Bút ký của Harry Haller
Chương 4
Dành riêng cho những người điên

    

ôi cứ đinh ninh đã hiểu rất rõ Hermine rồi chứ, thế mà đêm nay nàng biểu lộ thật hoàn toàn mới mẻ làm sao! Nàng đã, nhẹ nhàng và không nhận ra được, quấn quanh tôi tấm lưới mà tôi hằng khao khát; Hermine - như nàng tiên cá - đã cho tôi uống chất độc ngọt ngào thật dễ dàng!
Chúng tôi ngồi trò chuyện và uống sâm banh. Chúng tôi, những kẻ thám hiểm phiêu lưu, vừa lang thang qua các sảnh vừa quan sát, chọn ra những cặp trai gái để lén nghe họ tình tự. Nàng chỉ cho tôi những người đàn bà, yêu cầu tôi khiêu vũ với họ; nàng cho tôi những cặp trai gái để lén nghe họ tình tự. Nàng chỉ cho tôi những người đàn bà, yêu cầu tôi khiêu vũ với họ; nàng cho tôi những lời khuyên về nghệt thuật quyến rũ để ứng dụng với người này, người kia. Chúng tôi đóng vai tình địch, cùng đeo đuổi một người đàn bà trong chốc lát, thay phiên khiêu vũ với nàng, tìm cách chinh phục nàng. Nhưng tất cả vẫn chỉ là trò chơi hóa trang, chỉ là đùa vui giữa hai chúng tôi, khiến chúng tôi gắn bó với nhau hơn, làm cho nhau rạo rực. Tất cả đều là chuyện thần tiên, tất cả đều thêm một kích thước mới, một ý nghĩa sâu hơn. Tất cả đều là trò đùa và biểu tượng. Chúng tôi thấy một thiếu phụ rất đẹp, trông hơi đau khổ và rầu rĩ.
Hermann nhảy với nàng, khiến nàng tươi tỉnh hẳn, đưa nàng đi uống sâm banh, rồi sau đó kể với tôi rằng đã chinh phục được nàng không trong tư cách đàn ông, mà đàn bà, với sự quyến rũ của Lesbos[1]. Về phần tôi thì dần dà toàn thể ngôi nhà ồn ào đầy những căn phòng nhảy nhót vang động này, đám người mang mặt nạ hào hứng này đã trở thảnh một thiên đường điên cuồng tuyệt vời, hết bông hoa này đến bông hoa khác mời mọc tôi với hương thơm của nó, tôi đùa nghịch tìm từ quả này sang trái khác với những ngón tay tập tành của tôi, những con rắn cám dỗ nhìn tôi từ bóng tối của đám lá xanh, những bông sen lượn lờ như ma trên bùn đen, nhũng con chim phù thủy dụ dỗ trên nhánh cây, tuy vậy tất cả đều chỉ hướng tôi tới một mục tiêu khao khát, tất cả lại chồng chất lên tôi niềm hoài vọng tới điều duy nhất ấy. Có lần tôi hào hứng nhảy với một thiếu nữ lạ; tôi tán tỉnh, lôi kéo nàng vào sự cuồng nhiệt và ngất ngây, trong lúc chúng tôi bay bổng trong hư ảo, nàng chợt phá lên cười: "Người ta không nhận ra anh đâu nhé. Mới hồi chiều anh còn quá sức ngớ ngẩn và tẻ ngắt." Và tôi nhận ra nàng, người vài giờ trước đó đã gọi tôi là "lão già bẳn tính". Giờ đây nàng tưởng đã chiếm được tôi, nhưng lần khiêu vũ sau tôi đã nhảy và rạo rực với một cô gái khác. Tôi khiêu vũ không ngừng suốt hai giờ hoặc hơn nữa, điệu nào cũng nhảy, cả những điệu tôi chưa từng học. Hermann, chàng trai trẻ tươi cười, không ngớt xuất hiện bên cạnh tôi, gật đầu với tôi rồi mất dạng trong đám đông.
Trong đêm vũ hội này tôi được nếm trải điều mình chưa từng được biết trong năm mươi năm qua, dù mỗi cô gái mới lớn và mỗi sinh viên đều biết: đó là sự trải nghiêm về lễ hội, niềm vui sướng ngất  ngây của những người dự lễ, sự hòa mình bí nhiệm của cá nhân trong tập thể, một Unio mystica[2] của niềm vui. Tôi đã thường nghe nói về nó - cô người làm nào cũng đều biết điều đó - và tôi đã thường thấy ánh mắt người kể chuyện sáng long lanh, nhưng tôi chỉ luôn mỉm cười nửa tự cao, nửa ganh tị. Tôi đã thấy cả trăm lần trong đời vẻ rạng rỡ nọ trong đôi mắt ngất ngây của một kẻ sung sướng mê ly đã thoát khỏi Cái Tôi, thấy nụ cười nọ và trạng thái đắm chìm hơi điên rồ của kẻ hòa mình vào cơn say của tập thể, đã thấy qua bao thí dụ cao quý và đê tiện, nơi những cậu tân binh và những chàng thủy thủ say mèm cũng như nơi những nhà nghệ sĩ lớn, chẳng hạn trong niềm say mê ở những buổi trình diễn trọng thể, điều này cũng chẳng kém nơi những người lính trẻ ra mặt trận và vừa mới đây tôi đã ngưỡng mộ, yêu quý, giễu cợt cùng ganh tị vẻ rạng rỡ và nụ cười này của con người hạnh phúc mê ly nơi anh bạn Pablo của tôi, khi anh say sưa trình tấu trong ban nhạc, đu người trên chiếc kèn saxophone hay hân hoan và xuất thân nhìn viên nhạc chơi đi chơi lại bài Yearning này nhiều lần mà vẫn cứ được yêu cầu, nó thấm đẫm chúng tôi và làm mọi người ngây ngất, khe khẽ hát theo giai điệu. Tôi nhảy không ngừng, với bất kỳ người đàn bà nào tôi bắt gặp, với những cô gái trẻ măng, với những thiếu phụ mơn mởn, với những nàng như mùa hè đến độ, với những bà quá lứa âu sầu: tôi say mê tất cả, cười nói, hạnh phúc, rạng rỡ. Và khi Pablo thấy tôi rạng rỡ như thế, tôi, người mà anh vốn luôn coi như một kẻ khốn khổ hết sức đáng thương, mắt anh tràn đầy hạnh phúc nhìn tôi, anh hào hứng đứng lên, rời khỏi chiếc ghế trong ban nhạc, thổi dữ dội vào chiếc kèn, rồi leo lên ghế, phồng má thổi, điên cuồng và hạnh phúc lắc lư người cùng nhạc cụ theo điệu bài Yearning; tôi và người bạn nhảy nữ gửi anh những chiếc hôn gió và cùng cất cao tiếng hát. A, giữa chừng tôi thầm nghĩ, dù chuyện gì sẽ xảy ra với tôi, tôi cũng mặc kệ, vì cả tôi cũng đã được một lần hạnh phúc, rạng rỡ, thoát khỏi chính mình; tôi là một đứa trẻ, một người anh em của Pablo.
Tôi mất đi ý niệm về thời gian, tôi không biết cảm giác ngây ngất này đã kéo dài bao nhiêu giờ hay bao nhiêu khoảnh khắc. Tôi cũng không để ý rằng vũ hội càng trở nên cuồng nhiệt thì lại càng thu hẹp vào phạm vi nhỏ hơn. Phần đông khách khứa đã ra về, các hành lang đã trở nên im ắng, nhiều ngọn đèn đã tắt, khoang cầu thang vắng tanh vắng ngắt, ở những căn phòng lầu trên các ban nhạc đã lần lượt im tiếng và ra về; chỉ trong phòng chính và dưới địa ngục là vẫn còn huyên náo, sự ngất ngây hỗn tạp của buổi lễ mỗi lúc một tăng. Vì tôi không được phép khiêu vũ với Hermine, trong vai chàng thanh niên, nên chúng tôi luôn chỉ thoáng gặp và chào nhau trong những lúc nghỉ và cuối cùng nàng biến khỏi tôi, không chỉ trong tầm mắt, mà cả trong ý nghĩ. Không còn ý nghĩ nào nữa. Tôi hòa tan và bị cuốn theo trong đám đông ngất ngây khiêu vũ, xúc động bởi hương thơm, âm thanh, tiếng thở dài, lời nói, được những đôi mắt lạ chào hỏi, khích lệ, được những khuôn mặt, những đôi môi, những cặp má, những cánh tay, những bộ ngực, những đầu gối lạ bao quanh, được âm nhạc xô tới xô lui như một làn sóng theo nhịp điệu.
Đột nhiên trong một khoảnh khắc hơi bừng tỉnh tôi thấy trong số những người khách cuối cùng còn ở lại - giờ đây đầy ứ trong những gian phòng cuối cùng còn vang tiếng nhạc - đột nhiên tôi thấy một pierrette[3] vận đồ đen mang mặt nạ sơn trắng, một thiếu nữ xinh đẹp tươi mát, người duy nhất mang mặt nạ, một hình ảnh mê ly tôi chưa hề thấy trong suốt đêm nay. Trong khi mọi người khác đều in dấu vết của giờ giấc khuya khoắt này: mặt mũi đỏ gay vì kích động, áo quần nhăn nhúm; cổ áo và ống tay nhàu nhĩ thì cô pierrette mặc đồ đen này đứng tươi mát và gọn ghẽ với khuôn mặt trắng trẻo dưới tấm mặt nạ, y phục không một nếp nhăn, cổ áo tinh tươm, cổ tay áo viền ren sạch bong và mái tóc không chút bù rối. Tôi bị cuốn hút về phía nàng, ôm lấy nàng, kéo nàng vào màn khiêu vũ. Cổ áo thơm tho của nàng làm cằm tôi nhột nhạt, tóc nàng phớt nhẹ má tôi; thân thể trẻ trung rắn chắc của nàng đám lại - dịu dàng và thân thiết hơn mọi cô bạn nhảy tối nay - những động tác của tôi, né tránh, khêu gợi và luôn dễ dàng buộc chúng có những va chạm mới. Và đột nhiên lúc tôi cúi xuống giữa màn khiêu vũ tìm môi nàng thì đôi môi ấy mỉm cười kiêu hãnh và rất quen thuộc; tôi nhận ra chiếc cằm cương nghị, sung sướng nhận ra đôi bờ vai, đôi khuỷu tay, đôi bàn tay. Đấy là Hermine, không phải Hermann nữa, đã thay y phục, tươi mát, xức chút nước hoa và thoa chút phấn. Môi chúng tôi cuồng dại gắn vào nhau, cả thân thể nàng cho đến đầu gối áp chặt vào tôi trong một khoảnh khắc, thèm khát và dâng hiến, rồi môi nàng rời khỏi môi tôi, nàng nhảy một cách giữ kẽ và lẩn tránh. Lúc ngưng tiếng nhạc, chúng tôi ôm nhau đứng tại chỗ, những cặp chung quanh khích động vỗ tay, giậm chân, la hét, thúc giục ban nhạc đã kiệt sức chơi lại bản Yearning. Và lúc này tất cả chúng tôi đột nhiên cảm thấy trời dần sáng, bình minh lờ mờ sau những tấm màn cửa, thấy niềm vui sướng sắp tàn, linh cảm sự mệt mỏi đang đến và phá lên cười, tuyệt vọng điên cuồng lao mình lần nữa vào điệu vũ, vào tiếng nhạc, vào làn ánh sáng đang tràn ngập, sôi sục bước theo nhịp, cặp này sát cặp kia, hân hoan cảm nhận lần nữa con sóng lớn đang dội xuống chúng tôi. Lần nhảy này Hermine thôi không kênh kiệu, giễu cợt và lạnh lùng nữa - nàng biết chẳng cần phải làm gì thêm để khiến tôi phải mê đắm. Tôi đã thuộc về nàng. Và nàng dâng hiến trong khiêu vũ, trong ánh mắt, trong môi hôn, trong nụ cười. Mọi người đàn bà của cái đêm đầy khích động này, mọi người đàn bà cùng tôi nhảy, mọi người được tôi gây rạo rực, mọi người đã gây rạo rực cho tôi, mọi người tôi ve vãn, mọi người tôi đã thèm khát ôm sát, mọi người tôi đã mê đắm nhìn theo đều tan chảy thành một người đàn bà duy nhất đang bừng nở trong vòng tay tôi.
Vũ điệu tân hôn này kéo dài thật lâu. Hai lần, ba lần tiếng nhạc yếu đi, các nhạc công thổi kèn hạ nhạc cụ xuống, người chơi dương cầm đứng lên. người kéo vĩ cầm chính lắc đầu cự tuyệt, song lần nào họ cũng lại được cổ vũ mãnh liệt bởi sự cuồng nhiệt của những người khiêu vũ cuối cùng, họ lại chơi lần nữa, nhanh hơn, cuồng dại hơn. Rồi - chúng tôi còn đang đứng ôm nhau thở dốc sau lần nhảy khao khát cuối cùng - nắp đàn dương cầm đóng sầm xuống, cánh tay chúng tôi buông thõng mệt mỏi giống như tay của những người thổi kèn và kéo vĩ cầm, còn người thổi sáo hấp háy mắt cất nhạc khí của mình vào bao, những cánh cửa mở tung, khí lạnh ùa vào, đám người phục vụ xuất hiện với những chiếc áo khoác và tiếp viên nơi quầy rượu tắt phụt đèn. họ tản ra tứ phía, dễ sợ như những bóng ma, những người mới rồi còn nhảy hết sức cuồng nhiệt giờ đây run rẩy rúc vào măng tô, kép cạp cổ áo. Hermine nhợt nhạt nhưng mỉm cười. Nàng chậm rãi đưa tay vuốt tóc ra sau, nách nàng lấp lánh trong ánh sáng, một vạt tối thật mảnh và vô cùng mềm mại trải dài Itừ đấy tới ngực áo và đối với tôi thì vạc tối phập phồng ấy, tựa một nụ cười, hợp nhất mọi vẻ quyến rũ của nàng, mọi trò chơi và năng lực của tấm thân xinh đẹp.
Chúng tôi, những người cuối cùng trong gian phòng, những người cuối cùng trong ngồi nhà, đứng nhìn nhau. Tôi nghe đâu đấy dưới kia tiếng một cánh cửa sập, một tấm kính vỡ, một tiếng khúc khích tan biến dần, lẫn tiếng ồn áo cáu kỉnh và hối hả của động cơ ô tôi quay bằng maniven[4].Đâu đấy, ở một nơi xa xăm và trên cao không thể xác định, tôi nghe vang lên tiếng cười, một tiếng cười trong trẻo và sảng khoái khác thường, nhưng lạ lẫm và ghê rợn, một tiếng cười như từ pha lê và nước đá, trong và rạng rỡ, nhưng lạnh lùng và nghiệt ngã. Tôi đã nghe tiếng cười lạ lùng này ở đâu? Không nhớ nữa.
Hai chúng tôi đứng nhìn nhau. Trong một khoảnh khắc tôi bừng tỉnh táo, cảm thấy cơn mệt mỏi rã rời từ sau ập tới, cảm thấy quần áo sũng mồ hôi, ẩm và ấm, bám vào người thật kinh tởm, nhìn đôi bàn tay đỏ và căng phồng mạch máu ló khỏi cổ tay áo nhàu nát, đẫm mồ hôi. Nhưng cảm giác này biến mất ngay, chỉ một cái nhìn của Hermine đủ xua tan nó. Trước ánh mắt nàng - dường như tâm hồn của chính tôi đang quan sát tôi từ đôi mắt đó - mọi thực tại đều đổ ụp, kể cả thực tại tôi thèm khát nàng về xác thịt. Chúng tôi đắm đuối nhìn nhau, tâm hồn bé nhỏ khốn khổ của tôi ngắm nhìn tôi.
"Anh sẵng sàng chưa?" Hermine hỏi và nụ cười của nàng biến mất, giống như vạt tối trên ngực nàng đã biến mất. Tiếng cười kỳ dị nọ cũng lịm dần trong những không gian xa lạ nơi xa xăm và cao vời vợi.
Tôi gật. Có chứ, tôi đã sẵn sàng rồi.
Bấy giờ Pablo xuất hiện nơi ngưỡng cửa; anh chàng nhạc công long lanh nhìn chúng tôi bằng đôi mắt tươi vui; đôi mắt ấy đúng ra phải là mắt thú, nhưng mắt thú luôn nghiêm trọng, còn mắt anh luôn mỉm cười và chính nụ cười ấy biến chúng thành mắt người. Anh vẫy chúng tôi với tất cả niềm nở nồng nhiệt. Anh khoác một chiếc vét, loại mặc trong nhà, bằng lụa sặc sỡ, cổ sơ mi đẫm mồ hôi ỉu xìu, khuôn mặt bơ phờ nhợt nhạt và tiều tụy hiện rõ khác thường trên ve áo khoác màu đỏ, nhưng đôi mắt đen nháy rạng rỡ của anh đã xáo tan ấn tượng này. Chúng cũng xóa luôn thực tại, cả chúng cũng có ma thuật,
Chúng tôi đi theo cái vẫy của anh; tới dưới cửa anh nói khẽ với tôi: "Ông anh Harry này, tôi mời ông anh dự một buổi tiêu khiển nho nhỏ. Chỉ những người điên mới được vào, trả bằng lý trí. Ông anh sẵn sàng chứ?" Tôi lại gật đầu.
Anh chàng này thật là thân ái! Anh dịu dàng và ân cần nắm cánh tay chúng tôi, Hermine bên phải, tôi bên trái, dẫn lên cầu thang vào một căn phòng nhỏ hình tròn có ánh sáng xanh xanh từ trên cao rọi xuống; căn phòng hầu như trống trơ, chẳng có gì khác ngoài một cái bàn tròn nhỏ và ba chiếc ghế bành mà chúng tôi ngồi.
Chúng tôi đang ở đâu? Tôi đang ngủ chăng? Tôi đang ở nhà chăng? Tôi đang ngồi lái xe chăng? Không, tôi đang ngồi trong căn phòng hình tròn có ánh sáng xanh xanh, trong một bầu không khí pha loãng, trong một lớp thực tại đã trở thành rất không kín. Sao Hermine lại xanh xao thế kia? Sao Pablo lại nói nhiều thế nhỉ? Không phải chính tôi đã khiến anh ta nói, chính tôi nói bằng miệng của anh ta ư? Không phải chỉ là tâm hồn tôi, con chim lạc lõng, cũng đang ngắm nhìn mình từ đôi mắt đen của anh ta, giống như đã nhìn từ đôi mắt xám của Hermine ư?
Anh bạn Pablo nhìn chúng tôi với tất cả sự thân ái hiền hậu lẫn hơi trịnh trọng và anh nói, nhiều và dài. Anh, người mà tôi chưa hề nghe nói năng mạc lạc, người không quan tâm đến tranh luận và các diễn đạt, người mà tôi không tin có nổi một suy nghĩ, giờ đây đang lên tiếng, trôi chảy và không sai sót với giọng nói ấm và hồn hậu.
"Các bạn, tôi mời các bạn tới dự một buổi tọa đàm mà từ lâu Harry hằng ao ước và mơ thấy. Cũng hơi muộn rồi và hẳn là tất cả chúng ta đều đã khá mệt. Thành thử trước hết chúng ta hãy ngồi đây nghỉ ngơi và giải lao một chút."
Anh lôi từ một hốc tường ba ly thủy tinh con và một chai nhỏ ngộ nghĩnh, một chiếc hộp con kỳ lạ bằng nhiều thứ gỗ màu, rót đầy ba ly rồi lấy từ hộp ba điếu thuốc dài, mảnh dẻ màu vàng, rút bật lửa từ túi áo vét lụa châm cho chúng tôi. Chúng tôi ngả người trên ghế bành, chậm rãi hút, khói đặc tựa khói nhang, và từ tốn nhấp từng ngụm nhỏ thứ chất lỏng ngọt hăng, mùi vị lạ lùng chưa từng biết; nó quả đã có tác dụng hồi sức và làm mê mẩn khôn xiết, cứ như ta được bơm đầy hơi và mất hết trọng lượng. Chúng tôi ngồi như thế, rít từng hơi ngắn, nghỉ ngơi, nhấp chất lỏng kia, cảm thấy nhẹ tênh và thư thái. Đồng thời Pablo hạ thấp giọng nói ấm áp của anh:
"Ông anh Harry thân mến, hôm nay tôi vui mừng được khoản đãi ông anh chút ít. Ông anh đã thường cảm thấy chán ngán đời sống của mình, ông anh đã ra sức từ bỏ chốn này, phải không ạ? Ông anh khao khát rời bỏ thời gian này, thế giới này, thực tại này và đi vào một thực tại khác thích hợp hơn với ông anh, đi vào một thế giới phi thời gian. Ông anh thân mến, hãy cứ làm đi, tôi yêu cầu ông anh đấy. Ông anh biết thừa cái thế giới khác ấy nằm ẩn ở nơi nào, cái thế giới mà ông anh đang tìm kiếm ấy là thế giới của chính tâm hồn ông anh. Cái thực tại khác mà ông anh đang khao khát ấy chỉ sống trong nội tâm của chính ông anh thôi. Tôi không thể tặng ông anh những gì chưa hiện hữu sẵn trong chính ông anh, tôi không thể mở cho ông anh phòng trưng bày tranh nào khác phòng trưng bày tranh của tâm hồn ông anh. Tôi không thể tặng ông anh gì hết thảy, ngoài cơ hội, sự kích thích, chìa khóa. Tôi giúp ông anh thấy được thế giới riêng của ông anh, chỉ có thế thôi."
Anh lại thọc tay vào túi áo vét lòe loẹt, rút ra một chiếc gương tròn.
"Ông anh xem: cho đến nay ông anh thấy mình như thế này đây!"
Anh đưa chiếc gương con lên trước mắt tôi (tôi chợ nhớ câu đồng dao: "Gương con, gương con trong tay ơi!"[5]) và tôi thấy, mờ ảo, một hình ảnh đáng kinh hãi tự chuyển dịch, hối hả và lồng lộn trong chính nó: đó chính là tôi, Harry Haller, và bên trong Harry nà là Sói Thảo Nguyên, một con sói nhút nhát, đẹp mã, nhưng lạc đường, ánh mắt khiếp sợ, lúc hung dữ, lúc âm ỉ buồn và hình hài sói này không ngừng chuyển động qua Harry, tựa một nhánh sông khác màu cuồn cuộn đổ mù mịt vào dòng sông chính, rồi chúng đau khổ, cắn xé nhau vì dòng sông nào cũng đầy ắp thứ tham vọng không thỏa mãn nổi, đó là giành quyền tạo nên diện mạo chung cuộc. Đôi mắt đẹp nhút nhát của con sói mới định hình được một nửa và đang chuyển dịch kia buồn bã, buồn bã nhìn tôi.
"Ông anh đã nhìn thấy chính mình như thế đấy," Pablo dịu dàng lặp lại và cất gưong vào túi. Lòng đầy biết ơn, tôi nhắm mắt, nhấp rượu tiên.
"Bây giờ chúng ta đã nghỉ ngơi xong," Pablo nói, "đã bồi dưỡng và trò chuyện chút ít. Nếu các bạn không còn mệt nữa, tôi sẽ đưa các bạn tới chỗ trình diễn và chỉ cho các bạn thấy hí viện nhỏ bé của tôi. Các bạn đồng ý chứ?"
Chúng tôi đứng dậy, Pablo mỉm cười đi tới trước, mở một cái cửa, kéo qua bên một tấm màn và chúng tôi thấy mình đứng trong hành lang hình móng ngựa, chính giữa một hí viện, hai bên có lối đi uốn cong dẫn qua trước vô số cửa nhỏ vào các ngăn lô, nhiều không tưởng tượng nổi.
"Đây là hí viện của chúng ta," Pablo giải thích "một hí viện vui nhộn, hy vọng các bạn sẽ thấy được đủ mọi trò cười." Vừa nói anh vừa cười phá lên chỉ vài tiếng thôi, nhưng nó xuyên thấu tôi mãnh liệt; đó lại vẫn là tiếng cười trong trẻo, lạ lùng mà tôi từng nghe thấy trước đây từ trên cao.
"Tiểu hí viện của tôi có bao nhiêu cửa vào các ngăn lô, mười hay một trăm hay một nghìn, tùy các bạn muốn, và điều các bạn đang tìm kiếm chờ đợi các bạn sau mỗi cửa ấy. Các bạn thân mến, đây là một phòng trưng bày thú vị, nhưng như tình trạng ông anh bây giờ thì đi khắp mọi nơi chẳng ích lợi gì. Ông anh sẽ bị mù quáng và kìm hãm bởi cái mà ông anh quen gọi là nhân cách của mình. Chắc chắn ông anh đã đoán được từ lâu rằng việc khuất phục thời gian, việc giải thoát khỏi thực tại và nỗi khao khát, mà ông anh muốn gắn cho nó tên gì cũng được, không là gì khác hơn sự mong muốn trút bỏ cái gọi là nhân cách của ông anh. Nhân cách đó chính là nhà tù giam hãm ông anh đấy. Nên nếu ông anh cứ như thế này bước vào hí viện thì ông anh sẽ nhìn mọi sự với đôi mắt của Harry, mọi sự qua cập kính cũ của Sói Thảo Nguyên. Thành ra yêu cầu ông anh hãy gỡ bỏ cặp kính này và vui lòng gửi nhân cách rất mực tôn quý ấy ở quầy giữ quần áo; ông anh muốn có lại nó bất cứ lúc nào cũng được. Buổi dạ vũ thú vị ông anh đã trải qua, bản Luận thuyết về Sói Thảo Nguyên, sau hết là chút chất kích thích mà chúng ta vừa chia sẻ, mong rằng đã chuẩn bị đủ cho ông anh rồi. Ông anh Harry, sau khi đã gỡ bỏ nhân cách tôn quý của mình thì mời ông anh sử dụng phần bên trái hí viện, còn Hermine phần bên phải. Vào trong rồi thì các bạn có thể tha hồ gặp nhau. Hermine, tạm thời cô vui lòng vào khuất sau tấm màn, tôi muốn hướng dẫn Harry trước đã."
Hermine đi qua một tấm gương khổng lồ che kín bức tường sau từ sàn tới vòm trần, biến vào phía bên phải.
"Harry, thế là xong, bây giờ mời ông anh tới đây và nhớ vui lên nhiều lên nhé. Mục đích lần tổ chức này là để làm cho ông anh vui, để dạy ông anh cười - hy vọng ông anh tạo thuận lợi cho tôi trong chuyện này. Ông anh thấy thoải mái chứ? Có à? Ông anh không sợ hãi chứ? Thế là tốt, rất tốt. Bây giờ ông anh sẽ không sợ hãi mà rất mực hân hoan bước vào thế giới tưởng tượng của chúng ta, bằng cách tự mở đầu với một màn tự sát giả tưởng nho nhỏ, như tập quán đòi hỏi."
Anh lại móc chiếc gương con, chìa ra trước mặt tôi: Harry lại đang nhìn tôi - một Harry bối rối, lờ mờ, bên trong có hình dạng con sói đang lồng lộn chui qua hắn - một hình ảnh rất quen thuộc và đúng là không thiện cảm, thành ra nếu nó bị hủy diệt thì cũng chẳng khiến tôi lo ngại gì.
"Ông bạn thân mến, bây giờ ông bạn phải xóa sạch cái hình ảnh phản chiếu đã trở thành không cần thiết này, chứ chẳng cần làm gì nhiều nhặn hơn. Ông bạn chỉ cần, nếu tâm trạng mình cho phép, quan sát hình ảnh này với một nụ cười chân thật. Ông bạn đang ở đây, trong một ngôi trường dạy hài hước, ông bạn nên học cười. Mọi khôi hài cao quý đôi chút đều bắt đầu bằng việc không coi bản thân mình là quan trọng nữa."
Tôi đăm đăm nhìn vào tấm gương con, tấm gươn con trong tay, trong đó con sói - Harry dăng co giật. Trong tôi, sâu thẳm trong tôi, cũng co giật một khoảnh khắc, nhẹ thôi, nhưng dằn vặt, tựa niềm hoài vọng, tựa nổi nhớ quê hương, tựa sự ân hận. Rồi sự ức chế nhẹ nhàng này nhường chỗ cho một cảm giác mới, tương tự cảm giác khi ta được nhổ chiếc răng sâu khỏi hàm răng đã được gây tê bằng cocain, cảm giác được thở phào nhẹ nhõm, đồng thời sửng sốt vì chẳng thấy đau đớn gì, Cùng với cảm giác này là một tâm trạng hưng phấn và muốn phì cười mới mẻ, khiến tôi rộ lên một tiếng cười giải thoát.
Hình ảnh buồn rầu trong gương lóe lên rồi tắt ngấm, mặt tấm gương tròn nhỏ đột nhiên trở nên xám xịt, sần sùi và mờ đục như bị thiêu đốt. Pablo cười quẳng tấm gương đi, nó lăn trên sàn hành lang hun hút rồi biến mất dạng.
"Bạn cười hay lắm, Harry ạ," Pablo nói, "bạn sẽ còn học cười như những người bất tử nữa, Thế là cuối cùng bạn đã giết được Sói Thảo Nguyên rồi. Không thể giết nó bằng dao cạo được đâu. Nhớ phải để cho nó chết nhé! Bạn sẽ có thể rời khỏi cái thực tại ngớ ngẩn này ngay thôi. Lần tới gặp nhau mình sẽ cạn chén kết nghĩa đệ huynh. Bạn thân mến ơi, chưa bao giờ bạn làm tôi hài lòng như hôm nay. Và nếu bạn thấy bõ công thì chúng ta có thể cùng nhau triết lý và mạn đàm về Mozart, Gluck, Plato và Goethe nhiều như bạn muốn. Bây giờ bạn sẽ hiểu tại sao trước đây việc này không thể thực hiện được. Hy vọng bạn gặp may và hôm nay dứt khỏi con Sói Thảo Nguyên. Vì dĩ nhiên cuộc tự sát của bạn không phải là triệt để; chúng ta đang ở trong một hí viện ma thuật mà, ở đây chỉ có hình ảnh thôi, không có thực tại. Bạn hãy chọn cho mình những hình ảnh xinh đẹp vui tươi và chứng tỏ bạn thật sự không còn say mê cái nhân cách đáng ngờ của mình nữa! Tuy nhiên, nếu bạn thèm khát có lại nó, bạn chỉ cần nhìn vào tấm gương mà tôi sắp chỉ cho bạn. Nhưng bạn biết câu ngạn ngữ cổ này mà: "Thà một tấm gương con trong tay còn hơn hai tấm trên tường!" Ha ha! (Anh lại cười thật trong trẻo và đáng sợ) - Đấy, bây giờ chỉ còn phải hoàn thành một lễ nghi rất nhỏ và vui nhộn thôi. Bạn đã vất bỏ cặp kính nhân cách của mình rồi, bây giờ mời bạn lại đây nhìn vào một tấm gương đích thực! Nó sẽ khiến bạn thích thú."
Anh vừa cười, vừa làm những mơn trớn kỳ cục vừa xoay tôi đứng đối diện tấm gương khổng lồ trên tường. Tôi nhìn thấy mình trong đó.
Tôi thấy, trong một thoáng ngắn ngủi, gã Harry quen thuộc, chỉ khác là với khuôn mặt tươi cười, rạng rỡ, vui vẻ khác thường. Nhưng tôi vừa mới nhận ra hắn thì hình ảnh hắn đã vỡ vụn, một hình thứ hai tách khỏi hắn, hình thứ ba, thứ mười, thứ hai mươi và rồi tấm gương không lồ đầy những Harry hay những mảnh Harry, vô số Harry, mà mỗi cái tôi đều chỉ nhìn qua và nhận ra trong chớp nhoáng. Vài cái trong vô vàn hình ảnh Harry này cũng cỡ tuổi tôi, một số gài hơn, một số già khú đế, số khác trẻ măng, những thanh niên, những thiếu niên, những học trò, những nhóc con, những đứa bé. Những Harry năm mươi tuổi và hai mươi tuổi chạy nhảy tung tăng, những Harry ba mươi tuổi và năm tuổi, đạo mạ và vui nhộn, nghiêm trang và buồn cười, áo quần lịch sự và rách rưới, có cả trần truồng, hói trọc và tóc quăn dài, và tất cả đều là tôi; mỗi hình ảnh ấy đều được tôi nhìn và nhận ra nhanh như chớp, rồi biến mất, chúng chạy tứ tung, sang trái, sáng phải, vào sâu trong tấm gương, từ trong gương chạy ra. Một gã, một chàng trai trẻ trung thanh lịch, vừa cười vừa nhảy bổ vào Pablo, ôm choàng anh rồi cùng anh bỏ chạy. Và một cậu mà tôi đặc biệt thích, một cậu xinh xắn, duyên dáng, khoảng mười sáu hay mười bảy tuổi, chạy ào như chớp vào hành lang, đọc ngấu nghiến những câu viết trên mọi cánh cửa; tôi chạy theo; cậu dừng lại trước một cánh cửa, trên đó tôi đọc thấy dòng chữ
Mọi đàn bàm con gái đều là của bạn
Bỏ một đồng mark vào khe
Cậu bé dễ thương này nhảy phóc lên một cái, chui tọt đầu vào khe bỏ tiền rồi mất dạng sau cánh cửa.
