng trọn vẹn.
“Maria,” tôi nói, “bữa nay em hào phóng như một nữ thần. Nhưng chớ làm hai đứa mình thành dở sống dở chết nhé, vì mai là vũ hội hóa trang rồi. Mai em sẽ đi với người bạn nhảy thuộc loại nào? Bông hoa bé nhỏ yêu quý của anh ơi, anh sợ đó là một hoàng tử trong truyện thần thoại và em sẽ bị y bắt cóc, không bao giờ tìm được đường về với anh nữa. Đêm nay em yêu anh khác nào những kẻ yêu nhau tha thiết trước lúc chia tay, chia tay lần cuối.”
Nàng áp sát môi vào tai tôi, thì thầm: 
“Đừng nói thế, Harry ơi! Lần nào cũng đều có thể là lần cuối. Nếu Hermine lấy mất anh, anh sẽ không tới với em nữa. Có thể ngày mai nàng lấy mất anh rồi.”
Tôi chưa bao giờ cảm nhận được cái cảm giác đặc biệt mãnh liệt của những ngày này, vừa ngọt ngào vừa cay đắng lạ kỳ, như vào cái đêm trước vũ hội. Điều tôi cảm thấy chính là hạnh phúc: sắc đẹp cùng sự dâng hiến của Maria; tôi tận hưởng, vuốt ve, hít thở hàng trăm thứ dục cảm thanh nhã và tinh tế mà mãi sau này, khi về già, tôi mới tìm hiểu; nó như tiếng róc rách trong một làn sóng đu đưa nhè nhẹ của sự thỏa mãn. Nhưng đó chỉ là lớp vỏ ngoài thôi, còn bên trong mới thật đầy ý nghĩa, căng thẳng, định mệnh; trong khi tôi trìu mến và dịu dàng bận rộn với những chuyện lặt vặt ngọt ngào và xúc động của tình yêu, như thể đang ngụp lặn trong hạnh phúc ấm áp thì lòng tôi cảm thấy định mệnh của mình đang cắm đầu cắm cổ lao tới trước, như con ngựa bị săn đuổi và đánh đập nên sợ hãi, phi về phía vực thẳm, về phía nó sẽ rơi xuống, đầy hãi sợ, đầy khao khát, đầy hiến dâng cho cái chết. Giống như không lâu trước đây tôi còn chống lại sự cẩu thả thoải mái của tình yêu thuần nhục cảm, cũng như từng cảm thấy sợ hãi trước sắc đẹp cười cợt sẵn sàng hiến dâng của Maria, giờ đây tôi cảm thấy sợ hãi trước cái chết - nhưng đó là sự sợ hãi do ý thức rằng chẳng mấy chốc nó sẽ trở thành dâng hiến và giải thoát.
Trong khi chúng tôi lặng lẽ đắm chìm trong những vui thú của tình yêu và thuộc về nhau hơn bao giờ hết thì tâm hồn tôi vĩnh biệt Maria, vĩnh biệt hết thảy những gì liên quan tới nàng và có ý nghĩa với tôi. Tôi đã học được ở nàng, một lần nữa trước khi kết thúc, sự phó thác mình cho trò chơi ngoài mặt của cuộc đời như một đứa trẻ, tìm kiếm những thú vui rất mực phù du, vừa trẻ thơ vừa thú vật trong sự hồn nhiên của giới tính - một trạng thái mà trong cuộc đời trước kia tôi chỉ biết như những ngoại lệ hiếm hoi, vì đối với tôi cuộc sống của giác quan và giới tính hầu như luôn có dư vị cay đắng của tội lỗi, cái hương vị ngọt ngào nhưng bồn chồn của thứ trái cấm mà một người trí thức phải cảnh giác. Nay Hermine cùng Maria đã cho tôi xem khu vườn này với tất cả sự tinh khiết vô tội của nó và tôi thầm biết ơn được là người khách của khu vườn ấy - nhưng sắp đến lúc tôi lại tiếp tục lên đường rồi. Trong khu vườn này quá đẹp và quá ấm. Số phận của tôi là tiếp tục cố đạt tột đỉnh cuộc sống, tiếp tục sám hối tội lỗi vô hạn của cuộc đời. Một cuộc sống dễ dàng, một tình yêu dễ dài, một cái chết nhẹ nhàng - những điều này hoàn toàn không phải cho tôi.