Cả Pablo cũng biến mất, dường như cả tấm gương cũng biến mất luôn cùng với vô số hình ảnh Harry. Tôi cảm thấy giờ đây bị phó mặc cho chính mình cùng với hí viện, nên tò mò lân la hết cửa này sang cửa khác, đọc trên mỗi cánh cửa một câu viết, một cám dỗ, một lời hứa hẹn.
Hàng chữ:
Hãy tham dự cuộc săn thú vị!
Săn bằng ô tô
đã cám dỗ tôi. Tôi mở cánh cửa hẹp và bước vào. tức thì tôi bị cuốn vào một thế giới ồn ào và kích động. Những chiếc ô tô, có cái bọc thép, săn đuổi khách bộ hành trên đường phố, cán họ nát như tương hoặc ép bẹp gí vào những tường nhà. Tôi hiểu ngay: đó là cuộc chiến đấu giữa con người và máy móc, được chuẩn bị từ lâu, chờ đợi từ lâu, lo sợ từ lâu, nay cuối cùng đã bùng nổ. Ngổn ngang xác chết và những thây người nát bét, cả xác những chiếc xe bị đập phá, cong quep, cháy nham nhở; máy bay lượn vòng trên khung cảnh lộn xộn đáng sợ này, ngay cả chúng cũng bị súng săn và súng máy nã đạn từ những mái nhà và cửa sổ. Những tấm bích chương tuyệt đẹp đầy kích động tựa ngọn đuốc hừng hực, chữ thật to, treo cùng khắp mọi bức tường kêu gọi Nhà nước cuối cùng hãy bảo vệ con người chống lại máy móc, hãy đập chết bọn nhà giàu phì nộn, ăn mặc bảnh bao, thơm nức, bọn đã dùng máy móc vắt kiệt mỡ người khá, hãy phá tan những chiếc ô tô to ồn ào, gầm gừ, rền rĩ dữ dội của chúng, hãy đốt nhà máy của chúng, hãy don quang Trái Đất bị ô uế này và làm giảm số dân để cây cối lại mọc, để rừng rậm, bãi cỏ, đồng hoang, suối lạch và đầm lầy có thể tái sinh từ cái thế giới xi măng bụi bặm. Ngược lại, có những bích chương khác được vẽ thật đẹp, cách điệu hóa tuyệt vời, màu dịu, ít ngây ngô hơn, mang những hàng chữ thông minh ý nhị, cảnh báo một cách xúc động mọi kẻ sở hữu và mọi người có lý trí trước sự hỗn loạn có thể xảy ra của tình trạng vô chính phủ; chúng minh họa thật ấn tượng rằng có được trật tự, việc làm, sở hữu, văn hóa, pháp luật là cả một sự may mắn; chúng ca ngợi máy móc là phát minh mới nhất và cao siêu nhất của con người, nhờ máy móc mà con người sẽ trở thành thần thánh. Tôi trầm ngâm và thán phục đọc những tấm bích chương, những tấm màu đỏ và những tấm màu lục; giọng điệu hùng biện sôi nổi, logic áp chế của chúng cực kỳ tác động lên tôi: chúng có lý và tôi rất được thuyết phục lúc đứng trước tấm này hay tấm khác, nhưng cứ bị tiếng súng liên hồi khá giòn giã chung quanh quấy rầy không ít. Thế đấy, vấn đề chính đã sáng tỏ: đó là chiến tranh, một cuộc chiến tranh khốc liệt, cuồng nhiệt và hết sức khả ái, không phải vì Hoàng đế, nền Cộng hòa, biên cương, cờ quạt, màu sắc cùng những thứ bề ngoài và kệch cỡm, cơ bản vặt vãnh tương tự, mà một cuộc chiến trong đó ai thấy thiếu không khí để thở, thấy cuộc sống không còn thích hợp nữa, đều biểu lộ xác đáng sự bực bội của mình và nỗ lực dọn đường cho sự hủy diệt toàn thể cái văn minh bằng sắt thép này. Tôi thấy mọi đôi mắt đều rạng rỡ và chân thành toát ra vẻ thích thú được phá hủy, giết chóc; trong lòng tôi bừng nở những bông hoa dại đỏ, cao lớn, mập mạp và mơn mởn tười cười. Tôi vui vẻ tham gia chiến đấu.
Nhưng điều tuyệt vời hơn cả là Gustav, người bạn học tôi không gặp đã mấy chục năm nay, đột nhiên xuất hiện bên cạnh tôi; anh là người hiếu động nhất, khỏe nhất và liều lĩnh nhất trong số các bạn thời niên thiếu của tôi. Tim tôi rộn rã vui khi thấy anh lại nheo đôi mắt màu xanh nhạt với tôi. Anh vẫy và tôi hớn hở theo liền.
"Trời đất ơi, Gustav," tôi sung sướng kêu lên, "thế là lại được gặp cậu! Cậu đã trở thành ông gì rồi?"
Anh cười gằn, y như hồi nhỏ.
"Cái thằng! Cứ phải hỏi và tán dóc ngay à? Tớ trở thành giáo sư thần học rồi; đấy, nay cậu biết rồi nhé; nhưng may phước bây giờ không còn môn thần học nào nữa, mà chiến tranh. Nào!"
Anh bắn gục xuống đường người lái một chiếc xe con vừa mới phì phò chạy về phía chúng tôi; rồi vọt nhanh như vượn lên xe, phanh lại cho tôi đoạn chúng tôi phóng như điên qua những lằn và nhũng chiếc xe lật nhào, ra khỏi thành phố, về vùng ngoại ô.
"Cậu theo phe bọn chủ xí nghiệp à?" tôi hỏi bạn tôi.
"Chà chà, đó là vấn đề sở thích, ra tới ngoài kia mình sẽ tính. Ấy không, khoan đã, tớ lại muốn mình chọn phe kia hơn, dù về cơ bản đương nhiên như nhau thôi. Tớ là nhà thần học và ngày xưa tổ sư Luther[6] của tớ đã giúp đám vương hầu và bọn nhà giàu chống lại nông dân, bây giờ mình hãy sửa sai một chút. Xe này cà chớn quá, hy vọng nó chạy nổi vài cây số nữa!"
Như đứa con của trời cao, nhanh như gió, xe chúng tôi lọc cọc vọt đi nhiều dặm, lăn vào một vùng quê xanh mướt yên tĩnh, qua một bình nguyên rộng lớn rồi từ từ leo lên một rặng núi khổng lồ. Nơi đây chúng tôi dừng xe trên một con đường nhẵn nhụi, sáng loáng với những khúc quanh hiểm trở vòng vèo giữa sườn đá dốc đứng và một bức tường chắn thấp tè. Dưới kia là một hồ nước xanh lấp lánh.
"Vùng này đẹp thật," tôi nói.
"Rất đẹp. Mình có thể gọi nó là 'con đường của những trục xe' được, vì sẽ có nhiều loại trục xe bị gãy ở đây. Nhóc Harry, xem này!"
Một cây thông to sừng sững bên đường; chúng tôi thấy trên tán cây có thứ gì dựng bằng ván, như thể một chòi canh và chỗ quan sát. Gustav cười rạng rỡ nhìn tôi, ranh mãnh nháy đôi mắt xanh và hai chúng tôi vội vã ra khỏi xe, leo phóc lên cây, thở hổn hển náu minh trong cái chòi canh mà chúng tôi rất thích. Chúng tôi tìm thấy trong đó súng săn, súng lục và những thùng đạn. Chúng tôi vừa mới nghỉ ngơi được một tí và chuẩn bị cho cuộc s8n bắn thì đã nghe vang lên từ khúc quanh gần nhất tiếng còi khàn khàn và hống hách của một chiếc xe to sang trọng đang phóng ào ào trên con đường núi bóng loáng. Tay chúng tôi đã nâng sẵn súng săn. Căng thẳng tuyệt vời.
"Nhắm gã tài xế!" Gustav nhanh chóng ra lệnh, vừa lúc chiếc xe nặng nề chạy qua phí dưới chúng tôi. Tôi nhắm vào gã lái xe đội mũ lưỡi trai màu xanh và bóp cò. Người đàn ông ấy gục xuống, chiếc xe sẵn đã phóng tới, húc vào sườn đá, dội lại, giận dữ tông mạnh vào bờ tường thấp tựa một con tôm hùm to béo, lật ngược rồi lăn qua bức tường, rơi xuống vực với một tiếng nổ ngắn khe khẽ.
"Xong!" Gustav cười. "Tớ sẽ thầu tay tài xế chiếc xe tới."
Chưa gì đã thêm một chiếc xe khác chạy tới với ba hoặc bốn hành khác ngồi trong nhỏ thó trên ghế nệm; một chéo khăn màu xanh nhạt trên đầu người thiếu phụ bay thẳng tắp ra saul quả thật tôi thấy thương hại nó, biết đâu nó chẳng đang được ôm ấp khuôn mặt tươi cười kiều diễm nhất thế gian. Chúa ơi, một khi đã chơi trò thảo khấu, chúng tôi nên noi theo những tấm gương vĩ đại, không háo sát đối với đàn bà, con gái đẹp thì có lẽ đúng đắn và đáng khen hơn. Nhưng Gustav đã lấy cò. Người tài xế giãy lên rồi gục xuống, chiếc xe chồm lên vách đá thẳng đứng, dội lại, lật nhào xuống đường, chổng bốn bánh lên trời. Chúng tôi chờ, chẳng thấy gì nhúc nhích, mọi hành khách nằm im lìm dưới chiếc xe như trong một cáí bẫy. Nó vẫn còn kêu rì rì, lạch cạch, bốn bánh quay kỳ dị trong không khí; đột nhiên nó phát nổ dữ dội và bốc lửa sáng lóa.
"Một chiếc Ford," Gustav nói. "Mình phải chạy xuống đấy, dọn cho trống đường."
Chúng tôi leo xuống ngắm nghía cái đống đang cháy phừng phừng. Chẳng mấy chốc nó cháy rựi. Trong lúc đó chúng tôi d&rave;n han gỉ từng dùng tấu khúc tri ân quẳng vào gương mặt đắc ý của vị thần Toại nguyện nửa dơi nửa chuột còn ngái ngủ, vì tôi thấy thà nóng bỏng vì cơn đau quặn quái quỷ trong ruột gan còn hơn phải chịu đựng thứ nhiệt độ được điều hòa rất dễ chịu này. Thế rồi trong lòng tôi bừng bừng nỗi khao khát man dại những cảm giác mạnh, những chuyện giật gân, bừng bừng nỗi căm ghét nếp sống không sinh khí, nhạt nhẽo, khuôn phép, cằn cỗi này, và tiếp đó là cơn điên cuồng ham muốn đập phá tan hoang gì đấy, chẳng hạn một siêu thị, một ngôi giáo đường hoặc chính tôi, muốn làm những chuyện ngu xuẩn ngông cuồng, chẳng hạn giật phăng mái tóc giả của vài thần tượng đang được suy tôn, cung cấp cho dăm ba chú nhóc học sinh nổi loạn những tấm vé đi Hamburg mà chúng khao khát, dụ dỗ một cô bé hoặc vặn cổ vài kẻ đại diện cho thứ trật tự của thế giới trưởng giả. Vì điều tôi thù ghét, kinh tởm và nguyền rủa một cách sâu sắc nhất trong tất cả mọi thứ là: tâm trạng mãn nguyện này, thế chất này, cuộc sống tiện nghi thoải mái, thói lạc quan được duy trì của giới thị dân, việc chăm chút vun bồi để những gì xoàng xĩnh, bình thường, ở mức trung bình được phát triển tràn lan.
Tôi kết thúc cái ngày tầm thường tàm tạm này trong tâm trạng như thế khi bóng đêm vừa xuống. Tôi không kết thúc nó theo cách bình thường và thoải mái cho một người hứng chịu đôi chút khổ đau bằng cách chui tọt vào chiếc giường có sẵn túi chườm nước nóng như một thứ mồi đang chờ đợi, mà bằng cách chán ngán và ghê tởm trước kết quả nhỏ nhoi của cả một ngày lao tâm khổ tứ, bực bội xỏ giày, khoác măng tô, đi vào phố bóng đên và sương mù, tới quán Mũ Sắt uống thứ mà dân nhậu gọi là “một ly vang nhỏ” theo tập quán xưa.
Thế là tôi từ căn phòng trên gác xép bước xuống cầu thang, những bậc thang khó leo của cái thế giới xa lạ, những bậc thang được lau chùi sạch sẽ, hoàn toàn theo kiểu cách trưởng giả của một ngôi nhà gồm ba hộ trông bề thế, mà trên tầng sát mái là nơi ẩn dật của tôi. Tôi không rõ sao lại như thế, nhưng tôi, con sói thảo nguyên sống tha hương và là một con người cô độc, một kẻ thù ghét cái thế giới tiểu tư sản, lại sống trong những ngôi nhà của tầng lớp trưởng giả chính cống, đó là một thoái đa cảm thâm căn cố đế của tôi. Tôi không sống trong các lâu đài hoặc những ngôi nhà của lớp người cùng khổ, mà chỉ toàn trong những cái ổ tiểu tư sản rất mực đàng hoàng, rất mực nhàm chán, chăm chút không chê vào đâu được, nơi thoảng mùi dầu nhựa thông với chút xà phòng, và sẽ giật mình nếu lỡ để cửa sập quá mạnh vào ổ khóa hoặc đi giầy bẩn vào nhà. Hiển nhiên tôi yêu bầu không khí này từ thời thơ ấu và nỗi khát khao thầm kín của tôi về thứ gì như thế quê hương toàn đưa đẩy tôi ngớ ngẩn tìm về những lối cũ đường xưa, không cưỡng lại được. Ấy, mà tôi cũng thích sự tương phản giữa cuộc sống của tôi – thiếu vắng tình cảm và căng thẳng nội tâm, một cuộc sống hoàn toàn vô trật tự - với cái môi trường trưởng giả và lấy gia đình làm trọng ấy. Tôi thích ngồi trên bậc thang hít thở cái mùi toát ra từ một thế giới yên ắng, ngăn nắp, sạch sẽ, tử tế và thuần tính; mặc dù tôi ghét sự trưởng giả, nhưng cái mùi này luôn phảng phất chút gì khiến tôi xúc động, và tôi thích sau đó bước qua ngưỡng cửa phòng mình, nơi không còn mọi thứ kia nữa, nơi những mẩu thuốc lá và những vỏ chai vang nằm lăn lóc giữa các chồng sách, nơi mọi thức đều bừa bộn, lạc lõng, không được ngó ngàng, và nơi mọi thứ - sách vở, bản thảo, những ý tưởng – đều ghi dấu và nói lên tâm trạng cùng quẫn của những kẻ cô đơn, về toàn bộ vấn đề đặt ra cho cuộc sống con người, niềm mong mỏi tìm được một ý nghĩa mới cho kiếp nhân sinh nay đã trở thành vô nghĩa.
Thế rồi tôi đi qua chỗ để cây bách tán. Nói cho chính xác thì nơi tầng một ngôi nhà này, cầu thang dẫn qua khoảnh hàng lang trước một căn hộ còn được lai chùi sạch sẽ hơn những căn hộ khác, chắc chắn thế, sạch sẽ hơn những căn hộ khác, chắc chắn thế, sạch sẽ không chê được, vì khoảnh hàng làn này toát lên một sự chăm chút phải nói là quá sức con người, nó là một ngôi đền nhỏ bé tỏa sách của sự ngăn nắp. Trên tấm sàn lát gỗ, mà người ta ngần ngại khi bước chân lên, có đặt hai cái bục xinh xinh, trên mỗi bục có một chậu cây to, một chậu đỗ quyên, chậu kia trồng cây bách tán khá lớn, non khỏe, cứng cáp, tuyệt vời hoàn hảo, ngay cả chiếc là hình kim cuối cùng trên cái cành cao nhất cũng ánh lên sự lau chùi thường xuyên. Đôi khi, biết không ai để ý, tôi vẫn dùng nơi này như mộ ngôi đền, tôi ngồi nghỉ chôc slats ở một bậc thang phía trên cây bách tán, chắp hai tay, trầm mặc nhìn xuống khoảnh vườn nhỏ của sự ngăn nắp được chăm chút đến mức làm nao lòng và khôi hài hiếm thấy khiến tâm hồn tôi chừng như xúc động. Tôi đoán rằng sua khoảnh hàng lang này, có thể gọi là trong bóng mát thiêng liêng của cây bách tán, có một căn hộ đầy bàn ghế bằng gỗ gụ sáng bóng và một nếp sống tử tế, mọi người biết chăm lo sức khỏe, dậy sớm, chu toàn bổn phận, những buổi họp mặt gia đình nhộn nhịp nhưng chừng mực, mỗi Chủ Nhật đều đi lễ nhà thờ và tối tối đi ngủ. 
Làm ra vẻ tươi tỉnh, tôi bước đi trên mặt nhựa ẩm ướt của những con đường hẹp, những ngọn đền đường như ứa lệ và quấn khăn tang, phát ra những quần sáng nhòe nhoẹt xuyên qua làn không khí ẩm đục, lạnh lẽo, và hút vào thứ ánh sáng lờ đờ hắt lên từ mặt đường ướt át. Tôi chợt nhớ lại những năm tháng đã lãng quên thời trẻ - hồi ấy tôi từng yêu những buổi chiều ảm đạm và tối tăm vào cuối thui và suốt mùa đông như thế nào, tôi đã tham lam, mê mẩn thu hết vào tâm khảm toàn bộ ấn tượng về nỗi cô đơn và hội chứng u sầu, khi trùm chiếc măng tô, lang thang suốt nửa đêm, rảo bước qua vùng cây trụi lá trong mưa bão đầy đe dạo, ngày ấy tôi đã cô đơn rồi, nhưng lòng tột cùng thống khoái và trong đầy đầy những vần thơ, để rồi sau đó ngồi trên mép gường trong phòng mình, viết ra dưới ánh nến lung linh! Chà, chuyện ấy đã qua rồi, chén rượu kia đã uống cạn rồi và không có ai rót tiếp cho tôi nữa. Đáng tiếc chăng? Không đáng tiếc. Chẳng có lý do gì phải nuối tiếc những chuyện đã qua. Chỉ nên tiếc cho hiện tại và hôm nay, tiếc tất cả những giờ phút và tháng ngày tôi đã mất, nhiều vô kể; tôi mất vì phải trải qua những ngày giờ đó mà chẳng nhận thức điều gì mới hoặc không có sự cố nào làm tôi rung động tâm can. Nhưng đội ơn Chúa, cũng có những ngoại lệ; đôi khi, hiếm hoi thôi, có những giờ phút khác mang đến những rung động, mang đến những nhận thức mới, kéo sập những bức tường và đưa tôi, kẻ lạc đường, trở lại với trung tâm sinh động của thế gian. Buồn rầu nhưng trong tâm khảm tràn đầy khích lệ, tôi cố gắng nhớ lại biến cố cuối cùng thuộc loại này. Đó là tại một buổi hòa tấu, trình diễn loại âm nhạc cổ điển tuyệt vời, lúc ấy đang giữa hai nhịp của một nhạc khúc được các nhạc công sáo và kèn gỗ tấu lên nhẹ nhàng, thanh thoát, đột nhiên cánh cửa dẫn sang thế giới bên kia mở ra cho tôi, tôi bay lượn vòng khắp thiên đường và được mục kích Đức Chúa Trời đang làm công việc xây thế giới, tôi đau nỗi đau thần thánh và không chống cự lại gì nữa trên cõi nhân gian, không còn thấy sợ hãi điều gì nữa nơi trần thế, tôi đồng ý chấp nhận mọi chuyện, dâng hiến tim mình cho tất cả. Sự kiện này kéo dài không lâu, khoảng mười lăm phút thôi, nhưng đêm hôm ấy nó lại trở về trong giấc mơ, rồi từ đấy, vào những ngày lê thê, buồn tẻ, thỉnh thoảng tia sáng đó lại âm thầm lóe lên, đôi khi tôi thấy nó đi qua đời mình hàng phút rõ rệt như một dấu vết linh thiêng bằng vàng, hầu như luôn bị vùi sâu dưới bụi bặm và bùn nhơ, rồi lại lóe lên những tia óng ánh vàng, chừng như chẳng bao giờ tắt được, thế mà chỉ lát sau lại đã mất tăm. Có lần chuyện xảy ra giữa canh khuya, đang nằm thao thức chợt tôi thốt ra những vần thơ, nhưng vần thơ tuyệt hay và kỳ diệu, khiến tôi không dám nghĩ đến chuyện viết ra, sáng hôm sau tôi chẳng còn nhớ gì nữa, những thật ra chúng vẫn còn đâu đấy trong tôi như hạt hồ đào nặng trĩu nằm trong lớp vỏ khô giòn nứt nẻ. Lần khác tia sáng đến lúc tôi đang đọc một nhà thơ, đang suy ngẫm về một tư tưởng của Descartes, của Pascal (2), lần khác nữa nó lại tỏa sáng, rồi vạch một vệt bằng vàng lên trời cao, trong lúc tôi đang ở bênh cạnh người yêu dấu của mình. Chao ôi, thật khó tìm ra dấu tích thần thánh ấy ngay giữa thời đại mà con người sống quá mãn nguyện, qua ư trưởng giả, quá ư tẻ nhạt về mặt tinh thần này; ta cứ nhìn những kiểu kiến trúc, những cung cách làm ăn kinh doanh, những đường lối chính sách và những con người này thì thấy! Ngay giữa một thế giới mà không một mục tiêu nào của nó tôi chia sẻ được, không một niềm vui nào của nó phản ánh niềm vui của tôi, hỏi làm sao tôi không trở thành một con sói thảo nguyên, lỗ một kẻ ẩn cư thô lỗ được chứ. Tôi không thể nào ngồi lâu trong một nhà hát hay rạp chiếu phim, hầu như không đọc nổi một tờ báo nào, hiếm khi đọc một quyển sách thịnh hành, tôi không thể hiêu được người ra tìm hứng thú và niềm vui gì trong những toa xe lửa và khách sạn đầy nhóc, trong những quán cà phê đông nghẹt giữa tiếng nhạc ngột ngạt gây khó chiu, trong các quán rượu và ca vũ trường của những thành phố xa hoa, ở những cuộc triển lãm quốc tế, tại các đám rước, trong các buổi thuyết trình cho những kẻ ham học hỏi, trên các sân vận động lớn – tôi không thể hiểu và chia sẻ tất cả những thú vui mà cả nghìn người khác cố công đeo đuổi này, dù tôi có thể đạugrave;ng cây con làm đòn, bẩy nó sang một bên rồi qua vệ đường xuống vực, lát sau vẫn còn nghe tiếng các bụi cây gãy răng rắc. Lúc xe lăn, hai trong số những người chết văng xuống đường, y phục cháy sém. Áo vét của một người còn khá nguyên vẹn; tôi lục tìm trong các túi áo vét để may ra biết được ông ta là ai, thấy một cái cặp da đựng giấy với những danh thiếp. Tôi lấy một tấm, đọc hàng chữ trên đó: "Tat twam asi."[7]
"Dí dỏm gớm" Gustav nói. "Nhưng thật ra bọn người bị mình giết tên gì cũng thế thôi. Họ đều là những con quỷ đáng thương như chúng ta, thì tên gọi nào đáng kể gì. Thế giới này phải bị phá hủy, cùng với cả chúng ta nữa. Dìm cái thế giới này xuống nước được mười phút hẳn sẽ là giải pháp nhẹ nhàng, êm ái nhất. Nào, bắt tay vào việc thôi!
Chúng tôi đẩy các xác chết xuống theo xe. Chưa gì đã lại thấy một chiếc xe nữa nhấn còi chạy tới. Chúng tôi đứng trên đường bắn ngay. Nó loạng choạng như người say rượu một đoạn nữa rồi lật nhào, nằm thở hồng hộc. Một người ngồi bất động trong xe, một thiếu nữ xinh xắn chui ra, hoàn toàn lành lặn, dù cô run lẩy bẩy và mặt mũi nhợt nhạt. Chúng tôi thân mật chào cô và ngỏ ý sẵn sàng giúp đỡ. Cô ấy quá khiếp hãi, không thốt nên lời, chỉ chòng chọc nhìn chúng tôi một lúc như bị loạn trí.
"Nào, trước hết mình xem ông già ra sao cái đã," Gustav nói rồi quay qua ông khách vẫn còn ngồi rịt trên chiếc ghế sau lưng người tài xế đã chết. Đó là một người đàn ông tóc ngắn, hoa râm, đôi mắt xám nhạt thông minh vẫn mở, song dường như đã bị thương nặng, ít nhất miệng đã ứa máu, cổ lệch đi và cứng đờ thật kỳ dị.
"Thưa ông, xin được giới thiệu tôi tên là Gustav. Chúng tôi đã tự phép bắn chết người tài xế của ông. Xin mạn phép hỏi chúng tôi hân hạnh được hầu chuyện cùng ai ạ?"
Đôi mắt nhỏ và xám của ông già lạnh lùng và buồn bã nhìn chúng tôi.
"Tôi là Loering, công tố viên tòa án phúc thẩm," ông chậm chạp nói. "Các ông không chỉ giết người tài xế đáng thương của tôi, mà cả tôi nữa; tôi cảm thấy sắp chết rồi. Vì sao các ông lại bắn chúng tôi?"
"Vì xe chạy quá nhanh."
"Chúng tôi chạy vận tốc bình thường."
"Điều ngay hôm qua là bình thường thì hôm nay không bình thường nữa, thưa ông công tố viên. Hôm nay chúng tôi quan niệm rằng mọí vận tốc mà một chiếc xe có thể chạy đều là quá nhanh. Bây giờ chúng tôi phá hủy xe ô tô, hết thảy, và cả những máy móc khác nữa."
"Cả súng săn của các ông?"
"Rồi sẽ đến lượt chúng, nếu chúng tôi còn đủ thời gian. Có thể ngày mai hay ngày kia tất cả chúng ta đều bị tiêu diệt. Ông biết rằng Trái Đất của chúng ta tràn ngập người đến mức kinh tởm mà. Đấy bây giờ nó sẽ lại có không khí để thở."
"Nghĩa là các ông bắn bừa bãi bất kỳ ai?"
"Tất nhiên. Đối với một số người thì chắc chắn điều ấy có thể là đáng phàn nàn. Chẳng hạn tôi sẽ lấy làm tiếc, nếu chuyện đó xảy ra với cô gái trẻ xinh đẹp này. Hẳn cô đây là ái nữ của ông?"
"Không, cô ấy là nữ tốc ký của tôi."
"Càng hay. Bây giờ mời ông xuống hoặc để chúng tôi kéo ra khỏi xe, vì nó sẽ bị phá hủy."
"Tôi thích bị phá hủy cùng với nó hơn."
"Tùy ý ông thôi. Xin phép được hỏi câu nữa! Ông là công tố viên. Tôi luôn không hiểu nổi làm sao người ta lại có thể trở thành công tố viên được. Ông sống nhờ vào việc ông buộc tội người khác, phần lớn là những kẻ khốn khổ, và kết án họ. Đúng thế không?"
"Đúng thế. Tôi làm nhiệm vụ của mình. Đó là chức trách của tôi. Giống như chức trách của đao phủ là hành quyết những kẻ bị tôi kết án. Chính các ông cũng nhận cùng chức trách ấy. Các ông cũng giết người vậy."
"Đúng. Chỉ khác là chúng tôi không giết vì nhiệm vụ, mà vì vui thú, hay đúng hơn: vì bất mãn, vì tuyệt vọng thế giới này. Vì thế việc giết người khiến chúng tôi thích thú đôi chút, Chẳng lẽ nó chưa từn làm ông vui thú?"
"Ông làm tôi chán ngáy. Ông vui lòng kết thúc công việc cùng mình đi thôi, Nếu ông không biết khái niệm nhiệm vụ...:
Ông ta im lặng và dẩu môi như thể muốn nhổ. Nhưng chỉ khạc ra được tí máu, dính ở cằm.
"Khoan đã!" Gustav lịch sự nói. "Đương nhiên tôi không biết khái niệm nhiệm vụ, không biết nữa. Trước đây, do chức trách nên tôi liên quan nhiều với nó, tôi vốn là giáo sư thần học mà. Ngoài ra từng là lính và đã tham gia chiến tranh. Cái đối với tôi dường như là bổn phận và cái tôi bị những kẻ quyền uy và cấp trên ra lệnh đều chẳng tốt lành gì, tôi luôn ao ước được làm ngược lại. Song cho dù tôi không còn biết khái niệm bổn phận đi nữa, tôi vẫn biết khái niệm tội lỗi - có thể hai khái niệm này là một thôi. Bởi tôi được một bà mẹ sinh ra nên tôi có tội, bị kết án phải sống, bắt buộc phải làm dân một đất nước, làm lính, giết người, đóng thuế để vũ trang quân đội. Giờ đây, trong giây phút này, lầm lỗi của đời sống lại khiến tôi một lần nữa phải giết người, như trong cuộc chiến tranh trước kia. Và lần này tôi không giết người với lòng ghê tởm nữa, tôi cam chịu tội lỗi; tôi hoàn toàn không phản đối gì việc thế giới ngu xuẩn, đầy nhóc này vỡ tan thành mảnh vụn, tôi còn muốn giúp sức vào nữa, và thích thú được tan rã theo."
Công tố viên gắng sức mỉm cười với đôi môi bết máu. Không thành công lắm, nhưng rõ ràng ông ta đã nỗ lục.
"Tốt lắm," ông ta nói. "Vậy thì chúng ta là đồng nghiệp. Thưa đồng nghiệp, ông vui lòng làm nhiệm vụ của mình đi thôi."
Trong lúc đó cô gái xinh xắn đã ngồi xuống vệ đường và ngất xỉu.
Đúng lúc ấy lại một chiếc xe ấn còi và phóng hết tốc độ tới. Chúng tôi kéo cô gái qua bên một chút rồi đứng nép người vào vách đá, mặc cho chiếc xe đang chạy tới húc vào xác chiếc xe cũ. Nó phanh gắt, lồng lên rồi dừng lại không suy suyển. Chúng tôi lẹ làng cầm súng săn chĩa vào những người mới.
"Xuống xe!" Gustav ra lệnh. "Giơ tay lên!"
Ba người đàn ông xuống xe, ngoan ngoãn giơ cao tay.
"Có ai trong các ông là thầy thuốc không?" Gustav hỏi.
Họ lắc đầu.
"Vậy các ông vui lòng thận trọng đưa ông đây ra khỏi xe, ông ấy bị thương nặng. Rồi lấy xe của các ông chở ông ấy tới thành phố gần nhất. Nào, làm đi!"
Chẳng mấy chốc ông già được đặt nàng trong chiếc xe kia; Gustav ra lệnh và họ phóng đi ngay.
Trong lúc đó cô tốc ký của chúng tôi đã hồi tỉnh và quan sát các diễn biến. Tôi thích thú vìa đã bắt được con mồi xinh đẹp này.
"Này cô," Gustav nói, "cô đã mất chủ rồi. Hy vọng ngoài việc đó ra ông ta không phải là gì thân thiết của cô. Bây giờ cô giúp việc cho tôi; hãy là một chiến hữu tốt của chúng tôi! Thế nhé, bây giờ khẩn trương lên một chút. Nơi đây sẽ mau chóng trở nên bất tiện. Cô biết leo không? Được à? Vậy cô leo đi, chúng tôi theo hai bên, hỗ trợ cô."
Ba chúng tôi leo, nhanh nhất có thể, lên chiếc chòi. Tới bên trên, cô thấy nôn nao, nhưng sau khi được uống Cognac, cô nhanh chóng hồi phục, đến độ nức nở khen cảnh trí trên hồ, trên núi và cho chúng tôi biết tên cô là Dora.
Ngay sau đó lại một chiếc xe trờ tới phía dưới kia; nó thận trọng lách qua chiếc xe bị lật, chứ không ngừng, rồi tăng tốc độ ngay.
"Đồ nhát gan!" Gustav cười, bắn người cầm lái.
Chiếc xe loạng choạng một chút, vọt đâm vào tường, xuyên qua nó rồi nghiêng lơ lửng trên vực thẳm,
"Dora," tôi nói, "cô biết sử dụng súng săn chứ?"
Cô không biết, nhưng chúng tôi chỉ cô cách nạp đạn. Mới đầu cô vụng về, làm xước chảy máu một ngón tay, gào lên khóc lên, đòi băng dán. Nhưng Gustav bảo rằng đang thời chiến và cô hãy chứng tỏ là một cô gái can trường, dũng cảm. Cô nín ngay.
"Nhưng rồi chúng ta sẽ ra sao?" cô hỏi.
"Tôi không biết," Gustav đáp. "Anh bạn Harry của tôi thích đàn bà đẹp lắm, anh ấy sẽ là bạn của cô."
"Nhưng người ta sẽ đưa cảnh sát và lính tráng tới đây, giết chết chúng ta."
"Không còn cảnh sát và những bọn đại loại như thế nữa. Chúng ta có thể chọn lựa, Dora ạ. Hoặc chúng ta bình thản ở trên này và bắn mọi chiếc xe chạy qua. Hoặc chúng ta tóm lấy một chiếc chạy đi và để bọn khác bắn chúng ta. Chọn cách nào thì cũng như nhau cả thôi. Tôi chọn ở lại đây."
Dưới kia lại một chiếc xe ấn còi lanh lảnh chạy lên. Nó bị diệt chóng vánh, nằm chổng bốn bánh lên trời.
"Lạ thật," tôi nói, "không ngờ bắn người lại có thể thú vị thế! Vậy mà trước kia tớ là kẻ chống chiến tranh!"
Gustav mỉm cười. "Đúng vậy, chẳng qua chỉ vì thế giới quá đông người. Hồi xưa người ta không nhận thấy thế đâu. Nhưng giờ đây, khi ai cũng không chỉ hít thở không khí mà còn muốn có cả ô tô nữa, người ta mời nhận ra. Dĩ nhiên điều chúng ta làm là không khôn ngoan; nó là trò nghịch ngợm, giống như chiến tranh là một trò nghịch ngợm ở mức độ gớm ghê. Rồi đây nhân loại sẽ có lúc phải học hạn chế sinh sản bằng phương cách hợp lý. Tạm thời mình phản ứng lại những tình trạng không thể chịu đựng nổi này bằng cách hơi thiếu khôn ngoan nhưng về cơ bản mình làm đúng: mình giảm bớt người."
"Phải," tôi nói, "việc chúng mình làm hhẳn là điên rồ thật, xong có lẽ đúng đắn và cần thiết. Thật chẳng hay ho chút nào, khi nhân loại quá lao tâm khổ tứ tìm cách dùng lý trí chỉnh đốn những việc mà nó hoàn toàn chưa vươn tới được. Rồi từ đó nảy ra những tư tưởng như của người Mỹ hay người Bôn-sê-vích cả hai tư tưởng này đều cực kỳ chín chắn, nhưng vì chúng quá đơn giản hóa đời sống, nên đâm ra chúng lại áp bức và bóc lột đời sống ghê gớm. Hình ảnh con người, xưa kia là một lý tưởng cao cả, nay đang trở thành một thứ sao chép vụng về. Chúng ta, những kẻ điên rồ, có thể sẽ làm nó trở thành cao quý lại."
Gustav cười đáp: "Nhóc ơi, cậu ăn nói khôn ngoan tuyệt vời; thật là thú vị và bổ ích được lắng nghe những lời thông tuệ này. Thậm chí có thể cậu khá có lý. Nhưng thôi, làm ơn nạp đạn vào khẩu súng săn của cậu đi, tớ thấy cậu hơi quá mơ mộng đấy. Bất cứ lúc nào cũng lại có thể có vài con hươu đực chạy lên đây, mình không thể bắn chết chúng bằng triết lý được, trong nòng súng phải sẵn đạn."
Một chiếc xe trờ tới, bị lật ngay, thế là đường tắc nghẽn. Một kẻ sống sót, một người đàn ông phì nộn tóc đỏ giận dữ vung tay vung chân bên những xác xe, hết trố mắt ngó xuống dưới, lại nhìn lên cao; khi phát hiện chỗ chúng tôi ẩn nấp, y vừa gầm gừ vừa chạy tới, chĩa súng lúc lên nã nhiều lần.
"Cút ngay không tôi bắn," Gustav hét xuống. Người đàn ông nhắm anh nã phát nữa. Chúng tôi liền bắn gục y bằng hai phát.
Thêm hai xe nữa bị chúng tôi bị bắn hạ. Con đường trở nên vắng lặng; dường như sự nguy hiểm của nó đã đồn xa. Chúng tôi được rảnh rang ngắm nhìn cảnh đẹp. Trong thung lũng phía bên kia hồ có một thị trấn nhỏ, khói đang bốc lên từ đó và chỉ lát sau chúng tôi thấy lửa lan từ mái nhà này sang mái nhà khác. Nghe cả tiếng súng nữa. Dora thổn tức, tôi vuốt nhẹ đôi má đẫm lệ của cô.
"Tất cả chúng ta phải chết sao?" cô hỏi. Không ai trả lời. Trong lúc đó một người bộ hành đi tới phía dưới kia, nhìn các xác xe, đi quanh hỉnh mũi ngửi, rồi cúi vào trong một chiếc, lôi ra một cái ô sặc sỡ, một xắc tay phụ nữ bằng da, một chai vang; rồi y bình thản ngồi trên bức tường, ăn gì đấy bọc giấy nhôm lấy từ xắc tay, nốc sạch rượu rồi kẹp ô dưới nách vui vẻ đi tiếp. Y thanh thản bước. Tôi bảo Gustav: "Cậu có thể bắn thủng đầu gã khả ái kia không? Lạy Chúa, tớ chịu!"
"Đâu ai đòi cậu bắn," bạn tôi lầu bầu. Nhưng chính anh cũng thấy không thoải mái trong lòng. Chỉ vừa mới nhìn thấy một con người cung cách vô hại, hiền hòa và như trẻ con, một người còn có thể sống hồn nhiên, thì mọi hành động đáng ca ngợi và cần thiết nhường ấy của chúng tôi đột nhiên dường như thành ngu xuẩn và ghê tởm. Mẹ kiếp, bao nhiêu máu đã đổ! Chúng tôi hổ thẹn. Nhưng trong chiến tranh thậm chí các viên tướng cũng đôi khi cảm thấy như thế đây.
"Chúng ta không nên ở đây lâu hơn nữa," Dora than thở, "mà nên xuống dưới kia; chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy gì đấy để ăn trong những chiếc xe. Mấy người không đói sao, hở các Bôn-sê-vích?"
Phía dưới, nơi thị trấn đang cháy kia tiếng chuông nhà thờ bắt đầu rền rĩ, náo động và đầy sợ hãi. Chúng tôi chuẩn bị leo xuống. Lúc giúp Dora leo qua lan can, tôi hôn đầu gối cô. Cô cười ré lên. Nhưng rồi những thanh gỗ bung ra và hai chúng tôi rơi vào khoảng không...
Tôi lại thấy mình đang ở trong hành lang hình móng ngựa, vẫn còn bị kích thích bởi trò phiêu lưu săn bắn vừa rồi. Và những hàng chữ lôi cuốn khắp nơi, trên hết thảy vô số cánh cửa:
Mutabor[8]
Hóa thân thành thú vật và cây cỏ bất kỳ.
Kamasutram[9]
Lớp cho người mới học: 42 cách ân ái khác nhau.
Tự sát đầy hoan lạc
Cười tới chết.
Bạn muốn tâm linh hóa
Minh triết phương Đông.
Ước chi tôi có nghìn cái lưỡi!
Dành riêng cho đàn ông.
Sự suy tàn của phương Tây
Giảm giá. Vẫn mãi dẫn đầu.
Bản chất của nghệ thuật
Sự chuyển hóa từ thời gian sang không gian nhờ âm nhạc.
Cười chảy nước mắt
Phòng hài hước.
Trò chơi của người ẩn dật
Thay thế hoàn toàn cho mọi sự quảng giao.
Những hàng chữ như thế này nhiều vô số kể. Một hàng viết:
Hướng dẫn tạo dựng nhân cách
Bảo đảm thành công.
Tôi thấy thật đáng chú ý, liền bước vào.
Một căn phòng tĩnh lặng, sáng lờ mờ chào đón tôi. Một người đàn ông ngồi bệt dưới đất phương Đông, trước mặt là một bàn cờ vua thật to. Thoạt nhìn, tôi tưởng đó là anh bạn Pablo, vì ông cũng khoác một chiếc áo vét lụa sặc sỡ tương tự  và đôi mắt cũng đen và long lanh y hệt.
"Phải Pablo không?" tôi hỏi.
"Tôi chẳng là ai cả," ông thân mật giải thích. "Ở đây chúng ta không mang tên, ở đây chúng ta chẳng là ai hết thảy. tôi là người chơi cờ vua. Ông muốn học về sự tạo dựng nhân cách à?"
"Vâng, thưa ông."
"Vậy ông hãy vui lòng cho tôi sử dụng vài chục hình ảnh của ông đi."
"Hình ảnh của tôi ư...?"
"Những hình ảnh mà ông đã thấy, cái gọi là nhân cách của mình tan thành ấy. Không có hình ảnh thì tôi không thể nào chơi được."
Ông chìa ra trước mặt tôi một cái gương, tôi lại thấy trong đó cái cá nhân thống nhất của tôi vỡ tan thành nhiều Cái Tôi, dường như còn tăng hơn so với mới đây. Những hình ảnh này giờ đây nhỏ lắm, chỉ bé tựa quân cờ vua thông thường thôi. Với những ngón tay vững vàng và lặng lẽ người chơi cờ kia nhặt vài chục cái, đặt xuống sàn bên cạnh bàn cờ. Cùng lúc, ông ta nói đều đều như một người quen lặp lại một bài thuyết trình hay bài giảng:
"Ông không lạ gì cái quan niệm sai lầm, đưa đến bất hạnh rằng con người là một khối thống nhất trường tồn. Ông cũng biết rằng con người được cấu tạo từ một số linh hồn, từ rất nhiều bản ngã. Quan niệm về sự thống nhất bề ngoài của cá nhân phân tán ra thành nhiều hình dạng này bị coi là điên rồ; khoa học đặt cho nó cái tên 'chứng tâm thần phân liệt'. Tất nhiên khoa học có lý, bao lâu nó cho rằng không thể kiềm chế một đám đông không được lãnh đạo, không có một trật tự và phân nhóm nhất định. Ngược lại nó sai lầm khi quan niệm chỉ có thể có một trật tự duy nhất, liên kết vĩnh viễn cho nhiều Cái Tôi bị phân tán nhỏ. Nhầm lẫn này của khoa học đã gây ra một số hậu quả đáng tiếc; nó chỉ được mỗi một việc là giúp cho các thầy cô và các nhà giáo dục của Nhà nước thấy công việc của họ đon giản đi và khỏi cần suy nghĩ cùng thử nghiệm. Do sai lầm này mà nhiều người điên khùng bất trị được xem là 'bình thường', thậm chí là thành phần cao quý trong xã hội, và ngược lại những thiên tài bị coi là điên rồ. Vì thế chúng tôi bổ khuyết môn tâm hồn học thiếu sót của khoa học bằng khái niệm mà chúng tôi gọi là nghệ thuật tạo dựng. Chúng tôi sẽ chỉ vẽ cho người đã trải nghiệm sự phân tán Cái Tôi của họ rằng bất kỳ lúc nào họ cũng có thể sắp xếp lại những mảnh của Cái Tôi này theo bất kỳ trật tự nào và bằng cách như thế đạt được tính muôn hình vạn trạng của trò đời. Giống như nhà thơ sáng tạo nên vở kịch từ một nhúm nhân vật, chúng tôi không ngừng dựng nên từ các hình thù bị tách ra của Cái Tôi những nhóm mới, với những trò chơi và những căng thẳng mới, với những hoàn cảnh luôn luôn mới. Ông xem này!"
Bằng những ngón tay khôn ngoan và lặng lẽ, ông nhặt những hình ảnh của tôi, tất cả những hình ảnh già lão, thanh niên, trẻ con, đàn bà, tất cả những hình ảnh vui tươi và rầu rĩ, khỏe mạnh và mảnh mai, linh lợi và vụng về, nhanh chóng xếp chúng trên bàn cờ thành ván cờ, trong dó chúng lập tức hình thành những phe nhóm, những gia đình, thành những trò chơi và những ẩu đả, thành những thân hữu và những kình địch, thành một thế giới nhỏ. Trước đôi mắt hân hoan của tôi, ông cho cái thế giới tí hon sinh động và rất thứ tự ấy hoạt động, chơi đùa và ẩu đả, thành lập liên minh và giao chiến, ve vãn, cưới hỏi, sinh con đẻ cái; đó quả thật là một vở kịch với đông đảo nhân vật, cảm động và hồi hộp.
Rồi ông, một nghệ sĩ cầu toàn, với dáng điệu vui vẻ, nhẹ nhàng gạt đổ các quân crdquo;.
Không dừng lại, người đàn ông ấy máy móc thò tay vào hòm, rút ra một tập sách mỏng, chìa cho tôi. Tôi chụp ngay lấy, cất đi. Trong lúc tôi cởi cúc áo măng tô tìm tiền, y đã ngoặt vào một cái cổng bên đường, rồi đóng lại và biến mất. Mới đầu tôi nghe tiếng chân y nặng nề trên mặt đường đá, rồi trên một cầu thang gỗ, rồi không nghe gì nữa. Đột nhiên tôi thấy cũng quá mệt và cảm tưởng đã khuya lắm rồi, về là vừa. Tôi bước rảo hơn, chẳng mấy chốc đã vượt qua những con hẻm vùng ngoại ô đang say ngủ, về tới nhà. Nhà tôi nằm giữa khi thành lũy, nơi các công chức và những người hưu trí cáp thấp ngụ trong những ngôi nhà thuê cho nhỏ sạch sẽ, phía trước có bãi cỏ và khóm thường xuân. Qua khỏi đám thường xuân, bãi cỏ và bụi thông nhỏ tôi về tới của nhà, mò lỗ khóa, tìm nút bật đèn, lách qua tấm cửa kính, đi qua những cái tủ bóng lộn và những chậu cây, mở cửa phòng mình, chốn giả làm quê hương bé nhỏ của tôi, nơi chiếc ghế bành và lò sưởi có nghiên mực và hộp vẽ, có Novalis và Dostoyevsky chờ đợi tôi, hệt như bà mẹ hay người vợ, lũ con, các cô người làm, chó, mèo chờ đợi những con người khác, những con người đích thực, khi họ về nhà.
Khi cởi chiếc áo măng tô ướt át, tôi chợt thấy lại tập sách nhỏ kia, liền rút ra. Đó là loại sách mỏng, in lem nhem trên giấy xấu bán ở các chợ phiên, giống như tập “Tử vi cho người sinh ra trong tháng Giêng” hay “Làm cách nào trẻ lại hay mươi tuôi trong tám ngày?”
Nhưng khi đã ngồi yên trong ghế bành và đeo kính, tôi sửng sốt đọc và đột nhiên cảm thấy về một số phận đang xảy đến qua nhan đề trên bìa tập sách chợ phiên ấy: Luận thuyết về Sói Thảo Nguyên. Dành riêng cho những người điên.
Và đây là nội dung của nó mà tôi đã đọc liền một mạch, mỗi lúc một hồi hộp thêm:
LUẬN THUYẾT VỀ SÓI THẢO NGUYÊN
Dành riêng cho những người điên
Thuở ấy có một tay tên là Harry, biệt danh Sói Thảo Nguyên.Hắn đi ha chân, hắn mặc áo quần, hắn là người, nhưng thật ra hắn đích thị là một con sói thảo nguyên. Hắn học được nhiều thứ mà những người có đầu óc đều có thể học được và hắn là một kẻ khá thông minh. Nhưng cái hắn không học được là: hài lòng về mình và cuộc đời mình. Điều ấy hắn không học được, hắn là một kẻ bất đắc chí. Sở dĩ như thế có lẽ vì lúc nào trong thâm tâm hắn cũng biết (hoặc tưởng là biết) rằng thật ra hắn không phải là ngườ, mà là một con sói từ thảo nguyên. Các nhà thông thái cứ việc tranh cãi xem hắn có thật là sói hay không, biết đâu đã có lần, trước cả khi hắn chào đời cũng nên, hắn được phù phép biến từ sói thành người, hoặc giả hắn sinh ra là người, nhưng lại được phú cho hồn một con sói thảo nguyên và bị nó chế ngự hoặc giả điều hắn tin rằng hắn thật ra là sói chỉ do trí tưởng tượng hoặc một thứ bênh của hắn mà thôi. Chẳng hạn có thể thời thơ dại con người này rất hiếu động, bất kham và vô kỷ luật; những người dạy dỗ hắn đã tìm cách diệt trừ tính dã thú trong con người hắn và chính vì thế đã tạo cho hắn ấn tượng và niềm tin rằng thật ra hắn là một dã thú, chỉ khoác một lớp vỏ mỏng tanh của giáo dục và nhân tính thôi. Nếu muốn, người ta có thể nói tràng giang đại hải và tiêu khiển về điều này, thâm chí viết thành sách; nhưng chẳng ích gì cho Sói Thảo Nguyên, vì hắn chẳng mảy may quan tâm đến chuyện con sói nhập vào hắn là do bùa chú hoặc roi vọt, hay đó chỉ là tưởng tượng của tâm hồn hắn. Người khác, thậm chí ngay cả hắn nữa, muốn nghĩ gì về điều ấy, hăn cũng mặc kệ, vì sự nghĩ ngợi đó không trục nổi con sói ra khỏi hắn được.
Vậy là Sói Thảo Nguyên có hai bản chất, một người và một sói; đó là số kiếp của hắn, và có thể số phận này chẳng phải đặc biệt và hiếm hoi gì lắm. Người ra đã từng thây sbao kẻ mang trong mình nhiều tính chất của chó hoặc chồn, của cá hoặc rắn nhưng không vì thế mà họ gặp khó khăn gì ghê gớm. Ở những kẻ đó người và chồn, người và cá đúng là sống cạnh nhau, không bên nào làm khổ bên nào, thậm chí còn tương trợ lẫn nhau; lắm kẻ tiến xa và đáng ganh tị nhờ được sức chồn hoặc khỉ đem lại cho họ phúc lộc nhiều hơn sức người trong họ. Điều này ai cũng biết. Nhưng ở Harry lại khác, người và sói trong hắn không tiến song đôi hoặc giúp đỡ nhau, mà thường trực là kẻ tử thù của nhau, phần này sống chỉ để làm khổ phần kia, và khi hai phần trong cùng một dòng máu và một tâm hồn coi nhau như kẻ từ thù thì đó là một cuộc sống khốn khổ. Thế đấy, ai cũng có số phận riêng và chẳng số phận nào nhẹ nhàng cả.
Về phần Sói Thảo Nguyên của chúng ta thì lúc hắn cảm thấy mình sống giống sói, lúc lại giống người, như ở mọi sinh vật lai tạp; nhưng khi hắn là sói thì phần người trong hắn thường xuyên nằm rình rập, nhóm ngó, bình phẩm và phán xét – con những lúc hắn là người thì phần sói cũng làm y như thế. Chẳng hạn khi Harry là người, có một ý tưởng hay ho, một cảm xúc tinh tế cao quý hoặc có một hành vi gọi là thiện, con sói trong hắn liền nhe nhanh, ra sức chế nhạo, chỉ cho hắn thấy rằng tất cả cái vở kịch cao quý kia, nực cười sao, lại rất thích hợp với một con thú thảo nguyên, một con sói, nó biết rất rõ trong thâm tâm điều gì khiến nó hài lòng, đó là đơn độc rong ruổi qua thảo nguyên, thỉnh thoảng uống máu tươi hoặc chạy theo một con sói cái – và, dưới nhãn quan của con sói, mọi hàng động của con người đều kỳ cục, vụng về, ngu xuẩn và kiêu căng phát sợ. Cũng y như vậy khi Harry cảm thấy mình là sói, khi hắn đe dọa người khác, khi hắn thù ghét và coi mọi người cùng cung cách xử thế cũng như tập quan suy đồi, giả trá của họ là kẻ tử thù; lúc ấy phần người trong hắn sẽ rình rập, theo dõi con sói, gọi nó là đồ súc vật, đồ dã thú, khiến nó chán chường, hết cả hứng thú trong bản tính sói chất phác, lành mạnh và hoang dã của nó.
Bản chất Sói Thảo Nguyên như vậy đấy, và ta có thể hình dung cuộc đời Harry chẳng thoải mái và hạnh phúc chút nào. Nhưng như thế không hàm nghĩa hắn đặc biệt bất hạnh (mặc dù tự hắn cảm thấy thế, giống như ai cũng cho rằng nỗi đau khổ mình phải hứng chịu là ghê gớm nhất). Ta không nên nói như thế về ai. Ngay cả người không mang phần sói trong mình cũng không nhất thiết hạnh phúc. Ngay cả cuộc sống bất hạnh nhất cũng có những giờ phút rạng rỡ ánh hồng và những đóa hoa hạnh phúc nở bừng giữa cát sỏi. Với Sói Thảo Nguyên cũng thế. Phần lớn cuộc đời hắn rất bất hạnh, không thể phủ nhận điều ấy, và hắn có thể làm người khác bất hạnh theo, đó là khi hắn yêu thương họ và họ yêu thương hắn. Vì hết thảy những kẻ yêu thương hắn chỉ thấy một khía cạnh của hắn thôi. Có những người yêu thương hắn là một kẻ tế nhị, thông minh và đọc đáo, nên khi họ đột nhiên phát hiện phần soi trong hắn, họ liền đâm ra kinh hoàng và thất vọng. Họ phải phát hiện ra thôi, vì Harry, như mọi sinh vật khác, muốn được thương yêu trọn vẹn, nên không thể che giấu và lấp liếm phàn sói của hắn, nhất là trước tình thương yêu của những kẻ hắn rất trân trọng. Nhưng cũng có những kẻ thương yêu chính cái phần sói trong hắn, cái chất tự do, hoang dã, không thể thuần hóa, ngủy hiểm, mạnh bạo, nên chính họ lại cực kỳ thất vọng lẫn đau đớn khi thấy con sói hoang dại, hung ác đột nhiên cũng là một con người, cũng khao khát điều tốt và sự dịu dàng, nghe cả nhạc Mozart, cũng đọc thơ và muốn có người này đâm ra đặc biệt thất vọng và phẫn nộ, thế là Sói Thảo Nguyên đã truyền bản tính kép và đối nghịch của chính hắn vào mọi số kiếp xa lạ mà hắn tiếp xúc.
Giờ đây ai tưởng rằng mình biết rõ Sói Thảo Nguyên và có thể hình dung được cuộc đời tội nghiệp và đau lòng của hắn, người ấy rất nhầm, người ấy còn lâu mới biết hết. Người ấy không biết rằng (chẳng quy tắc nào không có ngoại lệ và trong hoàn cảnh nhất định Chúc ưng kẻ duy nhất phạm tội hơn chín mươi chín kẻ công chính) ở Harry cũng có ngoại lệ và những may mắn tình cờ, rằng đôi khi hắn có thể thở, suy nghĩ và cảm thấy lúc như sói, lúc như người, rõ ràng chức không lẫn lộn, đúng thế, và đôi khi, vào những giờ khắc rất hiếm hoi, phần sói và phần người sống hòa hoãn, thân ái với nhau, chứ không chỉ bân này ngủ, bên kia thức, mà tăng cường lẫn nhau, bên nọ giúp cho bên kia trở thành gấp đôi. Cũng trong cuộc đời người đàn ông này, như khắp nơi trên thế gian, dường như đôi lúc mọi thói quen, mọi việc thường nhật, mọi điều được nhìn nhận, mọi sự điều độ chỉ nhằm mục đích ngưng nghỉ ở đâu đó một đôi giây ngắn ngủi, rồi bị phá bỏ, nhường chỗ cho cái phi thường, phép lạ và ân sủng. Những giờ phút hạnh phúc ngắn ngủi, hiếm hoi này có đền bù và xoa dịu được số phận hẩm hiu của Sói Thảo Nguyên, khiến cuối cùng hạnh phúc cân bằng được khổ đau không, hay thậm chí niềm hạnh phúc ngắn ngủi nhưng mãnh liệt trong vài giờ ít ỏi ấy vượt xa sự hóa giải khổ đau, điều này hãy để cho những kẻ nhàn cư tha hồ ngẫm nghĩ. Chính Sói Thảo Nguyên cũng thường suy ngẫm về chuyện ấy, và đó là những ngày nhàn rỗi lẫn vô bổ của hắn.
Ở đây cần phải nói thêm một điều. Có khá nhiều người cùng loại như Harry, đặc biệt là các nghệ sĩ. Những người này đều mang song song trong lòng họ hai linh hồn, hai bản chất vừa thù nghịc vừa phức tạp, cả thần thánh lẫn quỷ sứ, cả dòng máu me lẫn dòng máu cha, cả khả năng tiếp thu hạnh phúc lẫn khả năng tiếp nhận khổ đau, giống như Harry mang trong con người hắn phần sói và phần người vậy. Những con người có cuộc sống rất không thanh thản ấy đôi khi cảm thột nhiên khom thấp, đặt roi xuống trước chân sói, rồi bắt đầu run rẩy, rúm người trông thảm hại y như con sói hồi nãy. Còn sói ta vừa cười vừa liếm mép, mọi gượng gạo và giả trá biến mất sạch. mắt nó rực sáng, thân thể nó trở nên rắn chấc và sinh động trong vẻ hoang dại vừa giành lại được.
Và bây giờ sói ta ra lệnh, con người phải vâng lời. Người quỳ gối theo mệnh lệnh, giả làm sói, thè dài lưỡi, dùng răng vàng cắn xé áo quần trên thân thể. Tùy theo con thú dạy người kia ra lệnh mà gã đi hay bò hoặc ngồi bệt xuống, giả chết, để sói cưỡi lên lưng và nhặt roi cho nó. Hệt như con chó đầy năng khiếu, gã tham gia với trí tưởng tượng phong phú mọi sự sỉ nhục và trò đồi bại. Một cô gái xinh lên sân khấu, lại gần gã người được thuần dưỡng vuốt cằm gã, cọ má vào má gã, song gã vẫn cứ đứng trên hai chân lẫn hai tay, vẫn làm con thú, lúc lắc cúi đầu, nhe răng với cô, cuối cùng đầy đe dọa hệt như sói, khiến cô gái phải bỏ chạy. Người ta để sô cô la trước mặt gã, nhưng gã chỉ khinh thị đánh hơi rồi đẩy ra. Sau cùng, hai con cừu trắng và thỏ đốm mập mạp lại được mang ra; gã người sáng dạ kia liền trổ hết tài ba đóng vai sói, với đầy hứng thú. Ngón tay gã bấu, răng gã ngoạm vào hai con thú bé bỏng đang ré lên, rứt da thịt chúng, vừa cưỡi vừa nhai sống, hăm hở uống máu nóng của chúng, mắt gã nhắm nghiền đầy khoái lạc.
Tôi kinh hoàng chạy ra ngoài. Hí viện ma thuật này, tôi đã thấy, không phải thiên đường thuần túy; ẩn dưới bộ mặt mỹ miều của nó là hết thảy địa ngục. Chúa ơi, ngay cả ở đây cũng không có giải thoát ư?
Tôi chạy tới chạy lui, đầy khiếp hãi, cảm thấy trong miệng tanh mùi máu và mùi sô cô la, mùi này kinh tởm y như mùi kia; khao khát thoát khỏi làn sóng ô trọc này nên tôi không ngớt nỗ lực để lòng mình có được những hình ảnh thân mật hơn, dễ chịu hơn. "Các bạn ơi, đừng có những giọng điệu ấy!"[11], tôi thầm nhủ và kinh hoàng nhớ lại những hình ảnh ghê tởm nơi mặt trận mà lúc chiến tranh người ta thỉnh thoảng được thấy, những xác người chồng chất quấn vào nhau, mặt nạ phòng hơi ngạt đã biến mặt họ thành những mặt quỷ cười trâng tráo. Ngày đó, tôi - một kẻ yêu thương đồng loại và có khuynh hướng phản chiến - đã ngu xuẩn và con nít biết bao, khi kinh hoàng trước những hình ảnh ấy! Nay tôi hiểu rằng không người huấn luyện thú nào, không viên bộ trưởng nào, không viên tướng nào, không kẻ điên rồ nào lại có thể ấp ủ trong đầu óc y những ý tưởng và hình ảnh kinh tởm, điên rồ và độc ác, thô bạo và ngu xuẩn mà bản thân tôi chưa từng có.
Thở dài nhẹ nhõm, tôi nhớ lại hàng chữ mà lúc mới bước chân vào hí viện đã trông thấy gã thiếu niên bảnh bao nọ cắm đầu cắm cổ chạy theo:
Mọi đàn bà, con gái đều là của bạn
và thấy rằng thật ra rốt cuộc chẳng có gì đáng ham  muốn bằng điều ấy. Vui mừng vì đã lại thoát khỏi cái thế giới sói đáng nguyền rủa, tôi bước vào ngăn lô ấy.
Nơi đây, lạ kỳ thay - thật hoang đường đồng thời lại quá thân quen, khiến tôì rùng mình - mùi hương thuở thanh xuân, bầu không khí thời thơ ấu và trai trẻ của tôi, hắt ngược vào tôi và trong tim tôi lại cuồn cuộn dòng máu ngày xa xưa ấy. Nhưng điều tôi vừa mới làm, vừa mới suy nghĩ, và tôi vừa mới là gì, tất cả những điều ấy đều chìm lắng sau lưng tôi và tôi trẻ trung trở lại. Mới một giờ trước đây, mới khoảnh khắc trước đây tôi ngỡ mình biết khá rõ tình yêu, ham muốn, kháo khát là gì, nhưng đó là thứ tình yêu và kháo khát của một người đàn ông già. Giờ đây tôi đã trẻ trung trở lại và những gì tôi cảm thấy trong lòng mình - dòng lửa sôi sục đang cuồn cuộn chảy, nỗi nhớ nhung cuồng nhiệt đang lôi kéo, nỗi đam mê được thả lỏng như làn gió ấm tháng Ba - tất cả đều trẻ trung, mới mẻ và chân thật. Ôi, giờ đây ngọn lửa ngày trước bị lãng quên nay lại bùng cháy, những thanh âm ngày trước lại nghe mơ hồ rồi to dần, máu tôi đang bừng bừng nở hoa, tâm hồn tôi đang la hét và hát ca! Tôi là một thiếu niên, đâu chừng mười lăm hay mười sáu tuổi, đầu óc chỉ toàn những tiếng Latin với Hy Lạp cùng những câu thơ diễm tuyệt, tâm trí đầy những nỗ lực và tham vọng, toàn mơ những giấc mơ nghệ sĩ; nhưng sâu xa hơn, mãnh liệt hơn và đáng sợ hơn tất cả những ngọn lửa đang bừng cháy này là ngọn lửa của tình yêu, sự đói khát tình dục, sự dự cảm mỏi mòn của khoái lạc đang thiêu đốt và giày vò tôi.
Tôi đang đứng trên một trong những ngọn đồi cao nơi thành phố quê hương bé nhỏ của tôi. Trời thơm mùi gió ấm tháng Ba và những bông đổng thảo đầu mùa; dòng sông và các cửa sổ ; rất đông bạn bè. Nhiều người quý mến hắn. Song hắn luôn chỉ tìm được sự thiện cảm và niềm nở; người ta mời mọc, tặng quà, thân ái viết thư cho hắn, nhưng không ai gần gũi hắn, không ai nảy sinh chút gắn bó nào, không ai muốn và có khả năng cùng hắn chia sẻ cuộc đời. Giờ đây bao quanh hắn là khoảng trống của sự cô đơn, của bầu không khí thầm lặng; thế giới chung quanh hắn cứ dần trượt xa và bát lực trong việc tạo dựng quan hệ mà chẳng ý chí hay khao khát nào có thể chống chọi nổi. Đấy là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của đời hắn.