Qua những lời úp úp mở mở của hai nàng tôi đoán rằng người ta dự định sẽ có nhiều thú vui độc đáo và lắm trò trụy lạc tại buổi vũ hội ngày mai, hoặc tiếp sau đó. Có thể đấy sẽ là màn kết thúc, có thể Maria đã linh cảm đúng và đêm nay chúng tôi gần gũi nhau lần cuối, có thể ngày mai bắt đầu cuộc vận hành mới của định mệnh? Tâm hồn tôi chất chứa đầy khát khao nóng bỏng, đầy âu lo đến ngạt thở và tôi cuồng dại ghì chặt Maria, một lần nữa chạy qua mọi lối mòn và bụi rậm trong khu vườn của nàng với ánh mắt bừng bừng thèm khát, một lần nữa cắn vào quả ngọt của cây trái thiên đường.
Hôm sau tôi ngủ bù cho cái đêm thức suốt này. Sáng ra tôi đi xe tới chỗ tắm[22], rồi đi xe về nhà, mệt rã rời, kéo màn cho tối căn phòng ngủ; lúc thay quần áo tôi có thấy bài thơ trong túi, nhưng chẳng buồn xem mà lăn ngay ra giường, quên Maria, quên Hermine cùng buổi vũ hội hóa trang. Tôi ngủ vùi suốt ngày, chiều mới dậy; mãi lúc cạo râu mới sực nhớ chỉ một giờ nữa thôi buổi vũ hội sẽ bắt đầu và tôi phải lúc tìm một chiếc sơ mi trắng để mặc với áo đuôi tôm. Tôi vui vẻ đóng bộ rồi ra khỏi nhà, trước tiên để đi ăn tối.
Đây là buổi vũ hội hóa trang đầu tiên tôi tham dự. Xưa kia, thỉnh thoảng tôi cũng đến những dạ hội kiểu này, đôi khi thấy cũng hay hay, nhưng tôi không nhảy mà chỉ làm khán giả thôi, nên luôn thấy thật là khôi hài khi nghe người khác kể lể và mừng vui chờ đợi nó. Còn hôm nay buổi vũ hội cũng là một biến cố đối với tôi và tôi hân hoan chờ đón với tâm trạng căng thẳng và không phải không âu lo. Vì không dẫn theo bạn nhảy nữ nên tôi quyết định sẽ đến đó trễ, chính Hermine cũng đã khuyên như thế.
Dạo gần đây tôi hiếm khi tới quán Mũ Sắt, chốn ẩn dật của tôi ngày trước, nơi những người đàn ông chán nản ngồi cho qua buổi tối, nốc vang, đóng vai thanh niên độc thân; quán ấy không còn phù hợp với cuộc sống hiện giờ của tôi nữa. Song tối nay tôi lại bị kéo tới đó, hoàn toàn tự động. Trong tâm trạng hân hoan lẫn âu lo trước định mệnh và sự vĩnh biệt, cái tâm trạng đang chết ngự tâm hồn tôi lúc ấy, mọi chốn tôi đã dừng chân và mọi nơi ghi dấu hồi tưởng trong đời tôi đều ngời lên một lần nữa vẻ huy hoàng tươi đẹp đau đớn của quá khứ, và như thế có cả cái quán nhỏ mù khói thuốc lá, nơi gần đây tôi còn là một trong những khách hàng quen thuộc, nơi trước đây không lâu cái chất làm đê mê tầm thường của một chai vang nhẹ trong vùng cũng đã đủ để động viên tôi lại trở về được một đêm với cái giường cô quạnh của mình, để có thể chịu đựng thêm một ngày của cuộc sống. Từ ấy tôi đã thử những thứ thuốc khác, kích thích mạnh hơn, đã nuốt những chất độc ngọt ngào hơn. Tôi mỉm cười bước vào cái quán ngày trước ấy, được bà chủ đon đả và những người khách quen thuộc đang trầm mặc khẽ gật đầu chào đón. Bà giới thiệu món gà tơ quay rồi bưng cho tôi một con; vang Alsace màu tươi - loại còn non - được rót vào chiếc