Một đặc điểm khác là hắn ở trong số những kẻ tự tử. Ở đây cần phải nói rằng sẽ là sai lầm nếu chỉ dùng khái niệm ấy để gọi những kẻ tự hủy mình thật sự. Vì trong số này nhiều kẻ có thể gọi là tự tử do ngẫu nhiên, chứ tự sát không nhất thiết thuộc vào bản chất của họ. Có những kẻ chết vì tự sát trong số những hạng xoàng xĩnh, bắt chước vô ý thức, trong số người không cá tính, không tác phong đặc biệt, không định mệnh vững chãi nhưng không phải vì thế mà họ thuộc vào mẫu nười tự tử, nếu xét toàn các tính, trong khi có rất nhiều kẻ, phần lớn cũng nên, theo bản chất được xếp vào loại người tự tử, nhưng lại chẳng bao giờ dám thật sự tự hủy mình. “Kẻ tự sát” – Harry là một – không nhất thiết phải sống trong quan hệ đặc biệt gần gũi với cái chết; người ta có thể sống như vậy, mà vẫn không phải là kẻ tự sát. Nhưng kẻ tự tử có điểm khác thường ở chỗ y thấy Cái Tôi của mình, bất kể điều này đúng hay sai, là một hạt mầm đặc biệt nguy hiểm, đáng ngờ và bị đe dọa của tự nhiên, y luôn thấy mình mạo hiểm và bị đe dọa khác thường, như thể y đứng trên một mỏm đá bé tẹo, chỉ cần một cái xô nhẹ từ bên ngoài hay chút khiếp nhược từ bên trong đủ khiến y rơi vào cõi hư không. Đặc trưng trên lằn chỉ tay sinh mệnh của loài người này cho thấy tự tử là kiểu chết dễ có khả năng xảy ra nhất, ít ra trong trí tưởng tượng của chính họ. Điều kiện tiên quyết gây nên tâm trạng này – hầu như luôn thấy rõ ngay từ thời niên thiếu và bám theo họ suốt đời – không phải là sinh khí đặc biệt nhu nhược, ngược lại người ta thấy trong số những “kẻ tự sát” lắm người bản tính rất gan lì, đầy khao khát và cả liều lĩnh nữa. Những giống như những kẻ hơi ốm một tí đã bị sốt, những người mà chúng ta gọi là “kẻ tự sát” vốn luôn rất dễ xúc động và nhạy cảm, hễ bị sốc một tí liền có khuynh hướng ráo riết nghĩ đến việc tự hủy mình. Nếu chúng ta có được một ngành khoa học đủ dũng cảm, đủ tinh thần trách nhiện cao, nghiên cứu về con người thay vì chỉ quan tâm đến cơ chếc những hiện tượng của sự sống, nếu chúng ta có được một ngành tương tự như nhân chủng học, tâm lý học, thì ai cũng sẽ quen thuộc với những sự kiên này. 
Điều chúng ta nói ở đây về những kẻ tự sát tất nhiên chỉ hời hợt thôi. Nó là tâm lý học, nghĩa là một phần của ngành vật lý. Xét về mặt siêu hình thì vấn đề khác hẳn và sáng tỏ hơn nhiều, vì quan sát trên khía cạnh này chúng ta thấy những  “kẻ tự sát” như là những người mang cảm giác phạm tội vì sự cá biệt hóa của mình, như những linh hồn không còn thấy cứu cánh của cuộc đời là hoàn thiện và uốn nắn chính mình, mà là thủ tiêu nó, trở về với Mẹ nguyên thủy, trở về với Chúa, trở về với vũ trụ. Rất nhiêu kẻ trong số đó hoàn toàn bất lực trước việc tiến hành tự sát thật sự vào một lúc nào đấy, vì họ thấy rõ tội lỗi của hành động ấy. Tuy nhiên, với chúng ta họ vẫn là những kẻ tự sát, vì họ thấy đấng cứu tinh trong cái chết chứ không trong sự sống và họ sẵn sàng vứt bỏ đời mình, xả thân, hủy hoại, trở về với nguồn cội.
Giống như mọi sức mạnh đều có thể trở thành yếu đuối (thậm chí phải trở thành, trong một số tình huống), kẻ tự sát điển hình có thể biến sự yếu đuối ngoài mặt của y thành sức mạnh cùng chỗ tựa, và y làm điều này hết sức thường xuyên. Đó cũng là trường hợp của Harry, của con Soi Thảo Nguyên. Như hàng nghìn đồng loại, hắn không chỉ biến ý tưởng bất cứ lúc nào con đường đưa hắn tới cái chết cũng rộng mở thành một trò tưởng tượng của tuổi trẻ u sầu, mà còn tìm thấy từ chính ý tưởng này một niềm an ủi và một chỗ dựa. Quả thật, trong tâm hồn hắn, cũng như trong mọi kẻ cùng loại mỗi dao động, mỗi đau đớn, mỗi bế tắc trong cuộc sống đều khơi dậy ngay ý muốn đào thoát bằng cái chết. Song từ ý hướng này hắn dần dà xây dựng cho mình một triết lý có ích cho đời hắn. Hắn vốn quen nghĩ rằng lối thoát cấp cứu kia thường xuyên rộng mở và điều đó đã tạo cho hắn sức mạnh, đã khiến hắn tò mò tận hưởng đau thương cùng những hoàn cảnh oái ăm; rồi khi quá khốn khổ, hắn đôi lúc tự nhủ với niềm vui tàn nhẫn, hả hê độc địa: “Ta tò mò xem thử con người có thể chịu đựng được đến đâu ấy mà! Khi nào quá mức, ta chỉ cần mở cái cửa cấp cứu kia là sẽ được giải thoát ngay thôi”. Khối kẻ tự sát đã được ý tưởng này truyền cho bao sức mạnh phi thường.
Mặt khác, mọi kẻ tự sát đều quen thuộc với việc cưỡng lại sức cám dỗ của việc tự hủy mình. Ở một ngóc ngách nào đấy trong tâm hồn, họ thừa biết tuy tự tử là một lối thoát, song vẫn chỉ là một lối thoát khá ươn hèn, không chính đáng, trong khi chịu để cho cuộc đời chiến thắng mình, quật mình ngã gục mới đúng là cao đẹp hơn. Ý thức này, sự cắn rứ lương tâm này, đại loại cùng nguồn gốc với sự cắn rứt lương tâm của những kẻ gọi là thủ dâm, thôi thúc phần lớn những “kẻ tự sát” đấu tranh dai dẳng chống lại cám dỗ của việc tự hủy hoại. Họ đấu tranh như người mắc bệnh ăn cắp vặt chống lại tật xấu của mình, Sói Thảo Nguyên chẳng lạ gì điều ấy, vì chính hắn đã từng sử dụng đủ loại vũ khí khác nhau cho cuộc đấu tranh như thế. Cuối cùng, khoảng năm bốn mươi bảy tuổi,hắn nảy ra một ý định tài tình và không phải không khôi hài, khiến hắn thường thích thú. Hắn xác định vào sinh nhật thứ năm mươi sẽ cho phéo mình tự sát (8). Ngày ấy hắn được tự do quyết định có sử dụng lối thoát cấp cứu kia hay không, tùy tâm trạng của hắn hôm đó, hắn thỏa thuận với lòng như thế. Vậy thì nay dẫn hắn gặp chuyện gì cũng mặt, dù hắn ngã bệnh hay lâm cảnh nghèo đói, chịu đau khổ và đắng cay – tất cả đều có kỳ hạn, tất cả chỉ còn có thể kéo dài tối đa vài năm, vài tháng, vài ngày nữa và con số này cứ mãi giảm dần! Quả thật, nay hắn chịu đựng dễ dàng hơn nhiều một số điều phiền muộn trước đây từng giày vò hắn nặng nề và dai dẳng, thậm chí có lẽ đã khiến hắn rung động tận gốc rễ. Nếu vì lý do nào đấy hắn quá ư bực bội, chẳng hạn cuộc sống của hắn đã quạnh hiu, đơn chiếc và man rợ, lại phải chịu thêm nữa những đau đớn khác thường hoặc mất mát, thì hắn có thể bảo nỗi đau đớn ấy rằng: “Cứ chờ đi, hai năm nữa thôi, lúc ấy ta sẽ là chủ của bọn bay!” Và rồi hắn say mê đắm chìm hình dung thư từ cùng thiệp mường sẽ đến với hắn vào buổi sáng sinh nhật thứ năm mươi như thế nào, trong lúc hắn, tin cậy vào con dao cạo, vĩnh biệt mọi khổ đau và khép lại cánh cửa cấp cứu sau lưng mình. Bấy giờ bệnh thống phong trong xương cốt hắn, chứng sầu muộn, bệnh nhức đầu và đau bao tử sẽ được thấy bọn chúng đang ở đâu.
Cũng cần nói thêm: để giải thích hiện tượng riêng lẻ của Sói Thảo Nguyên, đặc biệt mối quan hệ khác thường của hắn với tầng lớp trưởng giả, chúng ta hãy quy các sự kiện này vào những quy luật cơ bản của chúng. Sẵn đây, chúng ta lấy ngay cái quan hệ của hắn với giới trưởng giả làm khởi điểm!
Sói Thảo Nguyên, theo quan niệm của hắn, hoàn toàn đứng ngoài thế giới trưởng giả, vì hắn không có cuộc sống gia đình hay tham vọng xã hội. Hắn thấy mình hoàn toàn cá biệt, là kẻ lập dị, khi thì hắn là một kẻ ẩn cư bệnh hoạn, lúc là một cá nhân bẩm sinh thiên tài, cao quý, trội hơn hẳn những chuẩn mực nhỏ nhoi của đám làng nhàng. Hắn khinh miệt một cách có ý thức kẻ trưởng giả và tự hào không là một người như thế. Tuy nhiên trên một số khía cạnh hắn sống hoàn toàn trưởng giả; hắn có tiền gửi ngân hàng và trợ giúp họ hàng nghèo túng, hắn ăn mặc tuy không chăm chút, nhưng lịch sự và nhã nhặn, hắn tìm cách sống hòa hợp với Sở Cảnh Sát, Sở Thuế vụ và những quyền lực tương tự. Nhưng ngoài những điều ấy ra, một niềm khao khát âm thầm song mạnh liệt không ngừng kéo hắn tới cái thế giới trưởng giả bé nhỏ, tới những ngôi nhà êm ấm, đáng trọng với những khoảnh vườn sạch sẽ, khoang cầu thang được chăm chút sáng bóng và bầu không khí rất mực khiêm tốn của trật tự cùng sự sung túc. Hắn thích thói hư tật xấu và tính thái quá của mình, thích cảm thất mình là kẻ đứng ngoài tầng lớp trưởng giả, là kẻ lập dị hoặc thiên tài, nhưng hắn không bao giờ cư ngụ và sống, tạm gọi thế, trong những khu vực chẳng còn tính trưởng giả nào. Hắn không thoải mái trong bầu không khí của những kẻ thô bạo hoặc khác thường cũng như của những kẻ phạm pháp hoặc tồn tại ngoài vòng pháp luật, hắn luôn sống trong khu vực của giới thị dân, lúc nào cũng duy trì quan hệ với tập tục, chuẩn mực và môi trường của họ, dù là quan hệ đối nghịch hay phản kháng. Ngoài ra, vì lớn lên trong nền giáo dục tiểu tư sản nên hắn vẫn còn lưu giữ từ đó không ít khái niệm cùng mẫu mực. Về lý thuyết hắn không hề chống báng giới buôn son bán phấn, nhưng cá nhân hắn không thể nào coi trọng một cô gái mãi dâm và xem thật là ngang hàng với mình. Hắn có thể quý mến như anh em một chính chị phạm, một nhà cách mạng hay người xách động quần chúng về mặt tinh thần – những kẻ bị Nhà nước và xã hội tảy chay, nhưng hắn chẳng biết nên có thái độ thế nào với một tên ăn cắp, một gã trộm, một kẻ sát nhân dâm ác hơn là tội nghiệp chúng theo một cách khá trưởng giả.
Bằng cách đó, lúc nào hắn cũng nhìn nhận và tán thành với một nửa bản chất và hành động của mình điều mà hắn phủ nhận và chống lại với nửa bản chất kia. Lớn lên với khuôn mẫu và tập quan nghiêm ngặt trong một gia đình trưởng giả, có học thức, một phần tâm hồn hắn vẫn còn luôn gắn bó với những trật tự của thế giới này, cả sau khi hắn đã cá thế hóa vượt mức khả dĩ của gưới trưởng giả và thoát khỏi những lý tưởng cùng niềm tin của giới ấy từ lâu.
“Lối sống trưởng giả”, nhưng một trạng thái luôn hiện hữu của đặc tính con người, không là gì khác hơn sự cố gắng cân bằng, là nỗ lực tìm sự trung dung giữa vô số thái cực và những cặp đối nghịch trong cách xử thế của con người. Chúng ta thử lấy một cặp đối nghịch bất kỳ nào đấy làm thí dụ, chẳng hạn cặp người thánh thiện và kẻ phóng đãng, thì sự so sánh sẽ thành dễ hiểu ngay. Con người có khả năng dồn hết tâm trí vào chuyện tâm linh, vào việc nỗ lực tiếp cận với thánh thần, vào lý tưởng của bậc đức hạnh. Ngược lại con người cũng có khả năng dành hết tâm trí cho cuộc sống bản năng, cho đòi hỏi của dục vọng và hướng mọi nỗ lực vào việc đạt lạc thú nhất thời. Con đường thứ nhất dẫn tới bậc thánh thiện, tới những người hy sinh cho trí tuệ, tới sự quên mình vì Chúa. Còn con đường kia dẫn đến kẻ phóng đãng, tới kẻ chịu chết vì bản năng, tới sự buông thả cho điều thối rữa. Người trưởng giả tìm cách sống theo lối trung dung giữa hai cực đoan ấy. Y sẽ không bao giờ quên mình, hiến thân, chẳng theo sự say sưa cũng không theo nếp khổ hạnh; y sẽ không bao giờ thành kẻ tuẫn đạo, chẳng bao giờ chịu bị hủy diệt - ngược lại, lý tưởng của y không phải là sự hiến thân, mà là bảo tồn Cái Tôi, nỗ lực của y không dành cho sự thánh thiện cũng chẳng cho điều đối nghịch; y không chịu nổi tính vô điều kiện, tuy muốn phụng sự Chúa, nhưng y cũng muốn hưởng lạc thú ngất ngây; tuy y muốn sống đức hạnh, nhưng cũng thích đôi chút thoải mái và tiện nghi trên trần thế. Tóm lại, y cố tìm chốn trung dung giữa những cực đoan, trong một vùng ôn hòa, dễ chịu, không bão tố hay cuồng phong; quả thật y đã đạt được điều ấy, song bù lại sẽ thiếu cảm giác tuyệt mức như trong lối sống cực đoan và hoàn toàn buông thả. Người ta chỉ có thể sống cuồng nhiệt khi chịu trả giá cho Cái Tôi. Mà kẻ trưởng giả không quý gì hơn Cái Tôi (tất nhiên một Cái Tôi phát triển ở dạng sơ đẳng). Cho nên y chịu mất mát chút cuồng nhiệt đổi lấy Cái Tôi và sự an lòng; y thanh thản lương tâm thay vì đam mê Chúa, mãn nguyện thay vì dục lạc, thoải mái thay vì tự do, khát khao vừa phải thay vì cuồng nhiệt trí mạng. Vì thế kẻ trưởng giả, do bản chất, là một sinh vật có động lực sống yếu đuối, nhút nhát, sợ mọi phóng đãng, dễ bị chế ngự. Nên y đặt ra đa số thay cho quyền uy, luật lệ thay cho vũ lực, bầu cử thay cho tinh thần trách nhiệm.
Rõ ràng thứ sinh vật yếu đuối và nhút nhát này dù đông đến mấy cũng không thể tự bảo tồn; do đặc tính nên nó không thể giữ vai trò gì khác hơn một đàn cừu giữa những con sói lang thang. Tuy nhiên chúng ta thấy vào thời những người hung bạo cầm quyền, kẻ trưởng giả dù bị đè nén nhưng không bao giờ chịu diệt vong, thậm chí dường như đôi khi y còn thống trị thế giới nữa. Sao lại thế được nhỉ? Bầy đoàn đông đảo của y, phẩm hạnh của y, quan niệm thông thường của người đời hoặc sự tổ chức của y đâu đủ mạnh để cứu y khỏi diệt vong. Kẻ đã quá bạc nhược ngay từ đầu thì chẳng phương thuốc nào trên thế gian giữ nổi mạng sống. Thế mà giai cấp trưởng giả vẫn tồn tại, vẫn mạnh và phát triển. Vì sao?
Câu trả lời là: vì những con sói thảo nguyên. Quả thật sức sống của giai cấp trưởng giả hoàn toàn không dựa trên phẩm chất của các thành viên bình thường, mà của cực kỳ đông đảo outsider(9), những kẻ mà giai cấp trưởng giả có khả năng thu hút nhờ lý tưởng mơ hồ và uyển chuyển của nó. Luôn luôn có không ít những kẻ tính tình mạnh bạo và hiếu động trong giai cấp trưởng giả. Sói Thảo Nguyên Harry của chúng ta là một thí dụ điển hình. Hắn - kẻ đã vượt xa mức khả dĩ của một kẻ trưởng giả để phát triển thành một cá thể, kẻ đã từng biết mùi khoái cảm của sự trầm tư mặc tưởng cũng như những vui thú ảm đạm của sự thù hận lẫn ghét bỏ chính mình, kẻ khinh miệt luật lệ, phẩm hạnh và quan niệm thông thường của con người - vậy mà vẫn bó buộc là tù nhân của giai cấp trưởng giả, không thoát ra nổi. Cho nên chung quanh giới trưởng giả đúng nghĩa quy tụ biết bao thành phần của nhân loại, quy tụ hàng nghìn cuộc đời cùng trí tuệ; tuy mỗi kẻ ấy đều có thể phát triển vượt ra khỏi giai cấp trưởng giả, đi theo tiếng gọi của một cuộc sống tuyệt đối, vô điều kiện, nhưng do những tình cảm thời thơ ấu gắn bó với giới trưởng giả và vì tiêm nhiễm khá nặng sức sống yếu đuối của nó, nên y vẫn bám lấy nó, lệ thuộc nó, ràng buộc với nó, sẵn sàng phục vụ nó thế nào đấy. Vì phương ch&acirg một chuyến tàu tốc hành và sau đó nàng đã nhiều lần hiện ra trong những giấc mơ của tôi; nàng không nói một lời, nhưng đã dạy tôi những ngón yêu đương đáng sợ, chết người, không lường nổi. Và cô gái Trung Hoa mỡ màng, lặng lẽ, nụ cười đờ đẫn ở cảng Marseilles, với mái tóc mượt đen nhánh và đôi mắt ướt rượt, cả nàng cũng biết những điều kỳ lạ. Mỗi nàng đều có bí mật riêng, thơm mùi mảnh đất quê hương riêng; họ hôn, cười kiểu riêng, bẽn lẽn kiểu riêng, sỗ sàng kiểu riếng. Họ đến rồi đi, dòng đời đưa họ đến với tôi, cuốn tôi lại với họ, kéo tôi xa họ, như trẻ con bơi đùa trong dòng chảy của giới tính, đầy quyến rũ. đầy hỉểm nguy, đầy bất ngờ. Và tôi kinh ngạc thấy đời mình - đời sói thảo nguyên có vẻ khốn khổ và khô khan của tôi - lại giàu yêu đương say đắm, giàu cơ hội và giàu sự hấp dẫn biết bao. Tôi đã bỏ lỡ và trốn chạy hầu như tất cả, đã sa sầy vì chúng, đã vội vã quên chúng, nhưng chúng được tồn trữ hết cả nơi đây, đẩy đủ, hàng trăm cái. Và giờ đây tôi trông thấy chúng, đắm mình với chúng, đề chúng tha hồ muốn làm gì tùy ý, tôi chìm vào địa ngục chạng vạng tươi vui của chúng. Cả sự cám dỗ mà Pablo đã đề nghị với tôi ngày nọ cũng đã trở lại cùng những cám dỗ khác, trước nữa, mà mà bấy giờ tôi không thật hiểu được lấy một lần, những trò chơi kỳ quái tay ba. tay tư, chúng mỉm cười kéo tôi vào màn luân vũ của chúng. Nhiều chuyện đã xảy ra, nhiều trò đã được chơi, không diễn tả nổi bằng lời.
Từ trong cái dòng vô tận của những cám dỗ, tật xấu, vướng mắc ấy tôi lại trồi lên, kín đáo, lặng lẽ, sẵn sàng, hiểu biết đầy đủ, sáng suốt, từng trải, đủ chín chắn cho Hermine. Nàng - khuôn mặt cuối cùng trong truyện thần thoại với cả nghìn nhân vật của tôi, cái tên cuối cùng trong loạt tên dài vô tận - xuất hiện, cùng lúc tôi sực tỉnh và chấm dứt chuyện tình ái hoang đường của mình, vì tôi không muốn gặp lại nàng ở đây trong cảnh tranh tối, tranh sáng của một tấm gương ảo thuật; không chỉ quân cờ nọ trên bàn cờ của tôi mới thuộc về nàng, mà toàn bộ gã Harry. A, bây giờ tôi sẽ biến đổi ván cờ của mình để tất cả đều tập trung vào nàng và trở thành hiện thực.
Dòng lưu chuyển đã đẩy tôi dạt vào đất liền, tôi lại đứng trong hành lang im ắng trước các ngăn lô của hí viện. Làm gì bây giờ đây? Tôi đưa tay nắn các quân cờ trong túi, nhưng lại bỏ ngay ý định này. Quanh tôi là thế giới vô tận của các cánh cửa, của các hàng chữ, của những tấm gương ma thuật. Tôi thờ ơ đọc hàng chữ gần nhất:
Làm cách nào giết người bằng tình yêu
mà rùng mình. Một hình ảnh vụt lóe lên gợi tôi nhớ lại trong tích tắc: chúng tôi đang ngồi trong nhà hàng, đột nhiên Hermine ngừng ăn uống, đắm chìm vào một cuộc trò chuyện bì hiểm; ánh mắt nàng cực kỳ nghiêm trang, khi bảo rằng nàng sẽ chỉ làm cho tôi sya mê để được giết bởi tay tôi. Một con sóng dữ của lo sợ và bóng tối tràn ngập hồn tôi, đột nhiên mọi sự lại thể hiện trước mặt tôi, đột nhiên tôi lại cảm thấy trong thâm tâm sự khổn quẫn và định mệnh. Tôi tuyệt vọng thọc tay vào túi áo móc quân cờ, để làm chút trò ảo thuật và sắp xếp lại trật tự trên bàn cờ của mình. Nhưng trong túi không còn quân cờ nào nữa. Thay vì quân cờ, tôi rút ra một con dao. Sợ hết vía, tôi chạy xuyên hành lang, qua các cánh cửa, rồi đột nhiên đứng trước tấm gương khổng lồ nọ, nhìn vào đấy. Trong gương có một con sói khổng lồ xinh đẹp, cao cỡ tôi, nó đứng im, đôi mắt lo lắng ánh lên vẻ rụt rè. Nó bừng bừng, nhấp nháy nhìn tôi, khẽ cười khiến hai mép hơi hở ra một lúc, lộ cái lưỡi đỏ lòm.
Pablo đâu rồi? Hermine đâu rồi? Cái gã thông thái giỏi tán huyên thuyên về tạo dựng nhân cách đâu rồi?
Tôi nhìn vào gương lần nữa. Hóa ra tôi vừa mới điên. Bây giờ chẳng thấy con sói nào đứng sau tấm gương cao, đảo lưỡi trong mõm cả. Trong gương chỉ có tôi, chỉ có Harry đang đứng, mặt mũi thê lương, bị mọi trò chơi bỏ rơi, mệt mỏi vì những thói hư tật xấu, nhợt nhạt một cách gớm ghiếc, nhưng dẫu sao vẫn là một con người, dẫu sao vẫn là ai đấy mà ta có thể trò chuyện được.
"Harry," tôi nói, "mi làm gì trong đấy thế?"
"Chẳng làm gì hết," gã trong gương đáp, "ta chờ đợi thôi. Ta chờ cái chết."
"Thế thì cái chết đang ở đâu?" tôi hỏi.
"Nó đang đến kìa," gã đáp. Và tôi nghe thấy từ những căn phòng trống trơ bên trong hí viện vang lên một điệu nhạc, tuyệt vời nhưng khủng khiếp, từ vở Don Juan[12], một điệu nhạc đệm cho sự xuất hiện của người khách nhẫn tâm. Những thanh âm lạnh như băng vang dội qua ngôi nhà ma quái; chúng đến từ cõi bên kia, cõi của những người bất tử.
"Mozart!" tôi thầm nghĩ và bằng cách đó thành kính khẩn cầu những hình ảnh thân yêu nhất và cáo quý nhất trong đời sống nội tâm của tôi.
Sau lưng tôi liền vang lêm một tiếng cười rộ, trong trẻo và lạnh giá, đến từ thế giới bên kia, một thế giới mà nhân gian chưa hề nghe nói tới, được những người từng hứng chịu khổ đau và tính hài hước của thần thánh tạo nên. Tôi quay ngoắt lại, toàn thân thể đông cứng và lâng lâng hạnh phúc bởi tiếng cười này. Mozart đang đi tới, ông vừa cười vừa đi qua trước mặt tôi, thản nhiên thong thả tiến lại một trong những cửa ngăn lộ, mở ra, bước vào và tôi hau háu đi theo ông, vị thần thời thanh xuân của tôi, đối tượng trọn đời của tình yêu và lòng ngưỡng mộ của tôi. Điệu nhạc vẫn tiếp tục ngân vang. Mozart đứng lại bao lơn ngăn lô; chẳng thấy chút gí của hí viện, bóng tối đã ngập tràn không gian mênh mông.
"Ông thấy đấy," Mozart nói, "không có kèn saxophone bản nhạc này nghe cũng vẫn được. Tôi không có ý chê thứ nhạc cụ tuyệt vời ấy đâu nhé."
"Chúng ta đang ở đâu vậy ạ?" tôi hỏi.
"Chúng ta đang ở hồi cuối của vở Don Giovanni, Leporello đã quỳ xuống rồi. Một màn tuyệt diệu, cả âm nhạc nghe cũng hay ho, thế đấy. Tuy nó vẫn còn chứa đựng bao thứ rất con người, nhưng từ đó người ta vẫn cảm nhận được cõi bên kia, cái tiếng cười ấy mà-nhỉ?"
"Đó là thứ âm nhạc vĩ đại cuối cùng đã được sáng tác," tôi trịnh trọng nói như một nhà giáo. "Tất  nhiên, còn có Schubert, còn có Hugo Wolf và tôi cũng không được phép quên Chopin[13] xuất sắc đáng thương. Cụ nhăn mặt, à vâng, thưa Maestro[14], có cả Beethoven nữa, ông ấy cũng tuyệt vời chứ. Nhưng tất cả những âm nhạc này, dù hay đến mấy, cũng hàm chứa gì đấy chưa thật hoàn hảo, hàm chứa sự bắt đầu tàn lụi. Sau vở Don Giovanni, chẳng còn ai tạo ra nổi một tác phẩm hoàn hảo như khuôn đúc nữa."
"Ông chẳng nên quá nhọc công khen ngợi," Mozart cười đầy giễu cợt. "Hẳn ông cũng là nhạc sĩ? Chà, tôi đã giải nghệ, đã về vườn rồi. Chỉ thỉnh thoảng xem họ sinh hoạt cho vui thôi."
Ông giơ cao hai tay như đang điều khiển dàn nhạc; đâu đấy trên bầu trời có mặt trăng hay một vì sao mờ xuất hiện; tôi nhìn qua bao lơn xuống không gian thăm thẳm, giăng bủa mây mù, mờ mờ núi non sông biển, bên dưới chúng tôi mênh mông một đồng bằng tựa sa mạc. Chúng tôi thấy trong đồng bằng ấy một ông già dáng dấp khả kính, râu dài, mặt mũi u sầu dẫn đầu một đoàn khổng lồ độ vài vạn dặm đàn ông y phục màu đen. Ông ta trông ủ đột và tuyệt vọng. Mozart bảo tôi:
"Ông nhìn kìa, Brashms đấy. Ông ta cố tìm kiếm sự giải thoát, nhưng còn phải chờ khá lâu nữa."
Mozart cho tôi biết rằng hết thảy hàng nghìn kẻ vận đồ đen kia, theo phán quyết của thần thánh, đều là những người đã chơi những nốt nhạc thừa trong các nhạc phổ liên hiệp của Brahms.
"Quá nhiều hòa âm, qua phung phí chất liệu," Mozart gật đầu.
Ngay sau đó chúng tôi thấy Richard Wagner dẫn đầu một đạo quân đông không kém và cảm thấy ông đã bị họ trì kéo ra sao, vì chính ông cũng mệt nhọc lê những bược chân của kẻ đầy cam chịu.
"Thời tôi còn trẻ," tôi buồn bã nhận xét, "hai nhạc sĩ này được xem là tương phản nhất."
Mozart cười.
"Phải, xưa  nay đều thế cả. Nhìn từ một khoảng cách nào đấy, sẽ thấy rằng những tương phản này luôn trở nên giống nhau hơn. Vả chăng, việc hòa âm thừa thãi này không phải là lỗi của cá nhân Wagner hay Brahms, mà một nhầm lẫn của thời đại họ."
"Sao ạ? Và vì vậy mà nay họa phải chuộc tội nặng đến thế ư?" tôi lớn tiếng kết án.
"Tất nhiên. Đó là thứ tự theo đúng thủ tục mà. Chỉ sau khi họ trả hết món nợ của thời đại họ rồi thì mới biết cá nhân họ còn nợ bao nhiều và có đáng phải trả hay không."
"Nhưng cả hai người này đâu thể chịu trách nhiệm về chuyện đó được!"
"Tất nhiên là không. Họ cũng đâu chịu trách nhiệm về chuyện ông Adam ăn quả táo, thế nhưng họ vẫn cứ phải chuộc tội[15]."
"Khủng khiếp quá."
"Đương nhiên, cuộc đời luôn khủng khiếp mà. Chúng ta không thể làm gì khác, nhưng vẫn cứ phải chịu trách nhiệm. Người ta sinh ra là đã mang sẵn tội lỗi rồi. Nếu ông không biết điều này thì hẳn ông đã được học thứ giáo lý kỳ quái."
Tôi chán chường quá. Tôi nhìn thấy chính tôi, một kẻ hành hương mệt lả, lê lết qua sa mạc của thế giới bên kia, vác đầy những quyển sách vô dụng mình đã viết, những bài luận thuyết, những chuyện đăng báo nhiều ký, theo sau là đội quân sắp chữ đã lên khuôn những thứ ấy và đội quân độc giả, những người đã phải nuốt hết thảy mọi thứ này. Chúa ơi! Ngoài ra còn Adam với quả táo và đủ mọi tội tổ tông khác nữa. Phải chuộc tội hết, nghĩa là tôi sẽ phải ở trong luyện ngục đời đời kiếp kiếp; chỉ sau đó mới nảy sinh câu hỏi không biết phía sau tất cả những điều này có còn chút gì cá nhân, chút gì riêng tư chăng, hay mọi việc tôi làm cùng các hậu quả của chúng chỉ như bọt nước rỗng tuếch trên biển cả, là trò đùa vô nghĩa trong dòng sự kiện.
Thấy tôi đờ mặt, Mozart cười ồ. Rồi ông vừa nhảy cẫng lên, hai chân đập vào nhau như một nốt nhạc láy, vừa quát: "Ê, nhóc con, á khẩu rồi a, nghẹt thở rồi à? Chú mày đang nghĩ đến độc giả, đến lũ xỏ lá, đến đám giả trá? đến bọn sắp chữ, đến bọn dị giáo thú dữ, đến bọn xúc xiểm khốn nạn, đến bọn mài gươm hại bạn? Thật khôi hài, chú mày cóc có tài, chỉ bốc phét, miệng cứ luôn quang quác! Chú mày đùa nhảm nhí, chú mày châm chọc, nhưng chú mày chỉ là thằng ngốc. Chúa đã ban lệnh, chú mày sẽ bị quỷ trừng phạt, vì chú mày viết lách dở òm, toàn ba đía, ba sám, chỉ 'đạo văn' là nhất!"