ly thủy tinh dày kịch kiểu nông thôn; những chiếc bàn gỗ sạch sẽ màu trắng và lớp ván ốp tường cũ kỹ màu vàng thân mật nhìn tôi. Trong lúc ăn uống, lòng tôi trào lên cảm giác của sự tàn phai cùng buổi tiệc chia ly, cái cảm giác ngọt ngào và đớn đau thầm kín của mối gắn bó tuy chưa hề tách rời hẳn, nhưng nay đã đủ chín muồi để chia ly với mọi nơi và mọi sự vật trong cuộc đời trước kia của tôi. Con người “hiện đại” gọi thế là đa cảm; y không còn yêu quý những sự vật này nữa, kể cả  chiếc ô tô là thứ thiêng liêng nhất của y mà y hy vọng sớm có thể đổi sang một hiệu khác tốt hơn. Con người hiện đại này táo bạo và tự tin, tháo vát, khỏe mạnh, lạnh lùng và nghiêm ngặt, một mẫu người xuất sắc; y sẽ chứng tỏ điều này một cách phi thường trong cuộc chiến tranh sắp tới. Tôi chẳng màng gì mấy thứ ấy, tôi là người không hiện đại cũng chẳng lạc hậu, tôi đã thoát ra khỏi thời gian, tôi thôi thúc mình cận kề cái chết và quyết tâm vươn tới cái chết. Tôi chẳng còn chống đối gì sự đa cảm, ngược lại tôi mừng và biết ơn khi còn cảm thấy trong trái tim đã khô héo của mình chút gì đấy như thể cảm xúc. Cho nên tôi đã thả hồn mình vào những kỷ niệm với ngôi quán cũ kỹ này, vào nỗi quyến luyến của tôi với những chiếc ghế cũ kỹ cục mịch, thả hồn vào mùi khòi thuốc và rượu vang, vào một thoáng của thói quen, của hơi ấm, của một cái gì đấy giống như Tổ quốc mà tất cả những điều này đã tạo cho tôi. Tạ từ đi thôi, lòng tôi khẽ bảo. Tôi yêu cái ghế cứng ngắc này, cái ly nhà quê này, yêu vị trái cây mát lạnh của vang Alsace, yêu sự thân thiết giữa tôi với tất cả và với mỗi thứ trong căn phòng này, yêu gương mặt của những người mơ màng ngồi uống rượu, những kẻ thất vọng mà tôi từng là anh em của họ từ lâu. Những gì tôi cảm nhận ở đây chính là sự đa cảm trưởng giả, đượm chút hương vị lãng mạn lỗi thời của quán rượu thời tôi còn nhỏ, khi mà tửu lầu, rượu vang và thuốc lá vẫn còn là những món kỳ lạ và tuyệt vời, bị cấm đoán. Nhưng chẳng con sói thảo nguyên nào nhổm dậy, nhe nanh xé tan tính đa cảm của tôi ra thành từng mảnh. Tôi ngồi thanh thản ở đấy, nóng bừng bởi quá khứ, bởi tia sáng yếu ớt của một vì sao vừa tắt lịm.
Một người bán hàng rong bước vào quán mời hạt dẻ nướng, tôi mua một vốc. Một bà lão bán hoa bước vào, tôi mua vài bông cẩm chướng tặng bà chủ quán. Chỉ khi tôi định trả tiền mà tìm mãi không thấy cái túi áo khoác quen thuộc, mới sực nhớ mình đang mặc áo đuôi tôm. Vũ hội hóa trang! Hermine!
Nhưng hãy còn quá sớm, tôi lưỡng lự có nên tới Sảnh đường Địa Cầu ngay bây giờ chưa. Vả lại, tôi cảm thấy - như mọi lần vui chơi trong thời gian gần đây - lòng mình đầy phản kháng và ngần ngại, một mối ác cảm đối với việc vào trong những sảnh đường rộng lớn, đông nghẹt và quá ồn ào, một sự nhút nhát kiểu học trò trước những bầu không khí xa lạ, trước thế giới của những kẻ ăn chơi, trước cảnh khiêu vũ.