Thật quá đáng! Cơn giận dữ khiến tôi quên phắt u sầu. Tôi chụp bím tóc của Mozart, ông ta bắn tung lên trời, bím tóc cứ dài thêm, dài thêm, tựa đuôi sao chổi và tôi bị xoay tít trong vũ trụ. Mẹ kiếp, thế giới này lạnh khiếp! Những người bất tử này chịu nổi một bầu không khí giá lạnh và loãng ghê gớm. Nhưng bầu không khí lạnh giá này thật thú vị, tôi còn cảm thấy như thế trong khoảnh khắc ngắn ngủi nọ, trước khi bất tỉnh. Một niềm hân hoan, một ham muốn giá băng, sắc buốt, ngời như thép xuyên qua tôi, tôi khao khát cười, cũng trong trẻo, dữ dội và siêu phàm như Mozart đã cười. Nhưng rồi tôi ngộp thở và ngất đi.
Tôi hồi tỉnh, hoang mang và mệt lả. Làn ánh sáng trắng nơi hành lang phản chiếu trên mặt sàn bóng láng. Tôi không, tôi chưa ở giữa những người bất tử. Tôi vẫn còn ở thế giới bên này, thế giời của những điều bí ẩn, khổ đau, những sói thảo nguyên, những rối rắm đầy dằn vặt. Đây không phải là nơi đất lành, là chốn dung thân được. Phải chấm dứt! Harry đang đứng đối diện tôi trong tấm gương lớn sát tường. Hắn trông không được vui, chẳng khác buổi tối nọ bao nhiêu, sau chuyến viếng thăm ông giáo sư và ghé quán Đại Bàng Đen nhìn người ta khiêu vũ. Nhưng chuyện này qua lâu lắm rồi, đã nhiều năm, nhiều thế kỷ. Harry đã già đi; hắn đã học khiêu vũ, đã đến coi Hí viện ma thuật, đã nghe Mozart cười, đã không còn sợ những buổi khiêu vũ, những người đàn bà, những con dao nữa. Được trải đời đôi ba thế kỷ thì một kẻ tầm thường cũng thành chín chắn. Tôi ngắm nhìn Harry trong gương thật lâu: tôi vẫn còn biết rõ hắn mà, hắn vẫn hao hao giống gã Harry mười lăm tuổi đã gặp Rosa trên sườn núi đá vào ngày Chủ Nhật tháng Ba và đã ngả chiếc mũi đội nhân dịp lễ kiên tín để chào nàng. Thế nhưng từ đó hắn đã già đi vài trăm tuổi, đã theo đòi âm nhạc cùng triết lý rồi chán ngấy, đã nhậu vang Alsace trong quán Mũ Sắt và bàn luận với những học giả hồn hậu về Krishna, đã yêu Erika và Maria, đã thành bạn trai của Hermine, đã nã đạn vào ô tô và đã ngủ với cô gái Trung Hoa mỡ màng, đã gặp được Goethe với Mozart, đã xé toạc nhiều lỗ hổng trong tấm lưới thời gian và thực tại ảo mà hắn còn bị giam hãm trong đó. Dù đã mất những quân cờ xinh xinh, nhưng hắn vẫn còn một con dao sắc trong túi áo. Tiến lên, hỡi Harry già nua, hỡi lão già mệt mỏi!
Mẹ kiếp! Cuộc đời mới cay đắng làm sao! Tôi nhổ nước bọt vào Harry trong gương, tôi đạp vào hắn và giẫm nát hắn. Tôi chậm chạp bước qua hành lang vang vọng âm thanh, chăm chú nhìn những cánh cửa đã hứa hẹn biết bao điều thú vị: không cánh cửa nào còn mang một hàng chữ! Tôi chậm rãi bước qua cả trăm cánh cửa của Hí viện ma thuật. Không phải tối nay tôi đã dự một dạ vũ hóa trang sao? Từ đó đến nay đã trăm năm trôi qua rồi. Chẳng bao lâu sẽ chẳng còn năm với tháng nữa. Nhưng hãy còn chút việc cần làm. Hermine vẫn đang đợi. Sẽ là một đám cưới kỳ quái. Tôi bơi bừa đi trong một làn sóng u sầu, bị cuốn trong cơn sóng buồn thảm, tôi, một kẻ nô lệ, một con sói thảo nguyên. Bố khỉ!
Tôi dừng lại trước cánh cửa cuối cùng. Cơn sóng u sầu đã lôi tôi đến đấy. Ôi Rosa, ôi thời thanh xuân xa hút, ôi Goethe và Mozart!
Tôi mở cửa. Cảnh tượng phía sau đơn giản mà đẹp đẽ. Tôi thấy hai người lõa lồ nằm trên thảm, Hermine đẹp gái và Pablo điển trai, kề bên nhau, mê mệt ngủ, kiệt sức sau trò ân ái, thứ trò chơi dường như không thể l&agra tìm ra một kỹ thuật chính xác để lột trần ảo tưởng về cá tính. Trò đùa của nhân loại thật vui nhộn và muôn hình thái: cái ảo tưởng mà Ấn Độ đã nỗ lực cả nghìn năm để lột trần lại chính là thứ mà phương Tây đã đổ ra cũng ngần ấy công sức để duy trì và khiến nó mạnh thêm.
Quan sát Sói Thảo Nguyên từ quan điểm này, chúng ta sẽ rõ vì sao hắn lại đau khổ quá mức đến thế dưới tính nhị phân lố bịch của hắn. Hắn nghĩ, giống như Faust, rằng một lồng ngực duy nhất cho hai linh hồn là quá nhiều và lồng ngực đó sẽ phải vỡ tan. Nhưng ngược lại, hai linh hồn là quá ít, và Harry đã làm tình làm tội linh hồn khốn khổ của hắn, khi cố tìm hiểu nó qua một hình ảnh quá đơn giản như thế. Tuy kiến thức cao, nhưng Harry hành động chẳng khác một kẻ mọi rợ không đếm nổi quá số hai. Hắn gọi một phần của mình là người, phần kia là sói, cho như thế là rốt ráo và nghĩ cạn hết rồi. Trong phần “người” hắn nhét mọi thứ trí tuệ, siêu việt hoặc có văn hóa mà hắn phát hiện nơi hắn, còn trong phần “sói” mọi thứ mang bản năng, hoang dã và hỗn loạn. Nhưng sự việc trong cuộc đời không đơn giản như trong suy nghĩ hoặc thô thiển như thứ ngôn ngữ khốn khổ của chúng ta, thành ra Harry đã tự dối lòng đến hai lần, khi hắn sử dụng phương cách sói mọi rợ này. Harry gán ghép cho “con người”, chúng ta e là như thế, trọn nhiều vùng của linh hồn hắn, những vùng còn lâu mới thuộc về con người, và cho “sói” nhiều phần trong bản chất hắn, những phần đã từ lâu không thuộc về sói nữa.
Như mọi người, Harry tin rằng biết rất rõ con người là gì, nhưng lại hoàn toàn chẳng biết gì cả, cho dù không hiếm khi hắn linh cảm thấy điều ấy trong những giấc mơ và những trạng thái ý thức khó kiểm soát nào khác. Giá như hắn không quên những linh cảm ấy, giá như hắn cố hết sức biến chúng thành của riêng! Con người không phải một cấu thành cố định và bền vững (điều này là lý tưởng của thời cổ đại, bất chấp những ước đoán trái ngược của các bậc thông thái thời bấy giờ), ngược lại y là một thử nghiệm và bước chuyển tiếp; y không là gì khác hơn một cây cầu chật hẹp, nguy hiểm nối thiên nhiên với tinh thần. Sứ mạng thâm sâu hướng y tới tinh thần, tới Chúa; còn khát vọng thâm sâu lại kéo y trở về với tự nhiên, với Mẹ nguyên thủy: cuộc đời y đung đưa đầy run sợ giữa hai thế lực ấy. Cái mà con người ta hiểu về khái niệm “người” luôn luôn chỉ là một quy ước nhất thời của giới trưởng giả. Quy ước này gạt bỏ và tẩy chay một số bản năng thô bạo nhất, nó đòi hỏi một chút ý thức, lối cư xử văn hóa và phi thú-vật-hóa, nó không chỉ cho phép mà thậm chí còn khuyến khích một chút trí tuệ. “Con người” của quy ước này, như mọi lý tưởng trưởng giả, là một thỏa hiệp, một thử nghiệm rụt rè và ngây thơ ranh mãnh, vừa để lừa bịp tổ mẫu cáu kỉnh - thiên nhiên - cùng tổ phụ phiền nhiễu - tinh thần - trước những đòi hỏi gắt gao của họ, vừa để sống tạm gọi là trung dung giữa hai đấng ấy. Vì thế kẻ trưởng giả cho phép và dung túng cái y gọi là “nhân cách”, nhưng đồng thời lại trao nhân cách ấy cho thế lực độc ác “Nhà nước” và liên tục dùng chúng chống lại nhau. Cho nên hôm nay người trưởng giả thiêu kẻ bị xem là tà đạo, treo cổ kẻ bị coi là tội phạm, song ngày mai lại dựng tượng đài tưởng niệm họ.
Chính Sói Thảo Nguyên cũng linh cảm rằng “Con người” chưa phải là một tạo vật đã hoàn tất mà là một thách thức của tinh thần, một khả thể xa xôi đáng khát khao lẫn đáng sợ và luôn chỉ có thể đi tới đó từng đoạn ngắn, dưới những đau khổ kinh hoàng và những giây phút xuất thần, kể cả đối với những cá nhân hiếm hoi mà hôm nay người ta dựng đoạn đầu đài, ngày mai dựng tượng đài tưởng niệm. Nhưng cái mà hắn gọi là “người” trong hắn, đối nghịch với phần “sói”, phần lớn chẳng là gì khác hơn chính cái ước lệ trưởng giả tầm thường nọ. Tuy Harry có thể đã mường tượng được khá rõ con đường đưa đến con người đích thực, con đường dẫn tới những kẻ bất tử và hắn ngập ngừng bước chỗ này chỗ nọ một đoạn ngắn ngủi, để rồi trả giá bằng nhiều khổ sở và cô đơn đau đớn, nhưng tự đáy tâm hồn hắn lại sợ sự thách thức cao nhất kia, không dám chấp nhận và nỗ lực vươn tới trở thành con người đích thực mà tinh thần đang tìm kiếm, không dám đi con đường chật hẹp duy nhất đưa tới sự bất tử. Hắn cảm thấy rất rõ: điều đó sẽ dẫn tới những khổ đau hơn, tới sự tẩy chay, tới sự từ khước cuối cùng, có thể tới đoạn đầu đài nữa; và cho dù sự bất tử đang nhử hắn ở cuối con đường này, hắn vẫn không sẵn lòng hứng chịu mọi đớn đau nọ, chết mọi cái chết kia. Dù hắn ý thức hơn kẻ trưởng giả về mục tiêu của sự trở thành con người đích thực, hắn vẫn nhắm mắt không muốn biết rằng việc bám víu tuyệt vọng vào Cái Tôi, bám víu tuyệt vọng vào sự tham sống chính là con đường chắc chắn nhất để dẫn đến cái chết đời đời, trong khi việc có thể chết, việc rũ sạch mọi lớp màn che đậy, vĩnh viễn dâng hiến Cái Tôi cho sự chuyển hóa lại đưa tới sự bất tử. Khi hắn tôn thờ những người hắn yêu quý trong những kẻ bất tử, chẳng hạn Mozart, thì rút cuộc hắn vẫn luôn đánh giá ông bằng đôi mắt của kẻ trưởng giả và có khuynh hướng, như một thầy giáo, giải thích sự toàn mỹ của Mozart chỉ là nhờ thiên bẩm đặc biệt cao vời, thay vì do tầm vóc của sự dâng hiến và sẵn sàng chấp nhận khổ đau của ông, do sự thờ ơ của ông đối với những lý tưởng của kẻ trưởng giả, do sự chịu đựng nỗi cô đơn cùng cực của ông, nỗi cô đơn hòa loãng mọi bầu không khí trưởng giả thành lớp ê te băng giá quanh những kẻ đau khổ, những kẻ hóa thân thành người, nỗi cô đơn trong vườn Gethsemane(11).
Dẫu sao Sói Thảo Nguyên của chúng ta ít ra cũng đã phát hiện ra bản chất kép như ở nhân vật Faust trong con người hắn, hắn đã khám phá ra rằng trong nhất thể của hình hài hắn không trú ngụ một nhất thể của tâm hồn, mà giỏi lắm thì hắn mới đang trên con đường dài hành hương tới lý tưởng của sự hòa đồng này thôi. Hắn muốn chế ngự con sói trong mình và hoàn toàn trở thành con người, hoặc từ khước phần người và ít nhất sống một cuộc sống trọn vẹn như sói, không bị phân hóa. Có lẽ hắn chưa từng quan sát kỹ một con sói thật sự, vì nếu có, hẳn hắn đã thấy rằng loài vật cũng không có linh hồn nhất thể; dưới vóc dáng căng lẳn, đẹp đẽ của tấm thân chúng cũng có vô vàn khát vọng cùng trạng thái; trong lòng sói cũng đầy rẫy đau khổ và vực thẳm. Không, “Trở về với tự nhiên!” nghĩa là con người luôn theo con đường lầm lạc đầy đau khổ và vô vọng. Harry chẳng bao giờ hoàn toàn trở thành sói lại được nữa, và nếu có, hẳn hắn sẽ thấy rằng ngay cả sói cũng không phải là gì đơn giản và sơ khai, mà đã rất đa dạng và phức tạp. Cả con sói cũng có hai hay nhiều linh hồn hơn nữa trong lồng ngực nó và ai ao ước được thành sói hẳn cũng đã lãng quên như người đàn ông trong bài hát “Ôi, sung sướng sao còn được là một đứa trẻ!” Người đàn ông đáng mến nhưng đa cảm hát bài ca này, về những đứa trẻ hạnh phúc, là kẻ cũng ước mong trở về với tự nhiên, với sự ngây thơ trong trắng, với những thuở ban đầu và quên bẵng rằng trẻ thơ chẳng hạnh phúc chút nào, mà có thể chúng phải chịu bao tranh chấp, bao mâu thuẫn tự thân và mọi đau khổ khác.
Hoàn toàn không có con đường trở về nào, dù trở về với sói hay trẻ thơ. Khởi thủy của sự vật không phải là thơ ngây và chất phác; mọi tạo vật, kể cả thứ dường như đơn giản nhất, đều đã mang tội lỗi, đều đã đa dạng, đều đã bị quăng vào dòng lưu chuyển bẩn thỉu của sự biến dịch và không bao giờ, không bao giờ bơi ngược dòng được nữa. Con đường đưa tới ngây thơ, tới trạng thái chưa được tạo dựng, tới Chúa không quay ngược, mà đi tới, không trở về với sói hay trẻ thơ, mà mãi dấn sâu vào trong tội lỗi, vào sự thành người. Sói Thảo Nguyên đáng thương ơi, dù mi tự sát cũng chẳng giúp ích thật sự gì cho mi đâu, mi sẽ phải đi suốt chặng đường lê thê, nhọc nhằn và vất vả để thành người, mi sẽ còn phải thường xuyên nhân lên bội phần cái bản chất kép của mi, phức tạp hóa nhiều hơn nữa sự phức tạp của mi. Thay vì thu hẹp thế giới của mình, đơn giản hóa linh hồn mình, mi sẽ phải nhận thêm, cuối cùng phải thu nhận cả thế giới vào trong linh hồn đau đớn nới rộng của mi, để may ra được một lần kết thúc, được nghỉ ngơi. Đức Phật đã đi con đường này, mọi vĩ nhân cũng đều theo con đường này, người ý thức, kẻ không, bao lâu họ gặp may với sự táo bạo ấy. Mọi sinh nở đều có nghĩa chia lìa với toàn thể, có nghĩa xác định ranh giới, tách rời khỏi Chúa, có nghĩa một sự tạo dựng mới đầy đau khổ. Trở về với cái toàn thể, giải thoát sự cá nhân hóa đầy khổ lụy, hòa nhập với Chúa có nghĩa là mở rộng tâm hồn cho đến khi nó lại có thể ôm tròn cái toàn thể.
Đây không phải nói về con người mà nhà trường, nền kinh tế quốc dân, sự thống kê vốn biết, cũng không nói về con người như hàng triệu kẻ đang ngược xuôi trên đường phố, chẳng khác cát trong biển cả hay những tia nước của ngọn sóng xô bờ; hơn kém vài triệu chẳng nghĩa lý gì, họ là vật liệu, thế thôi. Không, ở đây chúng ta nói về những con người theo nghĩa cao hơn, về mục đích của con đường trở thành người dài tít tắp, về những con người vương giả, về những kẻ bất tử. Bậc thiên tài không hiếm như chúng ta thường vẫn tưởng, tất nhiên cũng không quá sẵn như văn học sử và sử thế giới hoặc thậm chí báo chí hằng ngày vẫn nghĩ. Sói Thảo Nguyên Harry, theo chúng ta thấy, có lẽ đủ thiên tài để bạo dạn thử trở thành con người đích thực, thay vì mỗi khi gặp khó khăn lại than thở, viện cớ là con sói thảo nguyên ngu xuẩn.
Thật quá đỗi ngạc nhiên và nản chí khi những con người với khả năng như thế lại phải cầu cứu đến những con sói thảo nguyên cùng kiểu than van “Hai linh hồn, chao ơi!” như họ quá thường bày tỏ thứ luyến ái hèn nhát nọ với nếp sống trưởng giả. Một người có khả năng hiểu được Đức Phật, một người có được linh cảm về cõi trời và những vực thẳm của nhân loại không nên sống trong một thế giới ngự trị bởi lý trí của con người lành mạnh, chế độ dân chủ và nền giáo dục trưởng giả. Y sống trong đó chỉ vì hèn nhát và khi bị tầm cỡ của y thúc ép, khi căn phòng trưởng giả chật hẹp trở nên quá tù túng với y, y liền đổ lỗi cho phần “sói” chứ không chịu hiểu rằng đôi khi con sói là phần đáng quý nhất của mình. Y gọi tất cả những gì hoang dại trong bản thân là sói, coi đó là xấu xa, nguy hiểm, là con ngáo ộp của giới trưởng giả - nhưng mà y, tưởng mình là một nghệ sĩ và có nhận xét tinh tế, lại không nhận ra nổi rằng ngoài con sói, phía sau con sói, còn nhiều con vật khác sống trong y, rằng không phải hễ thứ gì cắn đều là sói cả, vì ở đó còn có cả chồn, rồng, cọp, khỉ và chim thiên đường(12) sống nữa. Hệt như y không thấy được rằng cả thế giới này, hết thảy các vườn địa đàng này với những hình thù xinh đẹp hoặc đáng sợ, lớn hay nhỏ, mạnh mẽ hay yểu điệu đều bị đè bẹp và giam hãm bởi câu chuyện ngụ ngôn về con sói, giống như con người đích thực trong y bị con người giả mạo - kẻ trưởng giả - đè bẹp và giam hãm.
Ta thử hình dung một khu vườn với hàng trăm loại cây, hàng nghìn loại hoa, hàng trăm loại trái, hàng trăm loại rau cỏ. Giả dụ người làm vườn chỉ phân biệt nổi chúng thành loại “ăn được” và “cỏ dại”, thì y sẽ chẳng biết nên làm gì với chín phần mười thửa vườn, y sẽ nhổ phăng những bông hoa tuyệt trần nhất, sẽ đốn trụi những cây quý nhất, hoặc sẽ ghét bỏ và lườm nguýt chúng. Sói Thảo Nguyên cũng cư xử y như thế với hàng nghìn đóa hoa trong tâm hồn hắn. Cái gì không thích hợp với phạm trù “con người” hoặc “sói” hắn đều không nhìn thấy. Và còn có gì mà hắn chẳng xếp vào cho “con người”! Tất cả những trò hèn nhát, ngớ ngẩn như khỉ, mọi trò ngu muội và bần tiện hắn đều gán cho “con người”, miễn không có vẻ sói, cũng như hắn quy cho con sói mọi thứ mạnh mẽ và cao quý, chỉ vì hắn chưa thành công trong việc làm chủ được nó.
Chúng ta tạm biệt Harry ở đây, để mặc hắn một mình đi tiếp con đường của hắn. Giả thử hắn tới được cõi những người bất tử rồi, giả thử hắn đã đạt đến đích mà con đường khó nhọc của hắn dường như hướng tới thì hắn sẽ kinh ngạc ra sao khi nhìn lại con đường quanh co khúc khuỷu mà hắn đã hết đi tới lại đi lui, lung tung, do dự và hắn sẽ động viên, trách mắng, cảm thông, cười cợt con sói ấy như thế nào!
Đọc xong, tôi sực nhớ mấy tuần trước có lần đã viết một bài thơ khá kỳ lạ cũng nói về Sói Thảo Nguyên, nên lục tìm trong đống giấy má trên cái bàn đầy nhóc. Thấy rồi tôi liền đọc:
Ta, Sói Thảo Nguyên, ruổi rong, rong ruổi
Thế gian đầy tuyết,
Từ cây bạch dương con quạ vỗ cánh bay lên,
Nhưng chẳng thấy đâu một bóng thỏ, một dáng nai!
Ta vốn khoái nai tơ,
Phải chi vớ được một con!
Ta sẽ ghì nó trong nanh, quặp nó trong chân,
Chẳng còn gì tuyệt vời hơn thế.
Ta sẽ hết lòng trân trọng con thú yêu kiều,
Ta bập thật sâu vào bắp chân mảnh khảnh,
Uống no nê dòng máu đỏ tươi,
Để rồi sau đó ta cô đơn tru suốt đêm trường.
Dù chỉ vớ được một con thỏ thôi, ta cũng hài lòng,
Trong đêm tối, thịt nó ấm nên vẫn ngọt.
Chao ơi, chẳng lẽ mọi thứ đều đã rời bỏ ta,
Những thứ khiến cuộc đời vui thêm chút ít?
Lông đuôi ta đã bạc rồi,
Mắt ta cũng không còn thật tinh tường nữa,
Vài năm trước vợ yêu của ta đã lìa đời.
Giờ đây ta lang thang và mơ đến những con nai,
Lang thang và mơ đến những con thỏ,
Nghe gió hú trong đêm đông,
Ta nuốt tuyết hầu làm dịu họng ta cháy bỏng,
Và mang cho quỷ dữ linh hồn khốn khổ của ta.
Thế là tôi có trong tay hai bức chân dung của chính mình, một bức tự họa qua những vần thơ nghe như chọc vào tai, buồn rầu và hãi sợ như bản thân tôi, bức kia lạnh lùng, mang vẻ hết sức khách quan của một kẻ ngoài cuộc, nhìn từ bên ngoài lẫn bên trên, viết do một người biết nhiều song lại ít hơn tôi biết về chính mình. Cả hai bức chân dung này, bài thơ u buồn, ấp a ấp úng của tôi lẫn bài khảo cứu sáng suốt của một kẻ ẩn danh, đều làm tôi đau đớn; cả hai bài đều chí lý, đều lột trần sự hiện hữu thê lương, đều vạch rõ tình trạng khôn kham và bất ổn của tôi. Gã Sói Thảo Nguyên này phải chết, hắn phải tự tay kết liễu sự hiện hữu đáng ghét của mình hoặc - do tan chảy trong lò lửa luyện ngục của sự tái chiêm nghiệm mình - hắn phải biến cải, gỡ bỏ mặt nạ và thực hiện công cuộc trở thành một Cái Tôi mới. Chao ơi, quy trình này nào phải mới mẻ hay xa lạ gì đối với tôi; tôi biết nó mà, tôi đã trải qua nhiều lần rồi, lần nào cũng đều trong những giai đoạn tuyệt vọng tột cùng. Lần nào Cái Tôi ở thời kỳ ấy cũng vỡ tan thành muôn mảnh, khi sự cố bị đào xới tàn tệ; lần nào nó cũng đều bị những sức mạnh sâu kín lung lay và hủy hoại, lần nào cũng có một khoảng đời được chăm chút và đặc biệt yêu dấu của tôi phản bội tôi, bỏ đi không tăm tích. Một lần tôi đã mất đi cái thanh danh trưởng giả cùng tài sản của mình và đã phải học khước từ lòng kính trọng của những kẻ cho đến lúc ấy vẫn ngả mũ chào tôi. Một lần khác, chỉ trong một đêm cuộc sống gia đình của tôi sụp đổ; người vợ bị bệnh tâm thần của tôi(13) đã xua đuổi tôi ra khỏi mái nhà êm ấm; tình yêu và lòng tin cậy đột nhiên biến thành thù hận và cãi nhau chí tử; láng giềng nhìn theo tôi thương hại và khinh bỉ. Sự cô đơn của tôi bắt đầu từ ngày ấy. Rồi sau nhiều năm, sau nhiều năm vô cùng cay đắng, trong sự cô đơn ghê gớm và kỷ luật tự giác gian khổ tôi xây dựng được cho mình một cuộc sống cùng lý tưởng khổ hạnh và trí thức mới, đời tôi đã lại đi lên và đạt một mức bình yên nào đấy, tôi say mê luyện tập suy nghĩ trừu tượng và nhập định theo quy tắc nghiêm ngặt, thì cung cách sống mới này cũng lại sụp đổ và đột nhiên mất đi ý nghĩa cao cả của nó; tôi lại bị lôi kéo vào những chuyến du lịch rất căng thẳng trên thế gian này, đau khổ mới và tội lỗi mới chất chồng. Và lần nào cũng thế, trước khi một mặt nạ bị lột bỏ, một lý tưởng sụp đổ, tôi đều phải trải qua tình trạng trống rỗng và thanh thản rùng rợn này, cái địa ngục hoang vu trống trải này của sự không có tình yêu và tuyệt vọng, như giờ đây tôi lại phải vượt qua.
Không thể phủ nhận là cứ mỗi khi cuộc đời mình bị chấn động như thế thì rốt cục tôi cũng đều đã đạt được chút gì đấy, một chút tự do, trí tuệ, thâm trầm, cả sự cô quạnh nữa, cả tình trạng không ai hiểu mình và sự nguội lạnh. Nhìn từ phía kẻ trưởng giả thì cuộc đời tôi sa sút không ngừng, từ lần chấn động này qua lần chấn động khác, ngày càng cách xa cái bình thường, cái được phép, cái lành mạnh. Suốt nhiều năm tôi trở thành kẻ vô nghề nghiệp, không gia đình, không quê hương, sống bên ngoài mọi phe nhóm, mọi giới xã hội, đơn độc, chẳng ai yêu thương, bị nhiều kẻ nghi ngờ, không ngừng xung đột gay gắt với công luận cùng đạo đức và mặc dù vẫn sống trong khuôn khổ trưởng giả, tôi vẫn là kẻ xa lạ ngay giữa thế giới này do tất cả cách rung cảm và suy nghĩ của mình. Tôn giáo, Tổ quốc, gia đình, Nhà nước đều đã mất giá trị đối với tôi và chẳng liên quan gì tới tôi nữa; sự quan trọng hóa của khoa học, của những phường hội, của các nghệ thuật làm tôi ghê tởm; những quan điểm của tôi, những thị hiếu, mọi suy nghĩ của tôi, những điều ngày trước từng khiến tôi nổi bật là một kẻ tài hoa và được hâm mộ, nay bị nghi ngờ, trở nên tàn lụi. Cứ cho là tôi đã gặt hái được một điều gì vô hình và không thể cân đong qua mọi cuộc hóa thân đau khổ đến thế của mình, thì tôi cũng đã phải trả giá đắt và cuộc đời tôi càng trở nên gian khổ hơn, khó khăn hơn, cô đơn hơn và hiểm nghèo hơn từ lần này qua lần khác. Thật ra tôi chẳng có lý do gì để ước mong tiếp tục theo con đường này, nó chỉ dẫn tôi tới những bầu không khí loãng hơn, giống như làn khói trong bài thơ Herbstlied - Ca khúc mùa thu của Nietzsche.
À vâng, tôi biết những sự kiện này, những sự hóa thân này, những thứ mà định mệnh dành cho bầy con đã gây cho nó nhiều lo âu, bầy con khó nuôi của nó, tôi biết chúng rõ lắm. Tôi biết chúng như một kẻ đi săn, đầy tham vọng nhưng thất bại, có thể biết về những chặng đường của cuộc săn, như một người chơi chứng khoán lão luyện có thể biết về những giai đoạn của việc đầu cơ, của lợi nhuận, của thị trường bất ổn, của biến động giá cả và của sự phá sản. Tôi có nên thực sự trải qua một lần nữa mọi điều ấy không? Lại trải qua mọi giày vò ấy, mọi cùng quẫn kinh hoàng ấy, mọi điều trông thấy về sự thấp hèn và vô tích sự của bản ngã tôi, mọi khủng khiếp trước sự thua cuộc, mọi sợ hãi trước cái chết? Chẳng phải là khôn ngoan và đơn giản hơn ư, khi ta lẩn tránh? Hẳn rồi, như thế là khôn ngoan và đơn giản hơn. Mặc cho những điều viết về những “kẻ tự sát” trong tập sách mỏng về Sói Thảo Nguyên đúng hay sai, không ai có thể ngăn cản tôi thú vui dùng thán khí, dao cạo hay súng ngắn để khỏi phải lập lại một quy trình mà quả thật tôi đã phải nếm trải quá thường và quá nhiều sự giày vò cay đắng của nó. Không, quỷ thần ơi, chẳng thế lực nào trên thế gian này có thể đòi hỏi tôi phải chịu đựng thêm lần nữa những ớn lạnh chết người của cuộc gặp gỡ chính mình, thêm một lần tái tạo mới, một sự đầu thai mới mà mục tiêu và cứu cánh của nó không phải là yên bình và thư thái, mà luôn chỉ là sự tự hủy diệt mới, luôn chỉ là sự tự tạo dựng mới! Mặc cho việc tự sát là ngu xuẩn, hèn nhát và đáng khinh, mặc cho nó là một lối thoát không vẻ vang và đầy nhục nhã, để ra khỏi luyện ngục của sự đau khổ này thì mọi lối thoát, dù hèn hạ nhất cũng đáng được tha thiết ước ao; nơi đây không còn chỗ nào nữa cho vở kịch mang tính hào hiệp cao thượng và chủ nghĩa anh hùng, nơi đây tôi bị đặt trước một chọn lựa đơn giản giữa sự đau đớn nhỏ nhoi, thoáng qua và nỗi khổ đau vô hạn, nóng bỏng không tưởng tượng nổi. Trong cuộc đời gian khổ và cuồng điên đến thế của mình tôi đã quá thường đóng vai Don Quichotte(14) cao quý, đã chuộng danh dự hơn thoải mái, chủ nghĩa anh hùng hơn lý trí. Đủ rồi và phải chấm dứt thôi!
Cuối cùng, khi tôi đi nằm, buổi sáng đã lấp ló qua khung kính cửa sổ, cái buổi sáng màu chì, đáng nguyền rủa của một ngày mưa gió mùa đông. Tôi mang theo vào giường điều quyết định của mình. Nhưng tệ hại thay, đúng lúc tôi vừa thiếp đi, thì ở ranh giới cuối cùng của ý thức, cái đoạn lạ lùng nói về “những kẻ bất tử” chợt lóe lên một tích tắc trong tôi, khiến tôi nhớ lại trong chớp mắt rằng thỉnh thoảng - và vừa mới đây thôi - tôi cảm thấy đã đủ gần những kẻ bất tử để cùng thưởng thức trong một nhịp của khúc nhạc cổ điển tất cả sự thông tuệ lạnh lùng, sáng láng cùng nụ cười khắt khe của họ. Điều tôi nhớ lại ấy hiện ra, ngời sáng, rồi tắt ngấm và giấc ngủ đè lên trán tôi như một quả núi nặng nề.
Quãng gần trưa tôi thức dậy thì cái tình trạng đã được làm sáng tỏ kia lại ập ngay đến với tôi; tập sách nhỏ cùng với bài thơ của tôi nằm trên chiếc bàn ngủ; cái quyết định - đã định hình trọn vẹn và chắc chắn trong giấc ngủ hồi đêm - vui vẻ và điềm tĩnh nhìn tôi từ sự hỗn loạn trong cuộc sống mới đây của tôi. Gấp gáp nhưng không vội vàng! Quyết định tự sát của tôi không phải chuyện bốc đồng trong một giờ, mà là một trái chín, để lâu được; nó lớn từ từ và nặng dần, khẽ đung đưa theo ngọn gió định mệnh và sẽ rụng rơi trong làn gió sắp tới.