Tôi lững thững đi ngang một rạp xi nê, thấy đèn đuốc và những tấm quảng cáo màu mè khổng lồ sáng lóa; qua được vài bước tôi quay lại, vào rạp. Tôi có thể thoải mái ngồi yên ở đây trong bóng tối đến quãng mười một giờ. Theo anh chàng soát vé cầm đèn bấm dẫn đường, tôi bước cao bước thấp đi qua tấm màn cửa vào căn phòng âm u, tìm được một chỗ ngồi rồi bỗng dưng thấy mình ở ngay trong Cựu Ước. Đây là một trong những bộ phim trên danh nghĩa không phải để hốt bạc, lại được quay thật công phu và tốn kém vì những mục đích cao cả và thiêng liêng, nên thậm chí học trò còn được các ông thầy dạy giáo lý dẫn tới xem suất xế trưa. Phim diễn tả sự tích Moses[23] và dân Do Thái thời ở Ai Cập, với cơ man người, ngựa, lạc đà, dinh thự, sự huy hoàng của các Pharaon và nỗi thống khổ của dân Do Thái trong sa mạc nóng bỏng. Tôi thấy Moses - một Moses tuyệt đẹp trên sân khấu, tóc tai chải chuốt hao hao bắt chước Walt Whitman[24]  - chốn cây gậy dài, bước chân như của thầm Wotan[25], sôi nổi và buồn bực đi qua sa mạc, dẫn đầu đám dân Do Thái. Tôi thấy ông cầu khẩn Chúa Trời nơi Biển Đỏ, rồi Biển Đỏ tẽ ra, để lộ một con đường, một cái khe giữa hai làn nước bị chặn lại tựa núi cao vòi vọi (các cậu học trò chịu lễ kiên tin[26] được ông linh mục dẫn xem bộ phim tôn giáo này sẽ tranh cãi dài dài việc các nhà quay phim dựng cảnh nọ bằng cách nào), tôi thấy nhà tiên tri băng qua biển trên con đường ấy cùng với đám dân hãi sợ, thấy chiến xa của Pharaon xuất hiện phía sau họ, thấy quân Ai Cập thảng thốt và lưỡng lự nơi bở biển, rồi táo bạo tiến theo, thấy hai núi nước ập vào nhau, vùi lấp Pharaon giáp trụ vàng rực rỡ cùng các chiến xa và binh lính của y, tôi không khỏi nhớ đến bài song ca bất hủ của Händel cho hai giọng trầm, ca ngợi thật tuyệt vời biến cố này. Tôi tiếp tục thấy Moses leo lên núi Sinai, một đấng anh hùng u sầu trên núi đá hoang vu ảm đạm và thấy Đức Jehova đã dùng bão tố, phong ba và sấm chớp truyền cho ông mười điều răn[27] như thế nào, trong khi dưới chân núi đám dân hèn hạ của ông dựng tượng con bê vàng và buông thả vào những trò tiêu khiển khá cuồng nhiệt. Tôi thật rất lạ lùng và không tin nổi đã cùng xem tất cả những chuyện này, những sự tích thiêng liêng cùng với các anh hùng và phép lạ - những sự tích mà thời thơ dại xưa kia đã hé mở cho chúng tôi trí tưởng tượng mơ hồ đầu tiên về một thế giới khác, một thế giới siêu phàm - tại nơi đây, trước đám khán giả trả tiền vào cửa để được xem với lòng đầy biết ơn và đang lặng lẽ nhai những ổ bánh mì con mang theo từ nhà. Đây quả là một tấm hình rời nho nhỏ xinh xắn từ đống hàng khổng lồ rẻ tiền và bán tống bán tháo văn hóa của thời đại này. Chúa ơi, để điều tồi tệ này đừng xảy ra thì tốt hơn lẽ ra ngày trước không chỉ người Ai Cập, mà cả người Do Thái và hết thảy mọi người khác cũng nên bị diệt vong luôn, chết bằng bạo lực và thích đáng, thay vì chết mòn ghê rợn như chúng ta ngày nay. Thế đấy!
Những ngại ngùng thầm kín, nỗi e ngại ngấm ngầm của tôi trước buổi khiêu vũ hóa trang không giảm đi sau cuốn phim và sự kích thích của nó, mà còn tăng thêm thật khó chịu và tôi đã phải nghĩ tới Hermine để cuối cùng tự thúc đẩy mình đi xe đến Sảnh đường Địa Cầu và vào trong đấy. Lúc ấy đã muộn rồi và buổi dạ vũ đã đến hồi náo nhiệt nhất từ lâu; tôi, tỉnh rượu và nhút nhát, chưa kịp cởi áo khoác, đã lọt ngay vào một đám người mang mặt nạ xô đẩy nhau dữ dội; họ thân mật thụi tôi, các cô gái đòi tôi dẫn đến quầy sâm banh, các anh hề vỗ mạng vai tôi, gọi tôi là bồ tèo. Tôi không tham gia mà vất vả luồn lách trong những căn phòng đầy ứ người tới chỗ gửi áo khoác. Khi được trao thẻ số, tôi hết sức cẩn thận cất vào túi áo, thầm nghĩ chắc lại sắp dùng đến nó, khi chán cảnh huyên náo này.
Vũ hội diễn ra trong khắp mọi phòng của tòa nhà lớn; sảnh đường nào cũng có khiêu vũ, cả dưới tầng hầm; mọi hành langvà cầu thang đều tràn ngập người hóa trang, khiêu vũ, âm nhạc, tiếng cười và cảnh đeo đuổi ve vãn. Tôi bối rối lách qua đám đông, từ chỗ ban nhạc da đen tới ban nhạc đồng quê, từ chính sảnh to rộng sáng choang đến các lối đi, cầu thang gỗ, các quầy rượu, những quầy thức ăn, tới những quầy rượu sâm banh. Các bức tường phần lớn treo những bức tranh vui nhộn và hoang dại của những họa sĩ rất trẻ. Nơi đây có đủ mọi hạng người, nghệ sĩ, nhà báo, học giả, doanh nhân và tất nhiên toàn giới ăn chơi của thành phố. Ở một trong các dàn nhạc có Mister[28] Pablo đang ngồi say sưa thổi chiếc kèn uốn cong của anh; khi nhận ra tôi, anh lớn tiếng chào như hát. Tôi bị đám đông xô đẩy hết vào phòng này tới phòng khác, hết lên cầu thang lại xuống cầu thang; một lối đi trong tầng hầm được các nghệ sĩ dàn cảnh thành địa ngục và ở đấy có một ban nhạc quỷ sứ chơi như hóa cuồng. Dần dần tôi bắt đầu chăm chú tìm Hermine và Maria. Nhiều phen tôi cố chen vào phòng chính, nhưng lần nào cũng nhầm đường hoặc bị đám đông cản lối. Tới nửa đêm vẫn chưa tìm thấy một ai, chưa khiêu vũ mà tôi đã nóng ran và chóng mặt; buông mình xuống chiếc ghế gần nhất, giữa những người lạ hoắc, tôi gọi rượu vang và nhận thấy những buổi lễ hội ồn ào thế này chẳng hợp tí nào với một kẻ già nua như mình. Tôi chán nản uống ly vang, đăm đăm nhìn những cánh tay và lưng trần của đám phụ nữ, nhìn những hình hài hóa trang hết sức kỳ quái lướt qua trước mặt, chịu bị họ xô đẩy và lặng lẽ từ chối dăm ba cô gái sà vào lòng tôi hay mời tôi nhảy. "Lão già bẳn tính," một cô đã kêu lên như thế và nàng có lý. Tôi quyết định uống rượu để có chút can đảm và hưng phấn, nhưng thấy vang thật nhạt nhẽo, không nuốt nổi ly thứ hai. Dần dà tôi cảm thấy Sói Thảo Nguyên đứng ngay sau lưng và thè lưỡi chế nhạo. Chẳng có chuyện gì không ổn cả, đây không phải là nơi thích hợp với tôi thôi. Tôi đến đây với tất cả thành tâm, nhưng ở đây tôi không thể vui vẻ được và đối với tôi thì sự hân hoan náo nhiệt, tiếng cười đùa cùng mọi ồn ào ầm ĩ chung quanh thật là ngớ ngẩn và gượng gạo.
Thành ra vào lúc một giờ sáng, tôi thất vọng và cáu kỉnh rón rén quay về quầy gửi áo, lấy áo choàng ra về. Đây là một thất bại, là sự trở lại với trạng thái sói thảo nguyên của tôi và Hermine sẽ không mảy may tha thứ. Nhưng tôi không thể làm khác được. Trên đường chen lấn vất vả qua đám đông xô đẩy tới quầy gửi áo tôi còn nhìn quanh một lần nữa thật kỹ, xem có thấy cô bạn nào không. Hoài công. Giờ đây tôi đứng ở quầy và người đàn ông sau quầy lễ phép chìa tay đón thẻ số của tôi. Tôi thọc tay vào túi áo vét - tấm thẻ không còn đó! Quỷ quái thật, lại thế nữa! Trong lúc buồn rầu đi qua các sảnh, trong lúc ngồi uống ly rượu vang nhạt nhẽo tôi đã nhiều lần thọc tay vào túi, chống lại ý định bỏ về và lần nào cũng đều thấy tấm thẻ dẹt tròn còn đó mà. Bây giờ nó biến mất tiêu. Mọi sự đều chống lại tôi.
"Mất thẻ à?" một con quỷ nhỏ bé màu đỏ và vàng đứng cạnh tôi hỏi the thé. "Đây, ông bạn, dùng cái của tôi vậy," và chìa ngay thẻ cho tôi. Trong lúc tôi như cái máy nhận tấm thẻ và lật qua lật lại trong những ngón tay thì anh chàng nhanh nhảu nọ đã biến mất.