Tôi có trong túi thuốc du lịch một phương tiện tuyệt vời để làm dịu đớn đau: thuốc phiện được pha chế cực mạnh mà tôi thường giữ cả tháng, rất hiếm khi dám đụng tới; tôi chỉ dùng thứ thuốc gây mê nặng này khi bị những đau đớn thể xác hành hạ tới mức chịu không nổi. Nhưng tiếc thay nó lại không thích hợp để tự tử; nhiều năm trước tôi đã có lần thử rồi. Hồi đó, khi lại bị tuyệt vọng bủa vây, tôi đã nuốt một lượng kha khá, đủ để giết sáu người, thế mà nó chẳng giết được tôi. Tuy tôi có thiếp đi và hoàn toàn mê man trong nhiều giờ, nhưng cực kỳ thất vọng khi mơ màng tỉnh dậy vì bao tử quặn thắt dữ dội, tôi nôn ra hết thứ thuốc độc kia, song không tỉnh hoàn toàn và lại thiếp đi; mãi trưa hôm sau mới tỉnh hẳn, tỉnh táo khủng khiếp, đầu óc trống rỗng, cháy rụi và hầu như mất sạch trí nhớ. Nhưng chất độc này chẳng để lại di chứng nào, trừ một thời kỳ tôi bị mất ngủ và những cơn đau bao tử làm tình làm tội.
Nghĩa là không thể dùng thứ thuốc ấy được rồi. Nhưng bây giờ tôi quyết định cụ thể như sau: ngay khi lại xảy ra tình trạng khiến phải dùng đến thứ thuốc chế biến từ nha phiến này, thì thay vì một sự giải thoát ngắn ngủi tôi sẽ cho phép mình nhâm nhi sự giải thoát lớn, chắc chắn, bằng một viên đạn hay lưỡi dao cạo. Như thế tình trạng đã sáng tỏ! Phải chờ đến sinh nhật thứ năm mươi của mình, theo cái cách kỳ dị của tập sách về Sói Thảo Nguyên, tôi thấy thật quá lâu, còn những hai năm nữa! Dù thực hiện quyết định này trong một năm, trong một tháng hay ngay ngày mai thì cánh cửa cũng đã rộng mở rồi!
Tôi không thể nói rằng “quyết định” này đã thay đổi nhiều cuộc đời mình. Nó khiến tôi thờ ơ hơn đôi chút trước những đau đớn, bệnh tật, ít ưu tư hơn khi dùng thuốc phiện và rượu, tò mò hơn một chút về giới hạn của sự chịu đựng, tất cả chỉ có thế. Những sự kiện khác tôi đã trải qua buổi tối hôm ấy mới thật có hậu quả mạnh hơn. Thỉnh thoảng tôi vẫn đọc lại hết tập luận thuyết về Sói Thảo Nguyên, khi thì say mê và với lòng hàm ơn như thể biết có một nhà ảo thuật  vô hình hướng dẫn định mệnh của tôi một cách sáng suốt, lúc lại chế giễu và khinh miệt sự nhạt nhẽo của tập luận thuyết mà theo tôi nó dường như không hiểu tâm trạng và căng thẳng đặc biệt của tôi. Những điều viết trong ấy về lũ sói thảo nguyên và những kẻ tự sát có thể rất hay ho và sáng suốt đấy, đúng cho chủng loại đó, mẫu người đó, quả là một sự trừu tượng đặc sắc; còn ngược lại, theo tôi thấy, cái lưới thưa như thế thật khó chụp bắt nổi cá nhân tôi, tâm hồn thật sự cùng số phận độc nhất cá biệt của tôi.
Nhưng điều khiến tôi bận tâm trí hơn mọi điều khác là cái ảo giác trên bức tường ngôi nhà thờ nọ, là lời tuyên cáo đầy dự báo của những chữ bằng ánh sáng nhảy nhót lung linh phù hợp với những ám dụ của tập luận thuyết. Ở đó tôi đã được hứa hẹn nhiều, những giọng nói của cái thế giới xa lạ nọ đã khơi dậy mãnh liệt trí tò mò của tôi, tôi thường đắm chìm hàng giờ ngẫm nghĩ về nó. Và lời cảnh báo của hàng chữ ấy không ngớt nói với tôi mỗi lúc một rõ ràng hơn: “Không phải ai muốn vào xem cũng được!” và “Chỉ dành cho những người điên!” Nghĩa là tôi phải điên và khác biệt hẳn “bất cứ ai” nếu những tiếng nọ đến được với tôi và những thế giới nọ nói được cùng tôi. Chúa ơi, chẳng lẽ tôi chưa xa cách đủ với đời sống của mọi người, với sự hiện hữu và tư duy của những kẻ bình thường từ lâu rồi ư, chẳng lẽ tôi chưa tách biệt và quá điên rồ từ lâu rồi ư? Vậy mà tôi hiểu rất rõ trong tận đáy lòng lời kêu gọi kia, lời đòi hỏi trở thành kẻ điên, vất bỏ lý trí, ngần ngại, lối sống trưởng giả, hiến mình cho thế giới buông thả không bị kềm tỏa của tâm hồn, của trí tưởng tượng.
Một ngày nọ, sau khi uổng công thêm một lần nữa lùng khắp các đường phố cùng quảng trường tìm kiếm người đàn ông vác thanh gỗ gắn tấm bích chương, sau nhiều lần tạt qua bức tường với cái cổng vô hình và để ý rình, tôi gặp ở khu ngoại ô St.Martin một đám ma. Khi quan sát những gương mặt của tang chúng lê bước sau chiếc xa hòm, tôi nghĩ: “Trong thành phố này, trong thế gian này, đâu là kẻ mà cái chết của người ấy sẽ là một mất mát đối với ta? Và đâu là kẻ mà cái chết của ta sẽ có chút ý nghĩa nào đấy với người đó?” Ờ thì, có Erika đấy, người tình của tôi, nhưng từ lâu rồi chúng tôi sống trong mối quan hệ rất hời hợt, hiếm khi gặp nhau mà không cãi vã và bây giờ tôi chẳng biết đến cả nàng đang ở đâu. Thỉnh thoảng nàng tìm đến tôi, hoặc tôi tới với nàng và vì hai chúng tôi đều là người cô đơn và khó tính, trong tâm hồn và trong tâm bệnh thoảng có chút gì giống nhau, nên tuy vậy vẫn còn giữ được sự gắn bó. Nhưng có thể nào nàng không thở dài nhẹ nhõm khi được tin tôi chết chăng? Tôi không biết, cũng chẳng rõ cảm nhận của mình có đáng tin cậy không. Người ta phải sống trong trạng thái bình thường và khả thể mới mong biết gì đấy về những điều này.
Trong lúc đó, chiều theo tính bốc đồng, tôi nhập vào đám tang và lững thững theo sau những người đang đau buồn nọ tới nơi chôn cất, một nghĩa trang hiện đại, tráng xi măng, được phép có lò thiêu cùng mọi thứ tiện nghi khác. Nhưng họ không thiêu kẻ quá vãng này mà quan tài được hạ xuống trước một cái huyệt đơn sơ; tôi quan sát ông mục sư cùng những kẻ kiếm ăn trên xác chết - các nhân viên của một xí nghiệp mai táng - cử hành nghi lễ; vì cố nặn ra một vẻ thật trang trọng và sầu thảm, nên họ đã ra sức đóng kịch; sự lúng túng và vẻ giả dối khiến họ đâm ra khôi hài; tôi thấy những nếp gấp trên bộ đồng phục đen của họ chảy xuống và họ cố tạo một bầu không khí buồn rầu để buộc những người đưa đám phải khấu đầu trước vẻ uy nghi lẫm liệt của thần Chết. Nhưng chỉ hoài công, chẳng ai thương khóc, dường như tất cả đều không thấy thiếu vắng người đã khuất. Cũng chẳng thuyết phục được ai nảy chút lòng sùng tín, nên khi ông mục sư luôn miệng “thưa các tín hữu Cơ Đốc giáo quý mến,” mọi khuôn mặt kinh doanh lầm lì của những thương gia, của những chủ lò bánh mì cùng các bà vợ đều cúi gằm, cố nặn vẻ nghiêm trang, những bối rối và giả trá; chẳng có gì khiến những khuôn mặt ấy lộ nét cảm kích hơn là buổi lễ tang không chút thoải mái này chấm dứt sớm. Khi tang lễ kết thúc, hai người đứng hàng đầu trong số các tín hữu Cơ Đốc giáo bắt tay ông mục sư, rồi họ tới vệ cỏ gần đó cọ giày cho sạch lớp bùn nhão nhoét, thứ bùn mà họ đã chôn người chết; gương mặt họ tức thì trở lại bình thường, ra dáng con người. Chợt thôi thấy một người trong đám ấy có vẻ quen quen, dường như đó là người đàn ông ngày nọ đã vác tấm bích chương và ấn vào tay tôi tập sách mỏng kia.
Đúng lúc tôi ngỡ là nhận ra ông ta, thì ông ta quay người, cúi xuống kiểu cách xắn chiếc quần đen lên khỏi giày rồi nhanh nhẹn bước đi, cây dù kẹp dưới nách. Tôi chạy theo, bắt kịp, gật đầu chào, nhưng dường như ông ta không nhận ra tôi.
“Hôm nay không có giải trí buổi tối à?” tôi vừa hỏi vừa nháy mắt, giống những kẻ đồng lõa biết được điều bí mật vẫn làm với nhau. Nhưng đã lâu lắm rồi, từ cái thời tôi rành rẽ lối ra hiệu bằng điệu bộ và nét mặt, lối sống của tôi đã khiến tôi gần như quên mất thế nào là nói năng và trò chuyện, thành ra chính tôi cũng cảm thấy mình chỉ nặn được một vẻ mặt nhăn nhó ngớ ngẩn.
“Giải trí buổi tối à?” người đàn ông vừa lầu bầu vừa nhìn tôi như một kẻ lạ hoắc. “Cha nội ơi, nếu có nhu cầu thì cứ đến quán Đại Bàng Đen.”
Quả thật tôi không còn dám chắc ông ta chính là người mình muốn tìm. Tôi thất vọng tiếp tục đi, chẳng rõ tới đâu, không mục đích, nỗ lực hay nhiệm vụ nào. Cuộc đời cay đắng đến ghê tởm; tôi cảm thấy sự chán ghét ngày một tăng đã từ lâu nay đạt tới cao điểm và cuộc đời xua đuổi, ruồng bỏ tôi như thế nào. Tôi giận dữ chạy qua thành phố xám xịt, thấy mọi thứ dường như toát ra mùi đất ẩm ướt và mùi mai táng. Không, ngày chôn cất tôi sẽ không một con chim báo tử khoác áo thụng thầy tu nào lảm nhảm những lời ủy mị với tín hữu Cơ Đốc giáo được phép đứng bên huyệt của tôi! Chao ơi, mặc lòng tôi nhìn về đâu, mặc lòng tôi hướng suy nghĩ về đâu, chẳng nơi nào chờ đợi tôi với niềm vui, không nơi nào vẫy gọi tôi, không nơi nào thoảng chút hơi hướm của sự dụ dỗ; tất cả đều nồng nặc mùi hao mòn thối rữa, mùi thỏa mãn tạm bợ hôi rình, tất cả đều củ mèm, tàn tạ, xám ngoét, bơ phờ, kiệt quệ. Chúa ơi, sao lại thế được? Sao tôi lại có thể lâm vào một hoàn cảnh như thế được - tôi, gã thanh niên được chắp cánh, thi sĩ, bạn của những nữ thần thơ ca, kẻ ngao du khắp thế gian, kẻ mộng mơ cuồng nhiệt? Làm thế nào mà nó luồn vào tôi từ từ như thế được, cái sự tê liệt ấy, niềm thù hận ấy đối với bản thân tôi và tất cả, sự tắc nghẽn ấy của mọi cảm giác, sự bất mãn sâu xa cay độc ấy, cái địa ngục bẩn thỉu ấy của trái tim trống rỗng và niềm tuyệt vọng?
Lúc đi ngang qua thư viện, tôi gặp một ông giáo sư trẻ mà trước đây tôi thỉnh thoảng vẫn trò chuyện, thậm chí vài năm trước, trong lần cuối cùng cư ngụ tại thành phố này, tôi từng nhiều lần đến tận nhà thăm, cùng ông mạn đàm về thần thoại phương Đông, một lĩnh vực tôi rất quan tâm hồi đó. Đi ngược chiều tôi, nhà học giả dáng người cứng đơ và cận thị khá nặng, chỉ kịp nhận ra tôi khi tôi sắp đi qua khỏi. Ông nhảy bổ vào tôi với cả tấm chân tình, còn tôi nửa vui nửa không vì lòng đang rầu rĩ. Ông mừng rỡ, sôi nổi hẳn lên, nhắc lại những chi tiết từ các buổi mạn đàm ngày trước của chúng tôi, đoan chắc rằng ông rất hàm ơn những gợi ý của tôi và vẫn thường nhớ đến tôi; kể từ dạo ấy ông ít khi có được những buổi tranh luận hào hứng và phong phú đến thế với các đồng nghiệp. Ông hỏi tôi tới thành phố này bao lâu rồi (tôi nói dối: mới vài ngày) và sao không đến thăm ông. Tôi nhìn vào khuôn mặt học giả hiền lành của con người dễ mến ấy, thấy khung cảnh hơi nực cười, nước dãi ứa đầy vòm họng khô khốc, tình cảm khiến hắn mềm lòng dù hắn không muốn. Đúng thế, cho nên tôi mồm năm miệng mười nói dối rằng chỉ ở tạm đây thôi, vì chuyện nghiên cứu, và tại trong người không khỏe, bằng không tất nhiên thế nào tôi cũng đến thăm ông chứ. Rồi khi ông chân thành mời tôi thế nào cũng phải đến chơi ngay buổi tối ấy, tôi liền cám ơn nhận lời và nhờ ông chuyển lời chào đến bà vợ; việc nói cười hăm hở này khiến hai bên má tôi đau dần, vì chúng không còn quen phải gắng sức như thế nữa. Và trong lúc tôi, Harry Haller này, đứng đấy trên đường phố, hoàn toàn bất ngờ vì được tâng bốc nên đã lễ độ và vồn vã mỉm cười với khuôn mặt hiền lành cận thị của con người dễ mến này, thì gã Harry kia đứng ngay bên cạnh cũng cười luôn, gã vừa đứng vừa cười, nghĩ tôi đúng là một thứ anh em quái gở, lươn lẹo và dối trá; mới hai phút trước tôi còn nhe răng phẫn nộ với cả thế gian khốn kiếp, thế mà giờ đây chỉ nghe một tiếng gọi, một lời chào hỏi vô thưởng vô phạt của một kẻ trưởng giả thật thà đáng trọng đã liền cảm kích, hăm hở đồng tình và tận hưởng chút thiện cảm, sự trọng thị và vẻ ân cần chẳng khác một con heo sữa đằm mình trong bùn. Hai gã Harry này, hai nhân vật cực kỳ mất thiện cảm, đứng đối diện như thế đấy với ông giáo sư lịch thiệp; chúng chế giễu nhau, xét nét nhau, nhổ toẹt trước mặt nhau và một lần nữa tự hỏi, như từng luôn xảy ra trong những hoàn cảnh tương tự, rằng đó đơn thuần là sự ngu muội và nhu nhược của con người, số phận con người nói chung, hay tính ích kỷ ủy mị này, sự thiếu cá tính này, tính không nghiêm chỉnh và lá mặt lá trái này của cảm giác chỉ là một khí chất riêng của lũ sói thảo nguyên. Nếu thứ đê tiện này là của con người nói chung thì lòng khinh bỉ thế giới của tôi có thể nhào lên nó với một sức mạnh mới; còn nếu đó chỉ là sự hèn mọn của riêng tôi, thì đấy sẽ là dịp để tôi mặc sức tự khinh bỉ mình.
Trong lúc hai gã Harry này cãi vã thì tôi hầu như quên bẵng ông giáo sư; nên bây giờ sự hiện diện của ông đột nhiên khiến tôi lại thấy khó chịu và tôi hối hả tìm cách dứt khỏi ông cho rảnh nợ. Tôi nhìn theo ông một lúc lâu, khi bóng ông khuất dần trên đại lộ trơ trụi, với dáng đi hiền lành và hơi kỳ quái của một con người có lý tưởng cao, một kẻ sùng tín. Cuộc gấu ó kia sôi sục trong lòng tôi; trong lúc co vào, duỗi ra như máy những ngón tay cứng đơ bị chứng thống phong âm thầm hành hạ, tôi phải thú nhận rằng mình đã bị phỉnh nịnh nên đã tròng vào cổ lời mời ăn chiều lúc bảy giờ rưỡi, cùng với bó buộc về lịch sự, tán gẫu về khoa học và ngắm nhìn hạnh phúc gia đình người khác. Tôi điên tiết đi về nhà, uống ly rượu Cognac pha với nước, ngoài ra còn nuốt vài viên thuốc trị bệnh thống phong, rồi ngả người trên đi văng, cố đọc sách. Cuối cùng, khi đã đọc được một lúc quyển Chuyến du lịch của Sophie từ Memel đến Sachsen, một câu chuyện giải trí mê ly của thế kỷ 18, tôi sực nhớ đến lời mời nọ, mà tôi chưa cạo râu, lại còn phải ăn vận nữa. Chỉ Chúa biết sao tự dưng tôi lại tròng vào cổ những chuyện này! Nào, Harry, đứng lên, bỏ sách xuống, xát xà phòng cạo râu, gọt cằm cho tóe máu, đóng bộ vào và hãy hài lòng nơi con người! Trong lúc xát xà phòng tôi nghĩ tới cái hố bùn bẩn thỉu trong nghĩa trang, nơi hôm nay họ đã thòng dây hạ huyệt kẻ xa lạ nọ, đến những khuôn mặt nhăn nhó của những tín hữu Cơ Đốc giáo buồn tẻ, nghĩ mà không nhếch mép cười nổi. Tôi thấy dường như tại cái hố bùn bẩn thỉu nọ, trong những lời ngu muội lúng ba lúng búng của nhà thuyết giảng, trong nét mặt lúng ba lúng búng ngu muội của tang chúng, trong cảnh hoang liêu của mọi cây thập giá và bia mộ bằng sắt thép và cẩm thạch, trong hết thảy những bông hoa giả bằng dây kẽm hoặc thủy tinh, không chỉ kết thúc đời kẻ xa lạ nọ, nơi đó không chỉ tôi cũng sẽ kết thúc ngày mai hoặc ngày kia, bị vùi lấp vào bùn đất dưới vẻ bối rối và dối trá của những kẻ tham dự; không, tất cả đều sẽ kết thúc như thế, mọi kỳ vọng của chúng ta, toàn bộ văn hóa của chúng ta, toàn bộ niềm tin của chúng ta, mọi nỗi sống vui và tính yêu đời của chúng ta, cái tính yêu đời đã quá bệnh hoạn và chẳng mấy chốc cũng sẽ bị chôn vùi. Thế giới văn minh của chúng ta là một bãi tha ma, trong đó Chúa Jesus Ki-tô và Socrates, Mozart và Haydn, Dante(15) và Goethe chỉ còn là những tên tuổi phai mờ trên những mộ bia han gỉ; đám người đưa tang bối rối và giả trá bu quanh sẵn sàng trả khối tiền, nếu họ còn tin tưởng nổi vào những tấm mộ bia bằng kim loại từng là thiêng liêng đối với họ; họ sẵn sàng trả khối tiền, dù ít nhất có thể nói được một lời trung thực, nghiêm chỉnh về nỗi u buồn và niềm tuyệt vọng đối với cái thế giới đã tiêu vong, nhưng thay vào những thứ ấy họ chẳng còn gì khác hơn là gượng gạo cười, đứng vơ vẩn bên một tấm mộ. Bực bội nên tôi lại làm trầy trụa chỗ xưa nay vẫn thường bị ở cằm, phải tẩy rửa vết thương mất một lúc, và lại phải thay chiếc cổ áo vừa mới đeo(16) mà hoàn toàn chẳng hiểu tại sao mình lại làm tất cả những điều ấy, vì tôi chẳng chút hứng thú với lời mời. Nhưng một phần của Harry lại giở trò, bảo rằng ông giáo sư là kẻ đáng mến, khao khát được tiếp xúc, chuyện vãn và giao tế đôi chút với con người, hắn nhớ tới bà vợ xinh xắn của ông ta, thấy về cơ bản cái ý tưởng trải qua một buổi tối với những người chủ nhà khả ái thật là đáng phấn khởi và hắn giúp tôi dán lên cằm một miếng băng của Anh, giúp tôi mặc quần áo, thắt chiếc ca vát lịch sự và nhẹ nhàng khuyên tôi từ bỏ điều mong muốn thật sự là được ở nhà. Đồng thời tôi lại nghĩ: giống như tôi thắng bộ lúc này rồi đến thăm ông giáo sư, trao đổi với ông những điều lễ độ mang ít nhiều giả dối mà tôi thật lòng không muốn, thì phần lớn con người ta hằng ngày, hằng giờ phải sống và hành động tương tự như thế, bó buộc chứ không hề muốn; họ thăm viếng, trò chuyện với nhau, ngồi cho hết giờ ở bàn giấy, dù trong công sở hay hãng tư, tất cả đều miễn cưỡng, máy móc, gượng gạo, tất cả những chuyện này để máy móc làm cũng tốt không kém hoặc bỏ cũng chẳng sao; chính cái cơ chế chạy hoài hủy đó đã ngăn cản họ, giống như trong trường hợp tôi, phê phán chính cuộc sống của mình, ngăn cản họ cảm nhận sự ngu muội và hời hợt, sự khả nghi đáng tởm, sự buồn rầu tuyệt vọng và nhạt nhẽo của cuộc sống ấy. Chà, họ - những con người ấy - có lý, có lý quá, khi họ sống như thế, chơi trò chơi của họ, đeo đuổi những việc quan trọng của họ thay vì cưỡng lại cái cơ chế ảo não và đăm đăm nhìn tuyệt vọng vào cõi hư vô, như tôi - một kẻ lầm đường lạc lối - đang làm. Nếu trong những trang giấy này thỉnh thoảng tôi khinh thị và cả giễu cợt con người, xin đừng ai nghĩ rằng tôi đổ lỗi cho họ, lên án họ, quy trách nhiệm cho người khác về nỗi khốn khổ của cá nhân tôi! Nhưng mà tôi, kẻ đã dấn bước quá xa và nay đứng bên rìa cuộc sống, nơi nó rơi vào cõi tối đen thăm thẳm, sẽ sai trai và dối trá nếu cố lừa mị mình và người khác, làm như thể cái cơ chế kia vẫn quay đều với cả tôi trong đó, như thể cả tôi cũng vẫn thuộc về thế giới trẻ thơ đẹp đẽ nọ của trò chơi miên viễn.
Cho nên buổi tối hôm ấy cũng tuyệt vời tương ứng. Tôi dừng lại một lúc trước ngôi nhà của ông giáo sư, ngước nhìn những khung cửa sổ. Người đàn ông này sống ở đây, tôi thầm nghĩ, ông ta không ngừng làm công việc của mình hết năm này sang năm khác, hứng thú đọc và chú giải những văn bản, tìm kiếm những liên hệ những thần thoại vùng Tây Nam Á với Ấn Độ, vì ông tin tưởng vào giá trị của việc mình làm, tin vào khoa học mà ông là kẻ phục vụ, tin vào giá trị của kiến thức đơn thuần, của sự thu thập nó, vì ông tin vào sự tiến bộ, vào sự phát triển. Ông không phải trải qua cuộc chiến tranh(17), không trải nghiệm sự chấn động tận nền tảng của sự tư duy - cho tới bây giờ - mà Einstein(18) đã gây ra (ông nghĩ rằng điều này chỉ liên quan đến các nhà toán học), ông không mảy may thấy chung quanh mình cuộc chiến tranh sắp tới đang được chuẩn bị ráo riết như thế nào, ông cho rằng người Do Thái và Cộng sản là đáng thù ghét, ông thật không khác một đứa trẻ vô tư lự, ham đùa nghịch, tự cho mình là quan trọng, ông thật đáng ganh tị xiết bao. Gạt bỏ do dự, tôi bước vào, được một cô người làm đeo tạp dề trắng ra đón; chẳng hiểu linh cảm thế nào mà tôi lại ghi nhớ rõ chỗ cô treo mũ cùng măng tô của tôi; cô mời tôi vào một căn phòng sáng sủa ấm cúng, yêu cầu tôi ngồi đợi; rồi tôi, thay vì cầu nguyện hay nhắm mắt ngơi một lát, lại chiều theo bản năng nghịch ngợm của mình, vớ ngay lấy một vật gần nhất trong tầm tay. Đó là một bức hình nhỏ lồng khung đứng nghiêng nghiêng trên chiếc bàn tròn nhờ cái chân chống bằng giấy bồi cứng, một bản khắc đồng diễn tả thi hào Goethe, một cụ già đầy cá tính, mái tóc hết sức chải chuốt với khuôn mặt được tạo hình thật đẹp và không thể thiếu đôi mắt rực lửa nổi tiếng cùng đường nét thoa phấn trắng hơi cô đơn và đau khổ của người sống trong cung đình mà nhà nghệ sĩ đã đặc biệt dày công tô điểm. Y đã thành công trong việc tạo nên một vẻ thản nhiên và trung thực khá mô phạm lẫn kịch cỡm mà không làm tổn hại đến sự sâu sắc nơi cụ già quỷ quái này; nói chung, nhà nghệ sĩ nọ đã biến Goethe thành một con người đẹp lão thật sự, đáng trưng bày trong mỗi ngôi nhà trưởng giả. Có lẽ tấm hình này không ngô nghê hơn mọi bức cùng loại của các thợ thủ công cần cù về nghệ thuật, như những bức hình đấng Cứu thế xinh đẹp, hình các tông đồ, các vị anh hùng, những thiên tài về tư tưởng và những chính khách tài ba; nhưng nó khiến tôi bực mình có lẽ chỉ do một sự thành thạo điêu luyện nào đấy; dẫu vì lý do gì thì cái hình ảnh diễn tả vô nghĩa và tự mãn này về cụ Goethe đã như quát ngay vào mặt tôi - nghe rất chói tai và hậu quả thật đáng tiếc, vì tôi đang cáu tiết do sẵn khá bực dọc - rằng tôi đã đến nhầm nơi, rằng đây là chỗ dành cho những bậc lão thành được cách điệu hóa tuyệt mỹ và những vĩ nhân của đất nước, chứ không phải cho lũ sói thảo nguyên.
Giá lúc ấy ông chủ nhà bước vào thì may ra tôi có thể viện những lý do có thể chấp nhận để rút lui. Nhưng người bước vào lại là bà vợ ông, nên tôi đành phó mặc cho số phận, dù đã linh cảm chuyện chẳng lành. Vừa chào hỏi nhau xong thì tiếp theo điều lạc điệu đầu tiên chỉ toàn là những lạc điệu mới. Bà khen vẻ mặt tôi tươi tốt, mà tôi quá rõ rằng mình đã già đi biết bao trong mấy năm qua, kể từ lần gặp gỡ cuối cùng. Chỉ cần bắt tay bà thôi là những ngón tay nhức buốt do chứng thống phong đã nhắc nhở tôi đau xót nhớ tới điều ấy. Đúng thế! rồi bà hỏi thăm về sức khỏe người vợ yêu quý của tôi, tôi phải trả lời rằng vợ tôi đã bỏ tôi và chúng tôi ly dị nhau rồi(19). Nên cả bà lẫn tôi đều mừng rỡ, khi ông giáo sư bước vào. Ông cũng niềm nở chào tôi và vở kịch nhanh chóng mang vẻ khôi hài nhất mà ta có thể hình dung được. Ông cầm tờ nhật báo đặt mua dài hạn của cái đảng quân phiệt và kích động chiến tranh(20); bắt tay xong, ông chỉ vào tờ báo kể rằng trong đó viết đôi điều về một người trùng tên với tôi, một nhà báo Haller; hẳn y là một kẻ đê tiện và vô Tổ quốc, vì y đã chế nhạo Đức Hoàng đế(21) và cho rằng trong việc gây ra cuộc chiến tranh, Tổ quốc của y cũng gánh trách nhiệm không kém những nước thù địch. Hẳn y phải là một kẻ tồi tệ nhường nào! Đây, trong tờ báo này y đã bị vạch mặt chỉ tên, ban biên tập đã đập y tơi bời và bêu riếu phải biết! Nhưng khi thấy tôi không quan tâm đến chuyện ấy, ông liền đổi qua đề tài khác; vợ chồng ông thật chẳng mảy may nghĩ tới khả năng có thể tên ác ôn kia đang ngồi ngay trước mặt họ. Đúng vậy đấy, tên ác ôn nọ chính là tôi. Chà, khua chiêng gióng trống khiến người ta bất an mà làm gì! Tôi cười thầm, nhưng không còn hy vọng tối hôm đó có được đôi chút thoải mái. Tôi vẫn nhớ rõ giây phút ấy, vì đúng lúc đó, khi ông giáo sư nói về tên phản quốc Haller, cái cảm giác phiền muộn và tuyệt vọng tồi tệ không ngừng chất chứa trong tôi từ lúc dự đám tang càng lúc càng dữ dội thêm, trở thành một sức ép điên cuồng, một tình trạng cùng quẫn mà tôi cảm thấy rõ trong cơ thể mình (nơi bụng dưới), một cảm giác sợ hãi đến ngạt thở về định mệnh. Có gì đó đang rình rập, tôi cảm thấy thế, một mối nguy cơ đang lẻn tới tôi từ phía sau. May thay chúng tôi được thông báo bữa ăn đã sẵn sàng. Chủ khách cùng kéo vào phòng ăn; trong lúc tôi luôn cố gắng nói hoặc hỏi những điều vô thưởng vô phạt, tôi lại ăn nhiều hơn bình thường, nên càng lúc càng cảm thấy thảm hại hơn. Lạy Chúa, tôi không ngớt thầm nghĩ, sao chúng ta cứ phải gắng sức thế này? Tôi cảm thấy rõ chính vợ chồng chủ nhà cũng không thoải mái; họ phải cố gắng mới tươi tỉnh được, hoặc vì tôi đã khiến họ bị tê liệt đến mức ấy, hoặc vì trong nhà này có điều chi bất hòa. Họ hỏi tôi toàn những điều mà tôi không trả lời thẳng thắn được; chẳng mấy chốc tôi buộc toàn phải nói dối thật sự, để rồi phải chống chịu nỗi kinh tởm sau mỗi lời mình thốt ra. Cuối cùng, để lái sang đề tài khác, tôi kể về đám tang đã chứng kiến bữa nay. Nhưng tôi ăn nói tẻ nhạt nên những cố gắng gây hài hước của mình chỉ tạo ra bực dọc, khiến chủ khách lại càng thêm xa cách; con sói trong tôi liền nhe răng cười. Lúc ăn tráng miệng cả ba chúng tôi đều lặng lẽ hẳn.
Rồi chủ khách cùng quay lại căn phòng đầu tiên để dùng cà phê và rượu; biết đâu hai món này sẽ giúp chúng tôi được chút gì chăng. Nhưng ở đó, bậc thái sơn bắc đẩu của làng thơ lại đập vào mắt tôi; cụ đã được mời sang một chiếc tủ chè bên cạnh. Tôi không dứt khỏi cụ được nên đã lại cầm lấy, bắt đầu tranh luận với cụ, dù không phải không nghe thấy tiếng cảnh báo trong lòng mình. Tôi như bị ám ảnh bởi cảm giác rằng bây giờ tình thế đã trở thành khôn kham và tôi phải hoặc làm cho vợ chồng chủ nhà sôi nổi lên bằng được, lôi cuốn họ vào sự cao hứng giống như tôi hoặc đưa đến đổ bể hoàn toàn.
“Chúng ta hãy hy vọng,” tôi nói, “rằng Goethe thật sự trông không như thế này, không mang cái dáng điệu kiêu căng và quý tộc này, cái phẩm cách làm duyên làm dáng này đối với quý vị quan khách tham quan và ẩn dưới bề ngoài có vẻ nam tính là cả một thế giới đa cảm rất yếu đuối. Đương nhiên người ta có thể phản bác cụ nhiều thứ, chính tôi cũng thường không ưa ông già làm bộ làm tịch này, nhưng diễn tả cụ như vầy thì không được, thế là quá lố.”