Nhưng khi tôi đưa tấm thẻ nhỏ bằng giấy bồi, tròn như đồng bạc lên gần mắt để tìm số thì không thấy số mà thấy những chữ nhỏ nguệch ngoạc. Tôi yêu cầu người giữ áo chờ, rồi lại dưới chiếc đèn chùm gần đấy để đọc. Trên tấm thẻ nguệch ngoạc mấy chữ nhỏ xiêu vẹo thật khó đọc:
Đêm nay kể từ bốn giờ ở Hí viện ma thuật
- dành riêng cho những người điên -
Vào cửa trả bằng lý trí.
Không phải cho bất kỳ ai.
Hermine đang ở trong địa ngục.
Tựa một con rối bị vuột dây khỏi người điều khiển trong một khoảnh khắc, rồi hồi sinh sau một cái chết và hôn mê ngắn ngủi, lại tham dự vào trò vui, nhảy nhót và diễn xuất, tôi dẻo dai, trẻ trung và hăm hở - như được sợi dây ma thuật kéo giật - chạy ngược vào cảnh chen chúc ồn ào mà vừa mới đây tôi đã trốn chạy vì cảm thấy mệt mỏi, chán chường và già nua. Chưa kẻ phạm tội nào từng xông vào địa ngục vội vàng hơn. Vừa mới rồi đôi giày da bóng còn bó chặt tôi, bầu không khí sặc mùi nước hoa còn khiến tôi tởm lợm, nóng nực còn làm tôi mệt lử, giờ đây đôi bàn chân nhún nhảy của tôi nhanh nhẹn chạy theo nhịp của điệu Onestep qua mọi căn phòng về phía địa ngục; tôi cảm nhận được bầu không khí đầy quyến rũ, hơi ấm, tiếng nhạc ồn ào, màu sắc ngất ngây, hương thơm từ những bờ vai phụ nữ, cơn say của hàng trăm người, tiếng cười, nhịp của vũ điệu, vẻ rạng ngời của mọi cặp mắt khích động đu đưa và dìu đi. Một vũ nữ Tây Ban Nha lao vào vòng tay tôi: "Nhảy với em đi!" - "Không được," tôi nói, "tôi phải xuống địa ngục. Nhưng tôi rất muốn hôn em." Đôi môi đỏ dưới chiếc mặt nạ đáp lại nguyện vọng của tôi và chỉ khi hôn nàng tôi mới nhận ra đó là Maria. Tôi ghì chặt nàng, đôi môi đầy đặn của nàng nở tựa một đóa hoa hồng mùa hè đến độ. Và rồi chúng tôi khiêu vũ với nhau, môi vẫn áp môi, nhảy qua mặt Pablo; anh đang đắm đuối gục đầu trên cái kèn rền rĩ mơn trớn của mình, ánh mắt đẹp như mắt dã thú của anh rạng rỡ và hơi lơ đãng quấn chặt lấy chúng tôi. Vừa mới nhảy được hai mươi bước thì ngưng tiếng nhạc, tôi miễn cưỡng buông Maria khỏi vòng tay.
"Anh rất muốn nhảy với em lần nữa," tôi nói ngất ngây vì hơi ấm của nàng, "nhảy với anh vài bước, Maria nhé, anh say mê cánh tay tuyệt mỹ cuả em, cho anh được nắm thêm một lát nữa! Nhưng mà này, Hermine đã kêu gọi anh. Nàng đang ở địa ngục."
"Em đã đoán thế mà. Vĩnh biệt, Harry, em sẽ mãi nhớ anh."
Nàng giã biệt. Bông hồng mùa hè ấy đã đến độ và ngọt ngào hương thơm của vĩnh biệt, mùa thu và định mệnh.
Tôi tiếp tục chạy qua những hành lang dài đầy nghẹt người âu yếm túm tụm, xuống những bậc thang, vào địa ngục. Ở đây, những ngọn đèn tinh quái sáng chói chang trên những bức tường đen như hắc ín và ban nhạc quỷ sử đang chơi cuồng nhiệt. Một chàng trai tuấn nhã không đeo mặt nạ, trong áo đuôi tôm ngồi trên chiếc ghế cao nơi quầy rượu liếc nhìn tôi với ánh mắt giễu cợt. Tôi bị làn sóng người đang khiêu vũ ép sát vào tường - khoảng hai mươi cặp đang nhảy trong căn phòng rất chật chội này. Tôi hau háu và lo âu quan sát mọi người đàn bà; phần lớn họ còn mang mặt nạ, vài người mỉm cười với tôi, nhưng không có ai là Hermine. Chàng thanh niên tuấn nhã trên ghế cao giễu cợt nhìn về phía tôi. Lần nghỉ sắp tới nàng sẽ đến và gọi tôi, tôi thầm nghĩ. Màn khiêu vũ chấm dứt, mà chẳng ai tới cả. Tôi bước lại quầy rượu bị nhét và một xó của căn phòng nhỏ và thấp choẻn này. Tôi đứng cạnh ghế của chàng trai và gọi Whisky. Tôi vừa uống vừa nhìn nghiêng khuôn mặt của anh chàng. Nó quyến rũ và quen thuộc làm sao, cứ như một bức tranh từ thời rất xa xôi, quý giá nhờ lớp bụi êm đềm của quá khứ. A, đầu óc tôi chợt lóe lên: Đấy chính là Hermann, cậu bạn thời niên thiếu của tôi.