Với khuôn mặt cực kỳ thiểu não, bà chủ nhà rót xong cà phê liền hối hả đi ra; ông chồng thổ lộ với tôi - nửa bối rối, nửa trách móc - rằng bức hình Goethe này là của vợ ông và bà đặc biệt yêu quý nó. “Ngay cả ông đúng về mặt khách quan, điều mà tôi phủ nhận, thì ông cũng không nên nói toạc ra như thế chứ.”
“Ông nói đúng,” tôi công nhận. “Rất tiếc đó là một thói quen, một tật xấu của tôi, cứ luôn chọn lối nói thẳng thừng nhất, điều mà Goethe cũng từng làm trong những giờ phút thoải mái của mình. Cụ Goethe dễ thương và thiển cận trong phòng khách này dĩ nhiên chẳng bao giờ dùng một lối nói thành thật trực tiếp. Tôi tha thiết mong ông bà tha lỗi cho - xin ông nói giúp với bà nhà rằng tôi là một kẻ mắc chứng tâm thần phân liệt. Đồng thời tôi cũng xin phép cáo từ.”
Chủ nhà luống cuống vài lời chống chế, nhắc cả chuyện ngày trước chúng tôi từng có những buổi mạn đàm thú vị và gây cảm hứng; đúng thế, điều phỏng đoán hồi đó của tôi về Mithras và Krishna(22) từng gây ấn tượng sâu đậm cho ông và ông đã hy vọng hôm nay cũng sẽ lại … vân vân. Tôi cảm ơn ông về những lời rất mực thân ái ấy, nhưng tiếc thay sự quan tâm của tôi tới Krishna đã tan biến, cũng như tôi hoàn toàn chẳng còn hứng thú gì với những buổi mạn đàm khoa học, rằng hôm nay tôi đã nhiều lần nói dối ông, chẳng hạn không phải tôi đến thành phố này mới vài ngày, mà đã nhiều tháng rồi, nhưng sống một thân một mình và không tiện giao du với những gia đình trưởng giả nữa, vì một là tôi rất xấu tính, lại mắc bệnh thống phong và hai là tôi rất thường say sưa. Ngoài ra, để làm sáng tỏ và ít nhất không từ giã như một kẻ dối trá, tôi phải giải thích cho ông chủ nhà quý mến rằng hôm nay ông đã rất miệt thị tôi, vì ông đã lấy quan điểm của một tờ báo phản động về những suy nghĩ của Haller làm của mình, những quan điểm ngu xuẩn, đầu bò đầu bướu, thích hợp với một viên sĩ quan vô công rồi nghề, nhưng không xứng với một học giả như ông. “Gã vô Tổ quốc” Haller đó lại chính là tôi và có lẽ sẽ tốt hơn cho đất nước chúng ta và thế giới, nếu có được ít ra dăm ba kẻ biết suy nghĩ chịu đứng về phía lý trí và yêu chuộng hòa bình, thay vì mù quáng và điên cuồng nhắm tới một cuộc chiến tranh mới. Thôi, đành vâng theo ý Chúa!
Thế là tôi đứng lên, từ biệt cụ Goethe và ông giáo sư, giật phăng mũ áo treo trên móc ở nhà ngoài rồi bỏ đi. Con sói trong lòng tôi tru lên hể hả; giữa hai gã Harry nổ ra một trận đấu khẩu kịch liệt. Vì buổi tối kém vui vẻ này mang nhiều ý nghĩa với tôi hơn là với ông giáo sư đang phẫn nộ kia, tôi rõ ngay điều ấy; với ông nó chỉ là một sự thất vọng và một chút bực mình, còn với tôi đó là một thất bại và một cuộc tháo chạy cuối cùng, là sự giã từ của tôi với thế giới trưởng giả, đạo đức và thông thái, một thắng lợi hoàn toàn của con sói thảo nguyên. Tôi giã từ như kẻ đào tẩu và chiến bại, như một lời tuyên bố phá sản trước chính mình, giã từ không lời an ủi, không kênh kiệu, không hài hước. Tôi đã giã từ thế giới cũ, quê hương xưa của mình, lối sống trưởng giả, tập quán, sự uyên bác không khác một kẻ đau bao tử giã biệt món thịt heo chiên. Tôi giận dữ bước đi dưới những ngọn đèn đường, giận dữ và buồn thắt ruột. Thật là một ngày buồn nản, đáng xấu hổ, tồi tệ, từ sáng đến tối, từ nghĩa trang đến những biến cố trong nhà ông giáo sư! Để làm gì chứ? Tại sao? Có ý nghĩa gì không, khi chất lên mình thêm nhiều ngày như thế này nữa, hứng chịu thêm nhiều hậu quả tồi tệ như thế này nữa? Không! Thế thì đêm nay tôi sẽ kết thúc vỡ hài kịch này. Về nhà thôi, Harry, về mà cắt phăng cái họng mi đi! Mi đã chờ đợi chuyện này đủ lâu rồi.
Tôi lang thang qua các phố xá, lòng dằn vặt khổ đau. Đúng là tôi đã quá ngu xuẩn, ngu xuẩn và bất lịch sự, khi phỉ nhổ vật trang hoàng phòng khách của những con người tử tế, nhưng tôi hoàn toàn không thể làm khác được, tôi không thể chịu đựng nổi lối sống dễ bảo, giả trá và ngoan ngoãn kia. Và vì tôi, chừng như thế, cũng không thể chịu nổi sự cô đơn nữa, vì xã hội của riêng tôi cũng đã trở nên đáng ghét và kinh tởm khôn xiết đối với tôi, vì tôi ngạt thở giãy giụa trong cái địa ngục thiếu vắng không khí của mình, vậy hỏi còn lối thoát nào nữa chứ? Không còn lối nào cả. Hỡi mẹ cha, hỡi ngọn lửa thiêng thời trẻ xa xôi của tôi, hỡi muôn và niềm vui, công trình và mục tiêu của đời tôi! Tôi chẳng còn gì trong tất cả những thứ ấy, không có nổi một sự ân hận, chỉ toàn kinh tởm và đau đớn. Chưa bao giờ, dường như thế, cái việc duy nhất là phải sống lại khiến tôi đau khổ như trong giờ phút này.
Tôi ngồi nghỉ một lúc trong cái quán buồn tẻ ở ngoại ô, uống rượu Cognac pha nước, rồi tiếp tục đi như bị ma đuổi lên những con đường dốc quanh co của khu phố cổ, rồi lại xuống dốc, qua những đại lộ, băng qua quảng trường Nhà Ga. Mình đi nơi khác! tôi nghĩ thế, rồi bước vào trong ga, nhìn đăm đăm vào bảng giờ tàu chạy trên những bức tường, uống chút vang, cố ngẫm nghĩ. Tôi bắt đầu nhận ra, càng lúc càng gần hơn, càng lúc càng rõ rệt hơn, cái bóng ma đã khiến tôi khiếp sợ. Bóng ma đó chính là về nhà, là quay về trong căn phòng mình, là sự phải bình thản trước nỗi tuyệt vọng! Tôi không sao thoát nổi bóng ma ấy; dù đi loanh quanh thêm nhiều giờ nữa tôi vẫn không thoát nổi phải trở về với cái cửa phòng mình, tới cái bàn đầy sách, tới cái đi văng với tấm hình người yêu dấu của tôi treo phía trên, không thoát nổi giây phút tôi rút dao cạo và tự cắt cổ. Hình ảnh này hiện ra càng lúc càng rõ rệt trước mắt tôi và tôi cảm thấy càng lúc càng rõ, với trái tim hối hả, nỗi sợ hãi nhất trong mọi sợ hãi: sợ cái chết! Vâng, tôi sợ chết kinh khủng. Cho dù tôi không thấy một lối thoát nào khác, dù sự kinh tởm, đau khổ và tuyệt vọng chồng chất quanh tôi, dù chẳng còn gì khêu gợi được tôi, tạo nổi cho tôi niềm vui và hy vọng, tôi vẫn cứ khiếp sợ không thốt nên lời trước sự hành hình, trước giây phút cuối cùng, trước vết cứa lạnh lẽo toang hoác vào chính da thịt mình! Tôi không thấy lối nào thoát khỏi điều đáng sợ này. Hôm nay sự hèn nhát có thể thắng trong trận đấu tranh giữa tuyệt vọng và hèn nhát, ngày mai và mọi ngày khác tôi sẽ lại vẫn đối diện với nỗi tuyệt vọng, nhiều hơn nữa, do tự khinh bỉ. Tôi sẽ cứ hết cầm lưỡi dao rồi lại quăng nó đi, cho đến lúc rốt cục sẽ thực hiện ý định. Thế thì là làm quách hôm nay! Tôi lựa lời tự nhủ, như vỗ về một đứa trẻ đang sợ hãi, nhưng nó không nghe mà bỏ chạy, nó muốn sống. Rùng mình từng cơn, tôi tiếp tục đi qua thành phố, vòng thật xa căn hộ của mình, luôn nghĩ đến việc trở về, nhưng luôn trì hoãn. Chỗ này chỗ nọ tôi dừng chân ở một quán rượu, vừa đủ lâu để uống một hai ly, rồi nó lại tiếp tục săn đuổi tôi vòng quanh thật xa mục tiêu, quanh lưỡi dao cạo, quanh cái chết. Thỉnh thoảng tôi mệt rũ ngồi trên băng ghế, trên một bờ giếng, trên một cái bệ chống va, nghe tim đập, lau mồ hôi trán, rồi lại tiếp tục đi, lòng đầy nỗi sợ ghê gớm, đầy nỗi khát khao khắc khoải được sống.
Tôi lang thang như thế, lúc ấy đã khuya, tới một vùng ngoại ô tít tắp và gần như xa lạ đối với tôi, vào một quán trọ có tiếng nhạc khiêu vũ xập xình hắt ra từ những cửa sổ. Khi bước vào, tôi thấy bên trên cổng treo một tấm bảng hiệu cũ kỹ: “Đến với quán Đại Bàng Đen”. Buổi tối miễn phí nên quán đầy nghẹt người cùng với khói thuốc, hơi rượu và tiếng la ó; người ta khiêu vũ ở căn phòng phía sau, nơi phát ra tiếng nhạc điên cuồng. Tôi dừng lại trong căn phòng trước, nơi toàn những kẻ ăn mặc xuềnh xoàng, nghèo nàn cũng có, còn trong phòng nhảy phía sau thấy có cả những bộ áo quần thanh lịch. Tôi bị đám đông xô đẩy tới sát một cái bàn bên cạnh quầy rượu; một cô gái xinh xắn, xanh xao mặc y phục dạ hội mỏng, hở cổ thật sâu, tóc cài một bông hoa đã héo đang ngồi ở đấy trên chiếc ghế dài dựa sát tường. Thấy tôi tới, nàng thân mật chăm chú nhìn rồi mỉm cười nhích qua một bên, nhường chỗ.
“Tôi được phép chứ ạ?” tôi hỏi và ngồi xuống cạnh nàng.
“Đương nhiên, anh được phép,” nàng nói, “anh là ai thế?”
“Cám ơn cô,” tôi nói, “tôi không thể nào trở về nhà; tôi không thể, tôi không thể, tôi muốn ở lại đây, với cô, nếu cô cho phép. Không, tôi không thể trở về nhà.”
Nàng gật đầu như thể hiểu ý tôi; lúc nàng gật đầu, tôi quan sát lọn tóc từ trán nàng xõa qua tai, thấy bông hoa héo kia là một đóa hoa trà. Từ bên kia vang tới tiếng nhạc chát chúa, còn ở quầy mấy cô bán hàng hối hả xướng lên những món khách gọi.
“Thì anh cứ ở đây,” giọng nàng khiến tôi thấy dễ chịu. “Mà sao anh lại không thể về nhà?”
“Tôi không thể. Ở đó có gì đấy đang chờ đợi tôi - không, tôi không thể, khủng khiếp lắm.”
“Thế thì cứ để nó chờ, còn anh ở lại đây. Này, trước hết anh lau kính đi đã, anh có nhìn gì được đâu nào. Thế, đưa em cái khăn tay của anh. Mình uống gì nào? Vang Burgund nhé?”
Nàng lau kính cho tôi; lúc ấy tôi mới nhìn rõ nàng, khuôn mặt xanh xao, cương nghị, đôi môi tô đỏ chót, đôi mắt xám nhạt, vầng trán láng nhẵn, tươi mát, một lọn tóc ngắn và căng phía trước tai. Nàng gọi vang, chăm sóc tôi với vẻ hiền lành, pha chút giễu cợt; trong lúc cụng ly nàng ngó xuống đôi giày của tôi.
“Chúa ơi, anh từ đâu đến vậy? Trông cứ như thể anh đã cuốc bộ từ Paris tới đây. Chẳng ai đến một buổi khiêu vũ với bộ dạng như thế này cả.”
Tôi ừ hữ, khẽ cười, còn cứ để nàng nói. Tôi thấy nàng rất khả ái và điều ấy khiến tôi thật sự ngạc nhiên, vì xưa nay tôi toàn tránh xa những thiếu nữ kiểu này, nghi kỵ nữa là khác. Nàng đã cư xử với tôi đúng theo cái cách tốt nhất cho tôi trong lúc này - ôi, từ đó nàng luôn như thế đối với tôi, vào bất cứ lúc nào. Nàng chăm chút tôi như tôi cần, nàng giễu cợt tôi như tôi cần. Nàng gọi một ổ bánh mì kẹp, bảo tôi ăn. Nàng rót rượu cho tôi, bảo tôi uống, nhưng đừng quá nhanh. Rồi nàng khen tôi biết vâng lời.
“Anh ngoan lắm,” nàng khích lệ tôi, “anh không làm khó dễ ai. Em đánh cuộc là đã lâu rồi anh mới lại phải nghe lời ai đấy, đúng không?”
“Đúng. Cô thắng cuộc. Sao cô biết được nhỉ?”
“Có gì khó đâu. Nghe lời cũng như ăn uống thôi - ai thiếu thốn nó lâu, sẽ thấy chẳng có gì hơn được nó. Anh sẵn lòng nghe lời em đúng không?”
“Rất sẵn lòng. Cô biết hết.”
“Anh làm nó thành dễ dàng cho em mà. Anh bạn ạ, có thể em còn nói cho anh được cái gì đang chờ anh ở nhà và cái gì làm anh sợ đến thế nữa cơ. Nhưng chính anh biết mà, mình chẳng cần nói về điều đó nữa, nhé? Vớ vẩn! Hoặc là một người treo cổ, ừ thì y treo cổ, y có lý do của y. Hoặc y vẫn sống, lúc ấy y chỉ phải quan tâm đến cuộc sống thôi. Chẳng có gì đơn giản hơn.”
“Ôi chao,” tôi kêu lên, “phải chi nó đơn giản như thế! Còn tôi, có Chúa biết là tôi đã quan tâm đầy đủ đến cuộc đời, mà chẳng ăn thua gì. Treo cổ có thể là chuyện khó, tôi không rõ. Nhưng sống khó hơn gấp bội! Chúa ơi, khó biết mấy!”
“Dào, anh sẽ thấy nó dễ như bỡn. Mình đã làm được bước đầu rồi, anh đã lau kính, đã ăn, đã uống. Bây giờ mình đi, chải quần với giày của anh một chút, cần đấy. Rồi anh sẽ nhảy với em một bản Shimmy.”
“Cô thấy đấy,” tôi hăm hở kêu lên, “tôi nói đúng! Không gì khiến tôi lấy làm tiếc hơn là không thực hiện mệnh lệnh của cô. Nhưng mệnh lệnh này tôi không thể thi hành được. Tôi không nhảy được Shimmy; Valse không, Polka cũng không, tất cả đều không, dù chúng tên gì đi nữa, tôi chưa từng học nhảy trong đời mà. Bây giờ cô thấy rằng không phải tất cả đều đơn giản như cô tưởng chứ?”
Đôi môi đỏ chót của người con gái xinh xắn mỉm nụ cười, nàng lắc lắc cái đầu cương nghị, mái tóc cắt như con trai. Nhìn nàng, tôi ngỡ nàng giống Rosa Kreisler, người con gái đầu tiên tôi phải lòng thời là một chú bé, nhưng Rosa da hơi nâu, tóc sẫm. Không, tôi không biết cô gái xa lạ này gợi nhớ đến ai, chỉ biết đó là một người thời tôi rất trẻ, thời thơ ấu.
“Khoan đã,” nàng kêu lên, “khoan đã! Vậy là anh không biết nhảy à? Hoàn toàn không? Cả điệu onestep cũng không luôn? Chúa ơi, thế mà anh dám cả quyết rằng đã cố gắng biết mấy cho cuộc đời! Anh chỉ bịa. Bồ tèo ơi, ở tuổi này anh đừng nên thế nữa nhé. Thật đấy, làm sao anh dám nói đã nỗ lực sống, khi ngay chỉ một chuyện nhảy thôi anh cũng không muốn?”
“Nhưng nếu tôi không thể nhảy thì sao! Tôi chưa từng học bao giờ.”
Nàng cười.
“Nhưng đọc và viết thì anh có học, nhỉ? Làm tính và có lẽ cả tiếng Latin, tiếng Pháp và đủ thứ linh tinh? Em đánh cuộc anh đã ngồi mười đến mười hai năm trong nhà trường, biết đâu đã theo học cả đại học nữa và thậm chí có bằng tiến sĩ và biết cả tiếng Hán hoặc Tây Ban Nha cũng nên. Đúng không? Đấy. Nhưng chút thời gian và tiền bạc cho vài ba giờ học khiêu vũ thì anh không có nổi! Chà!”
“Tại bố mẹ tôi,” tôi chống chế, “các cụ cho tôi học tiếng Latin, tiếng Hy Lạp và đủ mọi thứ. Nhưng không cho tôi học nhảy; ở gia đình tôi nó không được ưa chuộng, chính bố mẹ tôi cũng không khiêu vũ bao giờ.”
Nàng lạnh lùng nhìn tôi, đầy miệt thị, và một lần nữa trên gương mặt nàng phảng phất nét gì gợi tôi nhớ tới thời thanh xuân của mình.
“Ra thế, lỗi là do bố mẹ anh! Thế anh có hỏi các cụ xem hôm nay anh được phép đến quán Đại Bàng Đen không? Có không? Anh bảo các cụ mất lâu rồi à? Thôi được! Nếu thời niên thiếu anh không muốn học nhảy vì vâng lời bố mẹ - em không phản đối! Tuy em không tin hồi đó anh là một đứa trẻ gương mẫu. Nhưng rồi sau đó - sau đó anh đã làm những gì suốt bao nhiêu năm ấy?”
“Chậc,” tôi thú nhận, “chính tôi cũng không còn nhớ nữa. Tôi đã nghiên cứu, chơi nhạc, đọc sách, viết lách, đi du lịch…”
“Quan niệm của anh về cuộc đời mới quái lạ làm sao! Nghĩa là anh đã luôn làm những việc khó khăn và phức tạp, còn những chuyện đơn giản anh hoàn toàn không học à? Không có thì giờ à? Không hứng thú à? Em không phản đối, đội ơn Chúa, em không phải là mẹ anh. Nhưng rồi anh làm như thể đã nếm trải hết cuộc đời, rồi bảo rằng chẳng tìm thấy gì cả; không, như thế không được!”
“Đừng trách móc tôi mà!” tôi năn nỉ. “Tôi dư biết mình điên mà.”
“Thôi đi, đừng than thở nữa! Anh hoàn toàn không điên, thưa giáo sư, theo em thấy thì anh thậm chí còn điên quá ít! Em thấy anh thông minh theo một kiểu ngu xuẩn, hệt như một giáo sư. Này, ăn thêm một ổ bánh mì nữa đi! Rồi hẵng kể tiếp.”
Nàng gọi cho tôi một ổ bánh mì nữa, rắc ít muối, phết một chút mù tạt, tự cắt cho mình một miếng nhỏ rồi bảo tôi ăn. Tôi ăn. Tôi sẵn sàng làm hết mọi điều nàng ra lệnh, mọi điều, trừ khiêu vũ. Thật thích thú vô cùng được vâng lời người nào đấy, được ngồi cạnh người nào đấy, được người ấy vặn hỏi, ra lệnh, mắng mỏ. Giá vài giờ trước đây ông giáo sư và bà vợ làm như thế này, hẳn tôi đã đỡ phải chịu khối chuyện. Nhưng không, như thế lại hóa may, bằng ngược lại tôi sẽ hụt mất nhiều thứ!
“Anh tên gì mới được chứ?” đột nhiên nàng hỏi.
“Harry.”
“Harry à? Tên của con nít! Mà anh cũng đúng là một chú nhóc, Harry ạ, dù mái tóc đã hoa râm đôi chút. Anh là một chú nhóc nên anh cần có người chăm sóc cho anh chút ít. Em không nói gì về khiêu vũ nữa. Nhưng xem anh chải tóc kìa! Anh không có vợ, không có cục cưng à?”
“Tôi không còn vợ nữa, chúng tôi đã ly dị. Tôi có cục cưng chứ, nhưng nàng không ở đây, thỉnh thoảng tôi mới gặp nàng, chúng tôi không hợp nhau lắm.”
Nàng khẽ huýt sáo qua kẽ răng.
“Xem chừng anh là một người rất khó tính, nên không ai ở với anh được. Nhưng bây giờ hãy cho em biết: tối hôm nay đã xảy ra chuyện gì đặc biệt, đến nỗi anh chạy quanh như hóa rồ vậy? Phá sản à? Thua bạc à?”
Thật khó trả lời.
“Thế này nhé,” tôi nói, “đúng ra chỉ là một chuyện nhỏ nhặt thôi. Tôi được mời tới nhà một ông giáo sư - chứ bản thân tôi chẳng phải giáo sư, giáo siếc gì - lẽ ra tôi không nên đến, tôi không còn quen ngồi tán gẫu với người khác, tôi đã quên cái đó rồi. Tôi vào đấy sẵn với cảm giác sẽ có chuyện không hay - khi treo mũ, tôi đã nghĩ ngay có lẽ tôi sẽ lại sớm cần tới nó. Vâng, trong nhà ông giáo sư này, trên bàn có một tấm hình, một bức hình ngớ ngẩn khiến tôi bực mình…”
“Hình gì? Sao anh lại bực mình?” nàng ngắt lời tôi.
“À, đó là một bức tranh vẽ Goethe, cô biết chứ, nhà thơ Goethe ấy. Người trong tranh không giống như người thật - tất nhiên không ai biết được chính xác, vì cụ đã mất đã cả trăm năm rồi. Nhưng một họa sĩ tân thời nào đấy đã chăm chút Goethe thành ra giống như hắn đã hình dung về cụ, và bức hình này làm tôi bực mình và kinh tởm - tôi không biết cô có hiểu không?”
“Em hiểu rất rõ, cứ yên trí. Anh kể tiếp đi!”
“Trước đó tôi đã bất đồng với ông giáo sư; như hầu hết các giáo sư, ông ta là một người rất yêu nước và trong thời chiến tranh đã thật thà tiếp tay dối dạt nhân dân(23) - họ thành thật tin, tất nhiên. Còn tôi là một kẻ chống chiến tranh. Nhưng điều này không quan trọng.” Tôi kể tiếp. “Lẽ ra tôi không cần nhìn bức tranh đó…”
“Lẽ ra anh không cần thật.”
“Nhưng trước hết nó khiến tôi tội nghiệp Goethe, vì tôi rất quý cụ; rồi chuyện như thế này: tôi nghĩ, vâng, tôi nghĩ hoặc cảm thấy đại khái như sau: mình ngồi đây với những người mình coi là giống như mình, những người mà mình nghĩ là họ cũng yêu quý Goethe giống như mình và hình dung tương tự như mình về chân dung của cụ; vậy mà họ lại trưng bày một bức hình nhạt nhẽo, sai lệch, tô vẽ và cho thế là tuyệt vời chứ không nhận thấy cái hồn của Goethe. Họ thấy tấm hình là tuyệt đẹp, họ muốn thế thì tùy họ thôi - nhưng với tôi đột nhiên mọi tin tưởng vào những con người này, mọi tình bạn dành cho họ, mọi cảm giác gắn bó về quan hệ người với người chấm dứt. Nói thêm là tình bạn giữa tôi với họ không sâu đậm gì mấy. Thế là tôi liền nổi giận lẫn buồn rầu và thấy mình hoàn toàn cô đơn, không ai hiểu mình. Cô hiểu chứ?”
“Dễ hiểu thôi mà, Harry. Rồi sao nữa? Anh phang tấm hình lên đầu họ à?”
“Không, tôi làm toáng lên rồi bỏ đi; lúc ấy tôi muốn về nhà nhưng…”
“Nhưng ở nhà sẽ chẳng có bà mẹ nào để an ủi hay mắng mỏ chú nhóc ngu ngốc. Ôi chao, Harry ơi, anh làm em tí nữa thì mủi lòng vì anh đấy, anh là một kẻ ngây ngô không giống ai.”
Tất nhiên, dường như chính tôi cũng thấy thế. Nàng đưa tôi một ly vang, bảo tôi uống. Quả thật nàng đối với tôi như một bà mẹ. Thỉnh thoảng tôi thấy trong một thoáng giây nàng đẹp và trẻ biết bao.
“Nghĩa là,” nàng nói tiếp, “cái cụ Goethe ấy đã chết cả trăm năm rồi và chàng Harry rất yêu quý cụ; chàng ta có một hình dung tuyệt vời về cụ, rằng dung mạo cụ có lẽ phải như thế này thế nọ, về chuyện ấy thì Harry có quyền chứ gì? Còn người họa sĩ, cũng mê cụ Goethe và vẽ một bức hình của cụ, lại không có quyền; ông giáo sư nọ cũng không luôn, hoàn toàn không ai có quyền, vì điều này không hợp ý Harry, chàng ta chịu không nổi, chàng ta phải chửi toáng lên và bỏ chạy! Nếu chàng ta khôn ngoan, thì chàng ta chỉ việc cười người họa sĩ và ông giáo sư thôi. Nếu chàng ta điên, chàng ta sẽ quăng cụ Goethe của họ vào mặt họ. Nhưng vì chàng ta chỉ là một chứ nhóc, chàng ta chạy về nhà và muốn treo cổ. Em hiểu câu chuyện của anh rõ lắm, Harry ạ. Thật là một câu chuyện khôi hài. Nó làm em buồn cười. Khoan, đừng uống nhanh thế. Rượu Burgund phải uống từ từ, nếu không sẽ nóng. Phải chỉ bảo anh mọi thứ thôi, chú nhóc ạ.”
Mắt nàng nhìn nghiêm khắc và khuyên răn như của một nữ gia sư sáu mươi tuổi.
“Ồ phải,” tôi hài lòng yêu cầu, “cô cứ chỉ bảo tôi mọi thứ đi.”
“Em nên chỉ anh cái gì đây?”
“Mọi điều cô muốn.”
“Được, em nói với anh điều này nhé. Suốt một giờ qua anh nghe em gọi anh là anh, thế mà anh luôn gọi em là cô. Luôn luôn Latin với Hy Lạp, luôn luôn cực kỳ phức tạp! Khi một cô gái gọi anh là anh mà anh không chán ghét nàng thì hãy gọi nàng là em. Đó, anh học được chút ít rồi đấy. Hai là: từ nửa giờ qua em biết anh tên Harry. Em biết, vì em hỏi anh. Còn anh không muốn biết em tên gì.”
“Có chứ, tôi rất muốn biết mà.”
“Muộn rồi, chú nhóc ơi! Khi nào mình gặp lại nhau thì anh có thể hỏi. Bữa nay em không nói nữa. Nào, bây giờ em muốn khiêu vũ.”
Nàng dợm đứng lên khiến tôi đột nhiên buồn bã. Tôi sợ nàng sẽ bỏ đi, để tôi bơ vơ, và rồi có lẽ mọi chuyện sẽ lại như cũ; nỗi sợ và kinh hoàng của tôi lại xuất hiện, tựa như cái răng tạm hết đau, thình lình nhức trở lại, rát như phải bỏng. Chúa ơi, chẳng lẽ tôi đã có thể quên chuyện gì chờ đợi mình ư? Đã có chuyện gì thay đổi chăng?
“Khoan,” tôi năn nỉ kêu lên, “cô đừng - em đừng bỏ đi! Đương nhiên em muốn nhảy bao nhiêu cũng được, nhưng đừng bỏ đi lâu quá, hãy quay trở lại, hãy quay trở lại!”
Nàng mỉm cười đứng lên. Tôi cứ nghĩ nàng cao hơn; hóa ra nàng thon thả, chứ không cao. Nàng lại khiến tôi nhớ đến người nào đấy - ai? Tôi không nhớ ra được.
“Em trở lại chứ?”
“Em sẽ trở lại, nhưng có thể phải một lúc lâu, nửa giờ hoặc cả giờ cũng nên. Em muốn nói với anh điều này: hãy nhắm mắt lại và ngủ chút ít đi; đó là cái anh đang cần đấy.”
Tôi tránh chỗ cho nàng bước qua; váy nàng chạm vào đầu gối tôi; vừa đi nàng vừa soi một chiếc gương tròn bỏ túi nhỏ xíu, nàng nhướng mày, phớt chiếc cọ thoa phấn xinh xinh lên cằm rồi khuất dạng trong gian phòng khiêu vũ. Tôi nhìn quanh: những khuôn mặt lạ, những người đàn ông đang hút thuốc, bia sánh trên mặt bàn cẩm thạch, tiếng ồn ào, la ó khắp nơi, bên cạnh là tiếng nhạc khiêu vũ. Tôi nên ngủ, nàng vừa bảo thế. Chà, bé ngoan ơi, cứ như là em biết rõ về giấc ngủ của ta vậy, nó còn nhút nhát hơn loài chồn bạch cơ! Ngủ trong cái chợ phiên như thế này, ngồi ở bàn, giữa tiếng lách cách của những cốc vại bia! Tôi nhấp rượu vang, móc túi lấy một điếu xì gà, nhìn quanh tìm diêm, nhưng thật ra tôi đâu định hút, nên đặt nó lên bàn ngay trước mặt. “Nhắm mắt lại,” nàng đã bảo tôi thế. Chúa ơi, từ đâu mà nàng có giọng nói này, trầm trầm, êm ái của một bà mẹ. Vâng lời giọng nói này là đúng, tôi từng có kinh nghiệm rồi. Tôi tuân lời nhắm mắt lại, tựa đầu vào tường, nghe hàng trăm thứ tiếng ầm ĩ chung quanh ập vào người; tôi mỉm cười trước ý tưởng ngủ ở chỗ này và quyết định đi tới cửa phòng khiêu vũ, lướt nhìn vào đấy - tôi phải thấy cô bé xinh đẹp của tôi nhảy chứ; tôi cựa quậy chân dưới gầm bàn, mãi lúc ấy tôi mới cảm thấy xiết bao mệt mỏi sau hàng giờ lang thang, nên lại ngồi ì. Và rồi tôi thiếp luôn, tuân theo mệnh lệnh của người mẹ, ngủ một cách tham lam lẫn biết ơn và tôi mơ, thật rành mạch và thú vị; lâu lắm rồi tôi mới lại mơ. Tôi mơ thế này:
Tôi ngồi chờ trong một tiến sảnh cổ kính. Mới đầu chỉ biết là mình được đăng ký diện kiến một đại nhân nào đấy, rồi sực nhớ người sắp tiếp tôi chính là ngài von Goethe. Tiếc rằng tôi tới đây không với tư cách cá nhân mà mang danh nghĩa phóng viên một tạp chí; tôi rất bực bội và không thể hiểu nổi ma quỷ nào đã đưa đẩy mình vào hoàn cảnh này. Ngoài ra tôi còn lo lắng vì một con bọ cạp, mới đây tôi còn thấy nó đang tìm cách bò lên chân tôi. Quả thật tôi đã cố đung đưa chân để gạt con vật đen trũi bò lồm ngồm đó, nhưng chẳng rõ bây giờ nó đang ở đâu và tôi không dám mò tìm.
Tôi cũng không hoàn toàn dám chắc có thật người ta cho mình gặp cụ Goethe, hay do nhầm lẫn lại khiến mình gặp Matthisson, người mà trong giấc mơ tôi cứ đinh ninh là tác giả Những bài thơ gửi Molly, vì tôi nhầm ông với Burger(24). Nhân tiện nói thêm là tôi hết sức ao ước được gặp Molly; tôi hình dung bà là người thật tuyệt vời, dịu dàng, giỏi âm nhạc, sống về đêm. Ước chi tôi không ngồi đây vì thừa ủy nhiệm của cái ban biên tập phải gió nọ! Càng lúc càng thêm bực mình về chuyện này, tôi đâm ra giận lẫy cả Goethe, nên bỗng dưng nghi kỵ và trách mọc cụ đủ thứ chuyện. Thế này chắc sẽ hứa hẹn một buổi tiếp kiến hay ho đây! Còn con bọ cạp tuy nguy hiểm và có lẽ đang trốn ngay sát người tôi, nhưng hẳn không đến nỗi nào; có thể nó, như tôi thấy, báo trước điềm vui; rất có thể nó, như tôi thấy, liên quan thế nào đấy với Molly; nó là một loại người đưa tin hay con vật vẽ trên huy hiệu của bà, một con vật biểu trưng đẹp đẽ và nguy hiểm của nữ tính và tội lỗi. Có thể nào tên nó là Vulpius(25) không nhỉ? Đúng lúc ấy một gia nhân mở tung cửa ra, tôi bật dậy bước vào.
Cụ Goethe đang đứng đấy, nhỏ thó và thẳng đơ, trên lồng ngực mẫu mực của cụ chễm chệ một tấm huân chương to tướng hình ngôi sao. Cụ vẫn luôn còn mang vẻ đang cai trị, vẫn luôn còn tiếp kiến, vẫn luôn còn giám sát thế gian từ viện bảo tàng Weimar của cụ. Nên nhác thấy tôi, cụ đã gục gặc cái đầu như một con quạ già, trịnh trọng phán: “Chà, các cậu bạn trẻ, xem ra các cậu rất ít đồng tình với bọn ta và những nổ lực của chúng ta, nhỉ?”
“Hoàn toàn đúng thế ạ,” tôi đáp mà lạnh toát người trước ánh mắt thượng thư(26) của cụ. “Thưa ngài, lớp trẻ chúng tôi quả thật không đồng tình với ngài. Đối với chúng tôi thì ngài quá trịnh trọng, quá kiêu căng, làm bộ làm tịch và không mấy thẳng thắn. Có lẽ đây là điều cốt yếu: không mấy thẳng thắn.”
Ông lão nhỏ thó ấy hơi hất cái đầu nghiêm khắc tới trước, và trong lúc cái miệng cương nghị với những nếp nhăn trông trịnh trọng của ông dãn ra thành một nụ cười tủm tỉm, sinh động tuyệt trần thì tim tôi chợt rộn lên, vì đột nhiên tôi nhớ đến bài “Hoàng hôn nghiêng xuống từ trên cao”(27) và chính con người kia, cái miệng kia đã thốt ra những vần thơ nọ. Thật ra ngay lúc ấy trong tôi mọi nghi kỵ và trách móc cụ đã tan biến sạch rồi, tôi bị cụ chế ngự hoàn toàn và không muốn gì hơn là quỳ xuống trước cụ. Nhưng tôi vẫn đứng thẳng người, nghe những lời cụ thốt ra từ cái miệng mỉm cười kia: “Chà, nghĩa là các cậu buộc ta tội không thẳng thắn? Mấy từ ấy mới ghê gớm làm sao! Cậu giải thích rõ hơn được chứ?”
Tôi sẵn sàng, rất sẵn sàng.
“Thưa ngài von Goethe, như mọi nhà tư tưởng lớn khác, ngài đã thấy và cảm nhận rõ rệt về điều nghi vấn và sự tuyệt vọng của kiếp người: lộng lẫy trong chớp mắt rồi lụi tàn khốn khổ, nỗi bất lực không thể trả giá nào khác cho sự thăng hoa của cảm giác hơn là trở thành nô lệ của những sinh hoạt thường nhật, nỗi khát khao cháy bỏng về một vương quốc của tinh thần và sự không ngừng chiến đấu một mất một còn chống lại niềm say mê cũng cháy bỏng và thiêng liêng về sự hồn nhiên, chất phác đã mất của bản tính con người - nghĩa là hết thảy nỗi chơi vơi đáng sợ trong sự trống rỗng và sự không chắc chắn, mang bản án phải tàn phai, chẳng bao giờ toàn thiện, muôn đời chỉ toàn thử nghiệm và vụng về - nói gọn, toàn bộ những bế tắc, xa rời thực tế và tuyệt vọng của kiếp người. Tất cả những điều này ngài đều rõ và minh xác từ thuở nào rồi, thế nhưng ngài lại rao giảng điều ngược lại bằng cả cuộc đời mình, ngài bày tỏ niềm tin cùng sự lạc quan, ngài lừa bịp chính mình cùng người khác rằng những nỗ lực tinh thần của chúng ta bền vững và có ý nghĩa. Ngài đã gạt bỏ và trấn áp những tiếng kêu từ đáy vực, những tiếng nói của chân lý tuyệt vọng, trong chính bản thân ngài cũng như trong Kleist và Beethoven(28). Hàng chục năm ròng ngài đã làm như thể việc tích lũy, sưu tập kiến thức, việc viết lách và gom góp thư từ, như thể cả quãng đời lúc về già của ngài ở Weimar quả là một phương cách để lưu danh thiên cổ cái khoảnh khắc mà thật ra ngài đã chỉ có thể biến nó trở thành một thứ xác ướp, để tinh thần hóa cái bản tính mà ngài đã chỉ có thể cách điệu thành một mặt nạ. Đó chính là sự không thẳng thắn mà chúng tôi thống trách ngài.”
Ngài ủy viên già nua của Viện Cơ mật đăm chiêu nhìn vào mắt tôi, miệng vẫn không ngớt mỉm cười.
Rồi cụ hỏi khiến tôi ngạc nhiên: “Nghĩa là cậu phải ghét cay ghét đắng bản Điệu sáo mê hồn của Mozart?”
Tôi chưa kịp phản bác, cụ đã hỏi tiếp: “Điệu sáo mê hồn diễn tả cuộc đời như một bài ca tuyệt diệu, nó tán tụng tình cảm của chúng ta, những thứ rất phù vân, như là gì đấy vĩnh cửu và thần thánh, nó không hùa theo các ông von Kleist hay Beethoven, mà thuyết giảng về sự lạc quan và niềm tin.”
“Tôi biết, tôi biết!” tôi bực dọc kêu lên. “Có Chúa mới rõ vì sao ngài lại viện ra ngay bài Điệu sáo mê hồn mà tôi thích nhất trên đời này! Nhưng Mozart không thọ đến tám mươi hai tuổi và trong cuộc sống riêng cũng không đòi hỏi phải trường tồn, trật tự và phẩm cách như ngài! Ông ta không làm bộ làm tịch! Ông ta đã ca hát những khúc nhạc thần và sống đói nghèo, chết trẻ, bần hàn, tài năng bị ngộ nhận…”
Tôi hụt cả hơi. Cả ngàn điều muốn nói tôi đã phải gói gọn chỉ trong mười từ, trán tôi vã mồ hôi.
Nhưng Goethe đáp lại rất thân ái: “Việc ta thọ tám mươi hai tuổi có lẽ không tha thứ được. Tuy nhiên ta ít vui thú về chuyện này hơn cậu có thể đã tưởng. Cậu nói đúng: ta luôn muốn được sống trường cửu, ta luôn sợ và chống lại cái chết. Ta tin rằng cuộc chiến đấu chống lại cái chết, lòng mong muốn sống, mong muốn một cách bướng bỉnh và vô điều kiện, chính là động lực đã khiến mọi con người xuất chúng hành động và sống. Còn việc cuối cùng con người ta vẫn phải chết thì cậu bạn trẻ ạ, ta đã chứng minh một cách cũng thuyết phục điều này với tám mươi hai tuổi đời, không khác nếu ta chết ở tuổi học trò. Ta muốn nói thêm điều này nữa, nếu có thể giúp được cho sự biện bạch của mình: bản tính ta nhiều thứ rất trẻ con, rất tò mò, ham đùa nghịch và phung phí thời gian. Thành ra ta đã phải mất khá lâu mới nghiệm ra được rằng chơi đùa thế là quá đủ.”
Goethe vừa nói vừa mỉm cười ranh mãnh, như một đứa trẻ nghịch ngợm. Ông trở nên cao lớn hơn, mất hẳn dáng dấp thẳng đơ và vẻ quyền quý gượng gạo trên gương mặt. Bầu không khí quanh chúng tôi giờ đây tràn đầy những khúc nhạc, rất nhiều bài ca của Goethe; tôi nghe rõ trong đó có bài Hoa tím của Mozart, bài Em lại phủ kín rừng rậm và thung lũng của Schubert. Giờ đây gương mặt Goethe hồng hào, trẻ trung, ông mỉm cười khi thì giống Mozart, lúc lại giống Schubert như hai anh em; ngôi sao trên ngực ông biến thành một chùm hoa đồng nội, chính giữa nở rộ một bông anh thảo vàng.
Tôi không vừa ý lắm trước việc ông cụ này muốn lảng tránh theo kiểu bông đùa như thế những câu hỏi và trách cứ của tôi, nên đã nhìn cụ đầy trách móc. Cụ liền cúi tới trước, ghé miệng, nay đã hoàn toàn thành miệng trẻ thơ, sát tai tôi thì thầm: “Này cậu, cậu quá coi trọng lão Goethe già này đấy. Chớ nên coi trọng những người già đã chết rồi, bằng không sẽ là bất công đối với họ. Chúng ta, những kẻ bất tử, không ưa coi trọng chuyện gì hết, mà thích đùa vui. Sự nghiêm trọng, cậu ạ, là công việc của thời gian; sở dĩ có nó, ta có thể tiết lộ cho cậu ngần này, là do thời gian được đánh giá quá cao. Trước kia chính ta cũng đã đánh giá quá cao thời gian, nên ta mới muốn sống đến trăm tuổi. Nhưng trong cõi vĩnh hằng, cậu biết không, không có thời gian; mà vĩnh hằng chỉ là một khoảnh khắc, vừa đủ dài cho một câu đùa.”
Quả thật tôi chẳng còn trao đổi được lời nào nghiêm chỉnh nữa với người đàn ông này; cụ nhảy nhót một cách thú vị, lên xuống mềm mại, khiến bông anh thảo lúc như hỏa tiễn vọt ra khỏi ngôi sao, lúc nhỏ rồi lại biến mất. Trong lúc Goethe trổ tài qua những bước và dáng nhảy, tôi phải công nhận rằng ít ra cụ cũng đã không bỏ lỡ chuyện học khiêu vũ. Cụ nhảy thật tuyệt vời, Tôi sực nhớ tới con bọ cạp, tới Molly thì đúng hơn, liền gọi Goethe: “Thưa ngài, Molly không có đây sao?”
Goethe cười rộ. Cụ đi lại bàn, mở một ngăn kéo, lấy một cái hộp quý bằng da hay nhung gì đấy, mở ra rồi chía trước mặt tôi. Trên nền nhung thẫm là một cái chân phụ nữ nhỏ xíu, toàn mỹ và óng ánh, đầu gối hơi co, bàn chân duỗi xuống dưới, tận cùng là những ngón vô cùng xinh xắn.
Tôi chìa tay định nắm lấy cái chân tí tẹo khiến mình say mê nọ, nhưng hai ngón tay tôi mới chực cầm thì món đồ chơi kia dường như hơi giật nhẹ, khiến tôi đột nhiên sinh nghi có thể đó là con bọ cạp. Goethe chừng như thấy rõ điều ấy, thậm chí còn có vẻ chủ tâm gây ra sự lúng túng, sự mâu thuẫn bùng lên giữa thèm muốn và sợ hãi này. Cụ gí con bọ cạp nhỏ bé duyên dáng kia vào sát mặt tôi, nhìn tôi thèm muốn nó, nhìn tôi rùng mình khiếp sợ nó và điều này dường như làm cụ thích thú. Trong lúc trêu tôi với món đồ chơi xinh xắn mà nguy hiểm nọ, cụ lại trở thành già, già khú, nghìn tuổi, tóc trắng phau như tuyết, khuôn mặt già nua tàn tạ cười không thành tiếng, kiểu cười dữ dội thâm thúy đầy hóm hỉnh bí ẩn của người già.
Khi thức dậy tôi quên mất giấc mơ, mãi sau mới nhớ lại. Hẳn tôi đã ngủ chừng một giờ giữa tiếng nhạc và sự náo nhiệt, ngay tại chiếc bàn trong quán rượu; chẳng bao giờ tôi nghĩ có thể như thế được. Cô gái đáng mến đứng trước mặt, một tay trên vai tôi.
“Cho em hai, ba mark,” nàng nói, “em đã tiêu pha chút ít ở đằng kia rồi.”
Tôi đưa ví, nàng cầm lấy quay đi, lát sau trở lại.
“Nào, bây giờ em có thể ngồi thêm với anh một lúc ngắn nữa, rồi phải đi, em có hẹn.”
Tôi hốt hoảng. “Với ai vậy?” tôi vội hỏi.
“Với một ông, nhóc Harry ạ. Hắn đã mời em lại quán rượu Nhà Hát Lớn.”
“Ơ, anh cứ tưởng em sẽ không bỏ anh một mình.”
“Vậy thì lẽ ra anh phải mời em chứ. Có người mời trước anh rồi. Ờ, thế là anh tiết kiệm được khối tiền đấy. Anh biết quán Nhà Hát Lớn không? Sau nửa đêm chỉ toàn là sâm banh, ghế bành như trong câu lạc bộ, ban nhạc da đen, rất sang.”
Tôi đã không lưu ý tới tất cả những điều này.
“Chà,” tôi khẩn khoản, “vậy để anh mời em vậy! Anh cứ nghĩ chuyện này là đương nhiên, mình đã là bạn bè của nhau rồi mà. Hãy cho anh mời em đến nơi nào em thích, anh năn nỉ đấy.”
“Anh thật dễ thương. Nhưng anh thấy đó, lời hứa là lời hứa, em đã nhận lời rồi và em sẽ đi. Đừng mất công năn nỉ nữa! Đây, uống nữa đi, trong chai vẫn còn rượu. Anh uống cho hết rồi ngoan ngoãn về nhà ngủ. Hứa với em đi.”
“Không, anh không thể về nhà được, em ạ.”
“Ối giời, anh thật nhiều chuyện! Mãi vẫn chưa xong với cái nhà ông Goethe à? (Đúng lúc ấy tôi sực nhớ đến giấc mơ gặp Goethe.) Nhưng nếu quả thật anh không muốn về nhà, thì cứ ở lại, ở đây có phòng trọ mà. Em lấy cho anh một cái nhá?”
Tôi đồng ý và hỏi có thể gặp lại nàng ở đâu? Nàng cư ngụ chỗ nào? Nàng không cho tôi biết. Nàng bảo, chỉ cần tôi bỏ chút công tìm thì thế nào cũng sẽ thấy.
“Anh không được phép mời em à?”
“Tới đâu?”
“Tới nơi nào em thích, lúc nào tùy em.”
“Được. Thứ Ba, ta ăn tối tại quán ‘Tu sĩ già dòng Francisco’, tầng một. Chào anh nhé!”
Nàng chia tay, mãi lúc đó tôi mới nhận thấy bàn tay ấy đẹp, đầy đặn, thông minh, nhân hậu, quá hợp với giọng nói của nàng. Nàng mỉm cười giễu cợt khi tôi hôn tay nàng.
Vào phút chót nàng còn quay lại lần nữa, bảo tôi: “Em muốn nói thêm với anh điều này, về cái nhà ông Goethe ấy. Thề này nhá, chuyện xảy ra với anh liên quan đến cái nhà ông Goethe đến nỗi anh không chịu đựng nổi bức hình của ông ấy như thế nào thì đôi khi em cũng như thế với các ông thánh.”
“Các ông thánh à? Em ngoan đạo đến thế ư?”
“Không, em không ngoan đạo, tiếc thay, nhưng em đã từng sùng tín và sẽ có ngày sùng tín trở lại. Người ta đâu có thì giờ để mà mộ đạo.”
“Không có thì giờ? Chẳng lẽ phải có thì giờ mới mộ đạo được à?”
“Cần chứ. Để mộ đạo cần phải có thì giờ, thậm chí nhiều thứ hơn nữa: sự không lệ thuộc vào thời gian! Anh không thể thật sự mộ đạo, đồng thời sống trong thực tại, hơn nữa lại coi trọng những thời gian, tiền bạc, quán Nhà Hát Lớn và đủ thứ linh tinh”
“Anh hiểu rồi. Nhưng chuyện các vị thánh thì như thế nào?”
“À, có một số vị thánh em đặc biệt quý trọng: thánh Stefan này, thánh Francis và nhiều vị khác. Thỉnh thoảng em thấy hình như các vị ấy, cả của Đấng Cứu Thế và Đức Mẹ, những bức hình trả giá, sai lạc, ngớ ngẩn và em cũng không chịu đựng nổi đại loại như anh với bức hình nọ của Goethe. Khi em nhìn một bức hình xinh xắn ngu xuẩn như thế của Đấng Cứu Thế hoặc của thánh Francis và thấy người khác trầm trồ khen đẹp, khiến họ phấn chấn, em liền cảm thấy như đó là một sự nhục mạ Đấng Cứu Thế chân chính và em nghĩ: chao ơi, Người đã sống và gánh chịu đớn đau nhường ấy để làm gì, nếu chỉ cần một bức hình vớ vẩn như thế của Người đủ làm họ mãn nguyện! Tuy nhiên em cũng biết rằng bức hình trong lòng em về Đấng Cứu Thế hoặc thánh Francis cũng chỉ là tưởng tượng của con người thôi, đâu sánh nổi với nguyên mẫu; đối với Đấng Cứu Thế thì ngay chính hình ảnh của Người trong lòng em cũng rõ là vớ vẩn và nghèo nàn, không khác những phiên bản xinh xắn nọ đối với em. Em nói điều này không phải để bảo việc anh tức tối và giận dữ vì bức hình Goethe là đúng; không, anh làm thế là sai. Em nói chỉ để cho anh thấy rằng em có thể hiểu được anh. Các anh, những học giả và nghệ sĩ, đầu óc toàn thứ độc đáo thật đấy, nhưng các anh cũng chỉ là con người như bao kẻ khác thôi và bọn em, những kẻ khác ấy, cũng có lắm giấc mơ và tưởng tượng trong đầu óc mình. Chẳng hạn, thưa nhà học giả, em nhận thấy anh đã hơi lúng túng khi phải kể với em câu chuyện của anh về ông Goethe - anh đã phải cố gắng để một cô gái tầm thường có thể hiểu được những điều lý tưởng của anh. Chậc, em nói thế này chẳng qua vì muốn cho anh thấy không cần phải gồng mình làm gì. Em hiểu anh mà. Thế nhé, bây giờ chấm hết! Anh phải đi ngủ thôi!”
Nàng bỏ đi và một lão bộc đưa tôi lên tầng hai; đúng hơn, trước hết lão hỏi hành lý tôi đâu; khi biết tôi không có hành lý, lão bắt tôi phải ứng trước cái mà lão gọi là “tiền ngủ trọ”. Rồi lão đưa tôi qua cái khoang cầu thang cũ kỹ tối om om lên một căn phòng, để mặc tôi ở đấy. Phòng có một chiếc giường gỗ đơn sơ, ngắn ngủn và cứng, trên tường treo một thanh gươm và một tấm hình màu của Garibaldi(29), thêm một vòng hoa đã héo ghi dấu lần liên hoan của một hội đoàn nào đấy. Tôi sẵn sàng trả bộn tiền để có một bộ đồ ngủ! Song ít ra trong phòng cũng sẵn nước và một tấm khăn tay nhỏ nên tôi có thể lau người, rồi lên giường với nguyên áo xống, cứ để đèn, nằm nghĩ ngợi; tôi thừa thì giờ mà. Bây giờ chuyện cụ Goethe thế là ổn thỏa rồi. Cụ đã đến với tôi trong giấc mơ, thật tuyệt diệu biết bao! Và người con gái tuyệt vời này - phải chi tôi biết được tên nàng! Bỗng đâu một người, một người bằng xương bằng thịt, đã đập nát cái chụp thủy tinh u ám úp lên cái chết dần mòn của tôi, đã chìa tay cho tôi, một bàn tay ấm áp, xinh xắn và nhân hậu! Bỗng dưng lại xuất hiện những chuyện liên quan đến tôi, những chuyện mà tôi có thể nghĩ tới với vui thú, âu lo, căng thẳng. Bỗng dưng một cánh cửa mở ra và cuộc đời đi qua đó đến với tôi! Có lẽ tôi có thể sống lại được, có thể tôi có thể lại trở thành một con người. Tâm hồn tôi, đã thiếp đi và gần như đã hóa băng trong giá lạnh, đang thở lại, đang ngái ngủ vỗ đôi cánh nhỏ yếu. Goethe đã đến với tôi. Một cô gái đã bảo tôi phải ăn, uống, ngủ, đã bày tỏ sự thân thiện với tôi, đã cười cợt tôi, đã gọi tôi là một nhóc con ngu xuẩn. Và nàng, người bạn gái tuyệt vời ấy, đã kể về các vị thánh và cho tôi thấy rằng ngay cả trong những lúc tôi kỳ quái nhất tôi cũng không phải là một kẻ cô đơn, không người thông cảm và một ngoại lệ bệnh hoạn, rằng tôi cũng có chị có em, rằng người ta hiểu tôi. Tôi sẽ lại gặp nàng chăng? Có, chắc chắn, nàng đáng tin cậy. “Lời hứa là lời hứa.”
Và rồi tôi thiếp đi, ngủ vùi bốn, năm giờ liền. Tôi thức dậy lúc đã quá mười giờ, áo quần nhầu nhĩ, mệt bã người, đầu còn ong ong chuyện gì đấy khá đáng sợ của hôm qua, nhưng tôi đã sôi nổi, đầy hy vọng, đầy những ý tưởng tốt lành. Trên đường về căn hộ của mình tôi không cảm thấy chút gì nữa của nỗi kinh hoàng mà sự trở về này đã gây cho tôi tối hôm qua.
Nơi cầu thang, phía trên chậu bách tán, tôi gặp “bà dì”, bà chủ nhà, người tôi hiếm khi thấy mặt, nhưng rất hài lòng về tính tình xởi lởi của bà. Cuộc chạm mặt khiến tôi không thoải mái, vì dẫu sao tôi cũng khá lôi thôi lếch thếch và bơ phờ vì thức trắng đêm, tóc tai không chải, râu ria không cạo. Tôi chào bà và định đi luôn một mạch. Bình thường bà luôn tôn trọng ý muốn của tôi được sống một mình, không bị dòm ngó, nhưng hôm nay dường như quả thật tấm màn ngăn cách tôi với thế giới chung quanh đã bị xé tan, một rào cản đã sụp đổ - bà cười và cứ đứng ở đấy.
“Ông Haller, tối hôm qua chắc ông bù khú nên không ngủ ở nhà. Ông sẽ mệt đừ cho mà xem!”
“Vâng,” tôi đáp và cũng bật cười luôn, “tối hôm qua cũng hơi quá vui thật, và vì tôi không muốn làm rộn nếp sống của nhà ta, nên đã ngủ ở khách sạn. Tôi rất trân trọng sự yên tĩnh và tiếng tăm của ngôi nhà này, nên đôi khi tự cảm thấy mình như một cơ thể lạ ở trong đó.”
“Ông đừng giễu cợt thế, ông Haller ạ!”
“Ồ không, tôi chỉ tự giễu cợt thôi.”
“Ông lại càng không nên thế. Ông không nên cảm thấy như một ‘cơ thể lạ’ trong nhà tôi. Ông nên sống như ông thích, làm những gì ông muốn. Tôi từng có vài khách trọ rất đáng kính trọng, những hòn ngọc về tư cách, nhưng chẳng ai lặng lẽ và ít làm phiền chúng tôi bằng ông. Bây giờ - ông thích uống trà không nào?”
Tôi không từ chối. Tôi được mời dùng trà trong phòng khách đầy những hình ảnh và đồ đạc cổ kính, nói với bà dăm ba câu chuyện và người đàn bà vui tính này, dù không thật sự hỏi, đã biết được chuyện này chuyện nọ trong đời sống, suy nghĩ của tôi; bà lắng nghe với vẻ vừa tôn trọng vừa không quá quan trọng hóa của bậc hiền mẫu, kiểu mà các bà vợ khôn ngoan thường có trước những gàn dở của chồng. Chúng tôi cũng đề cập tới người cháu trai của bà và bà cho tôi xem ở một phòng bên cái radio, công trình mới nhất của anh ta cặm cụi bao ngày sau khi đi làm về. Nơi đây, tối tối người thanh niên cần mẫn ấy ngồi rị mọ ráp cái máy nọ, mê say ý tưởng về kỹ thuật vô tuyến, sùng tín khấu đầu trước ông thần kỹ thuật, kẻ sau bao nghìn năm đã thành công trong chuyện phát hiện và trình bày cực kỳ không hoàn chỉnh những điều mà mọi nhà tư tưởng đều đã biết và sử dụng khôn khéo hơn. Chúng tôi trò chuyện về những điều ấy, vì bà dì này khá sùng tín và không phải không ưa những chuyện liên quan đến tôn giáo. Tôi bảo bà rằng người Ấn Độ thời cổ đại đã rành rẽ về sự hiện diện khắp nơi của mọi sức mạnh và hành động, còn kỹ thuật mới chỉ có thể biến nổi một tí chút thực tế này thành ý thức phổ biến, qua việc thiết kế một cái máy thu và phát sóng âm thanh còn thiếu sót kinh khủng. Cho tới nay, điều cốt lõi của nhận thức xa xưa nọ, rằng thời gian không có thật, chưa được kỹ thuật quan tâm, nhưng tất nhiên cuối cùng nó cũng sẽ được “khám phá” và rơi vào tay những kỹ sư xăng xái. Có lẽ chẳng bao lâu nữa người ta sẽ thấy rằng không chỉ những hình ảnh và sự kiện ở khoảnh khắc tức thời trong hiện tại mới liên tục tràn ngập chúng ta, tương tự như giờ đây người ta đã khiến âm nhạc ở Paris và Berlin cũng nghe thấy được ở Frankfurt hoặc Zurich, mà mọi chuyện đã xảy ra cũng sẽ được ghi lại cả, và một ngày nào đấy, vô tuyến hay không, rè hay không rè, ta có thể nghe vua Salomon hoặc Walther von der Vogelweide(30) nói. Lúc đó tất cả những chuyện này, giống như bây giờ trong bước khởi đầu của radio, sẽ chỉ khiến con người trốn chạy chính mình và những mục tiêu của mình, rồi tự bủa vây bằng một tấm lưới ngày một khít hơn của sự đãng trí và những bận rộn vô bổ. Nhưng tôi nói ra tất cả những điều quen thuộc này không với giọng cố hữu cay đắng và nhạo báng thời đại cùng kỹ thuật, mà đùa bỡn; bà dì mỉm cười và chúng tôi ngồi uống trà thoải mái suốt một giờ đồng hồ.
 
Chú thích

(1) Adallbert Stifter (1805 – 1868): nhà văn Áo, đã tự sát bằng dao cạo râu vì không chịu nổi bệnh tật giày vò.
(2) Descartes, Pascal: hai nhà khoa học kiêm triết gia Pháp ở thế kỷ 17.
(3) Gioto di Bondone (1266 – 1337): họa sĩ Ý.
(4) Ham let và Ophelia: những nhân vật trọng vở kịch Hamlet của Shakespeare.
(5) Gianozzo và Attila Schmelze: hai nhân vật chính trong hai quyển tiểu thuyết của nhà văn Đức Jean Paul (1763 – 1825).
(6) Borobudur: ở Java, Indonesia, nơi có đại đền Phật giáo nổi tiếng thế giới, xây dựng vào năm 800 theo kiến trúc Ấn Độ.
(7) Gubbio: một thành phố ở Trung Ý.
(8) “… Tôi khá tuyệt vọng một thời gian và không thiết sống nữa. Nhưng rồi tôi tìm được lối thoát. Tôi dự định vào sinh nhật thứ năm mươi, hai năm nữa, sẽ cho mình quyền tự treo cổ, nếu lúc ấy tôi còn mong muốn như thế…” (Thư ngày 1.4.1925 gửi vợ chồng Hugo Ball, người viết tiểu sử của Hesse).
Hesse cũng gửi thư với nội dung tương tự cho một số người khác, vào thời điểm khác.
(Thêm một chú thích: năm 1892, mới mười lăm tuổi, sau khi bị hai thầy giáo đánh đập tàn bạo, ép nhận lỗi vì “một chuyện cỏn con trong lớp mà tôi hoàn toàn vô tội”, Hesse “mất lòng tin và các thầy” nên đã toan tự tử bằng súng lục, khiến cuối năm học ấy cha mẹ ông phải đưa ông vào bệnh viện tâm thần).
(9) Outsider (tiếng Anh trong nguyên tác): người ngoài cuộc.
(10) Một số nhân vật chính trong vở kịch thơ Faust nổi tiếng của đại thi hào Đức Goethe (1749-1832).
(11) Vườn Gethsemane: nơi Chúa Jesus cô đơn cầu nguyện ba lần, trước khi bị bắt, rồi chịu khổ hình trên thập giá (theo Tân Ước).
(12) Loại chim lông sặc sỡ ở một số rừng nhiệt đới Á châu.
(13) Năm 1919, người vợ đầu của Hesse bị bệnh tâm thần phân liệt.
(14) Nhân vật chính trong tiểu thuyết cùng tên nổi tiếng của nhà văn Tây Ban Nha Miguel de Cervantes Saavedra (1574-1616).
(15) Haydn: nhạc sĩ Áo vào thế kỷ 18; Dante: nhà thơ Ý vào thế kỷ 13, 14.
(16) Cổ áo cứng rời, để gắn vào loại sơ mi chuyên dùng đóng bộ với áo smoking hoặc đuôi tôm.
(17) Tác giả muốn nói đến cuộc Thế chiến I (1914-1918).
(18) Ý tác giả nói đến thuyết Tương đối do Albert Einstein (1879-1955) đề ra vào những năm 1905 và 1915.
(19) Năm 1923, Hesse ly dị người vợ đầu, Maria Bernouilli.
(20) Đảng Quốc xã Đức của Hitler, thành lập năm 1921 - thoát thai từ một đảng cực khác - chủ trương “bài Do Thái, chống Cộng sản”, gây chiến tranh để báo thù sự thất trận trong Thế chiến I và rửa mối nhục bị Đồng minh áp đặt.
(21) Wilhelm II (gọi theo tiếng Pháp là Guillaume) hoàng đế Phổ (1886-1918); thoái vị ngày 28.11.1918, sau khi bại trận trong Thế chiến I, chấm dứt nền quân chủ ở Đức.
(22) Mithras: thần Thái Dương ở Ba Tư cổ đại; Krishna: hóa thân thứ tám của Vishnu, một trong ba ngôi thần chúa tể trong đạo Bà La Môn.
(23) Vì thế, năm 1931 – hai năm trước khi Hitler nắm quyền ở Đức, tám năm trước khi nổ ra Thế chiến II – Hesse đã rút tên khỏi Viện Hàn lâm Nghệ thuật Phổ, với lý do: “Tôi có cảm tưởng khi cuộc chiến tranh sắp tới nổ ra, Vận Hàn lâm này sẽ cống hiến cả một đám đông cho số 90 hoặc 100 nhân vật nổi tiếng được Nhà nước giao trọng trách dối gạt nhân dân về mọi vấn đề cốt tử như vào năm 1914.”
(24) Friedrich von Matthisson (1761-1831), nhà thơ. Gottfried August Burger (1747-1794), tác giả Những bài thơ gửi Molly.
(25) Christiane Vulpius (1765-1816), vợ của Goethe.
(26) Goethe từng là ủy viên Viện Cơ mật - như thượng thư ở nước ta thời phong kiến - ở Weimar. Đã từ lâu ở đây có một viện bảo tàng nổi tiếng mang tên nhà thơ.
(27) Tên một bài thơ của Goethe.
(28) Heinrich von Kleist (1777-1811): nhà văn, nhà soạn kịch Đức; Beethoven (1770-1827): nhạc sĩ vĩ đại Đức.
(29) Giuseppe Garibaldi (1807-1882): nhà cách mạng, anh hùng dân tộc của nước Ý, đã giải phóng Ý khỏi ách đô hộ của ngoại bang.
(30) Salomon: vua Do Thái thời cổ đại, tương truyền nổi tiếng sáng suốt; Walther von der Vogelweide (1170-1230): nhà thơ Đức.