"Hermann!" tôi ngập ngừng.
Cậu ta mỉm cười. "Harry! Anh tìm ra em à?"
Hermine đấy! Tóc nàng chỉ chải hơi khác đi và trang điểm đôi chút, khuôn mặt thông minh của nàng trông xanh xao và lôi cuốn trên chiếc cổ áo đứng hợp thời trang, đôi bàn tay nhỏ nhắn lạ lùng lộ khỏi ống tay áo đuôi tôm màu đen rộng thùng thình và cổ tay áo sơ mi trắng, đôi bàn chân thanh tú lạ thường mang tất đàn ông bằng lụa trắng ló khỏi chiếc quần dài đen.
"Hermine ơi, em định là anh phải lòng em trong bộ phục trang này ư?"
"Cho đến lúc này," nàng gật đầu, "em mới chỉ khiến vài mệnh phụ phải lòng thôi. Nhưng bây giờ thì tới lượt anh. Mình hãy uống sâm banh trước đã."
Ngồi trên ghế cao, chúng tôi uống rượu trong khi ngay cạnh đấy cuộc khiêu vũ lại tiếp tục cùng tiếng đàn dây trỗi lên nóng bỏng. Chẳng mấy chốc tôi đã phải lòng Hermine, dù nàng chẳng có vẻ tốn chút công sức nào. Vì nàng vận nam trang nên tôi không thể cùng nàng khiêu vũ, không thể âu yếm hay ve vãn; nhưng trong lúc nàng có vẻ xa cách và dửng dưng trong bộ phục trang nam giới, nàng lại quấn riết lấy tôi bằng ánh mắt, lời nói, cử chỉ với tất cả nét quyến rũ của nữ tính. Dù chẳng hề chạm đến nàng, tôi vẫn đã bị bùa mê của nàng khuất phục, chính bùa mê này nằm trong vai nàng đóng, vai một người lưỡng tính. Vì nàng trò chuyện với tôi về Hermann và thời thơ ấu, của tôi và của nàng, về những năm tháng trước tuổi dậy thì, thời mà năng lực yêu đương non nớt không chỉ bao trùm hai nam nữ, mà hết thảy mọi thứ, cả giác quan lẫn tinh thần, nó phú cho mọi vật vẻ quyến rũ của tình yêu và khả năng biến hóa thần kỳ mà chỉ ở các thi sĩ và những kẻ được ân sủng thì khả năng này mới thỉnh thoảng vẫn còn tái hiện khi họ đã về già. Nàng đóng vai chàng thanh niên thật hoàn hảo, hút huốc, chuyện trò thoải mái và hóm hỉnh, hay giễu cợt đôi chút, nhưng trên đường tới với giác quan của tôi thì tất cả đều đượm nét thần ái tình eros, tất cả đều chuyển hóa thành sự cám dỗ đáng yêu.
Chú thích

1. Hermine là tên nữ giới, ‘được dẫn’ từ tên Hermann của nam giới. Ở châu Âu không hiếm những tên tương tự (chẳng hạn Pauline dẫn từ Paul, Jeanne dẫn từ Jean…). Bằng cách đặt tên như thế cho cô gái điếm - dẫn từ tên của chính tác giả - Hermann Hesse ngầm qua nhân vật này nói lên khía cạnh phóng đãng, đam mê dục lạc của chính mình.
[2]:”Giúp(…)cởi bỏ áo khoác” chỉ là đỡ lấy chiếc áo khoác khi người phụ nữ mình quen biết nói chung(chứ không riêng người yêu) cởi ra. Đây là phép lịch sự thông thường của đàn ông sống ở phương Tây (chứ không riêng của đàn ông phương Tây).
[3] Baudelaire (1821 – 1867): nhà thơ Pháp.
[4]: Suốt nhiều thế kỷ, Đức và Pháp coi nhau là “kẻ thù truyền kiếp”, cho đến tận Thế chiến II.
[5] Máy hát đĩa ngày xưa có một tay quay để lên dây cót.
[6] Franc: ở đây là tiền Thụy Sĩ. Tại quán Đại Bàng Đen, Hermine xin Harry vài mark (tiền Đức).
[7] Senõr (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên tác): ông.
[7a] Caballero (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên tác): con người hào hoa.
[8] Con cháu những người lai Âu - Phi ở Trung và Nam Mỹ.
[9] Năm 16 tuổi Hesse đã đi học nghề; kiến thức ông có được là do tự học.
[10] Monsieur (tiếng Pháp trong nguyên tác): ông.
[11] Buxtehude và Pachelbel: hai nhạc sĩ Đức ở thế kỷ 17.
[12] Một nữ ca sĩ Hungary.
[13] Hesse từng là chủng sinh trong tu viện Tin lành ở Maulbronn trong nửa năm, từ cuối 1891 đến đầu 1892.
[14] Knut Hamsun (1859-1952): nhà văn Na Uy.
[15] Franz von Liszt (1811-1886): nhạc sĩ Đức - Hung. Richard Wagner (1813-1883): nhạc sĩ Đức.
[16] Tristan: nhân vật trong một chuyện tình của sử thi Đức.
17] Khi chết, thi hài Mozart bị vùi lấp trong một ngôi mộ tập thể ở Vienne.
[18] Năm 1925, Hesse viết trong “Sơ yếu lý lịch”: “Tuy trong môn học thú vị mà các thầy gọi là Lịch sử thế giới chúng tôi được dạy rằng thế giới luôn luôn được cai trị, lèo lái, thay đổi bởi những con người đặt ra luật lệ riêng của họ và đoạn tuyệt với những luật lệ kế thừa của quá khứ, rằng họ là những bậc đáng kính ngưỡng, nhưng khổ nỗi điều này cũng dối trá như hết thảy môn học nọ, vì khi có ai trong chúng tôi - thành tâm hay không - dám to gan phản kháng bất kỳ một điều cấm đoán nào, hoặc chỉ phản đối một thói quen hay một mốt ngu xuẩn, người đó sẽ chẳng được khen ngợi hay được coi là tấm gương cho chúng tôi, mà còn bị trừng phạt, nhạo báng và bị sức mạnh áp đảo hèn nhát của quý thầy đè bẹp gí.”
[19] Những tổ khúc ngắn của Mozart.
[20] Klavier: tên gọi chung mọi loại đàn có bàn phím để gõ lên bộ dây - chẳng hạn đàn piano (vì thế trong tiếng Đức Klavier thường được hiểu là dương cầm) - Theo Wikipedia, Das wohltemperierte Klavier (tên tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt là Tuyển tập phức điệu bình quân luật) là một tập hợp những “khúc nhạc dạo đầu” (prelude) và những “fuga” (fugue) hay “tấu khúc” do Johann Sebastian Bach soạn vào những năm 1722 và 1740-1742 cho các loại đàn nói trên.
[21] Thượng giới: một nghĩa của Äther (Ête), nơi Ánh sáng và các thần linh ngự trị (theo thần thoại Hy Lạp).
[22] Ở châu Âu, nhiều ngôi nhà xây vào đầu thế kỷ 20, hoặc trước nữa, không có buồng tắm. Người dân phải sử dụng các nhà tắm công cộng của thành phố.
[23] Moses: theo Cựu Ước, hơn 1000 năm trước Công nguyên, ông được Chúa Trời giao sứ mạng giải thoát dân Chúa (dân Do Thái) khỏi ách nô lệ ở Ai Cập, đưa họ vượt bao trở ngại - như Biển Đỏ và sa mạc Sinai - trong cuộc hành trình gian khổ kéo dài “40 năm” về miền Đất Hứa.
[24] Walt Whitman (1819-1892): nhà thơ Mỹ nổi tiếng.
[25] Wotan: còn gọi là Wodan hay Odin, một vị thần của tộc German.
[26] Còn gọi là “lễ thêm sức”, tiếp nhận các thiếu niên đạo Tin Lành đạt đủ trình độ cơ bản về giáo lý làm thành viên chính thức của họ đạo.
[27] Mười điều răn này trở thành luật đạo Do Thái.
[28] Tiếng Anh trong nguyên bản.