Chương 5
LẬP ĐỨC:
SỐNG MỘT ĐỜI SỐNG ĐỨC HẠNH
ĐỂ XỨNG ĐÁNG LÀM NGƯỜI

Điều lạ! Nhà trường không dạy rèn tập đức hạnh.

Mặc dầu nó rất cần thiết cho sự thành công ở ngoài đời

cũng như sự thành công cá nhân

Bác sĩ A. Carrel

 

Một đời sống đức hạnh cần phải có. Chúng ta không thể quan niệm một người xứng đáng làm người mà thiếu đức hạnh. Người khuôn mẫu dầu ở thời nào hay được gọi dưới danh hiệu nào: người Hy Lạp tốt và đẹp, người lương thiện ở thế kỷ 17 của Pháp, người quân tử của Anh hay người quân tử của đạo Khổng… đều giống nhau ở chỗ: là những người biết lấy đức tu thân.

Muốn nên người điều kiện cốt yếu phải là người đức hạnh, biết sống theo luân thường đạo lý. Chữ đạo lý đây không có nghĩa trừu tượng, huyền bí của tôn giáo, chỉ nên hiểu nó theo nghĩa nhân sinh triết học, tức là đạo sống hay là đạo làm người.

Là người, chúng ta có hai con đường phải lựa chọn: sống theo bản năng của con vật vô tri hoặc sống theo bản năng của có người có một lý trí, một quả tim, một lương tâm. Người biết suy nghĩ ắt không khỏi tự hỏi: “Điều đáng biết là mình muốn sống với thần minh hay quỷ sứ”. Hỏi tức là trả lời vậy.

Luân lý phát sinh vì đó là sự nhu cầu cần thiết của đời sống cá nhân và xã hội.

Không phải những triết gia làm nên luân lý. Nếu không có họ con người cũng biết sống theo luân lý vì cần phải sống một cách luân lý, cũng như con người vẫn biết nói chuyện và hiểu nhau trong khi chưa có nhà văn phạm lập ra khoa văn phạm.

Đạo đức, luân lý không phải như Voltaire quyết đoán “là của nhà giàu đặt ra để giữ tài sản của họ khỏi bị cướp bóc”, hoặc theo vài nhà xã hội học hiện giờ “là của giai cấp thống trị đặt ra để kềm chế giai cấp bị trị”. Nếu có người lợi dụng nó và toan lấy nó để làm của riêng đó lại là vấn đề khác.

Nói rằng luân lý là nhu cầu cần thiết của con người và xã hội, vì “Thiện” là sống và “Ác” là chết.

Nói theo bác sĩ A. Carrel:

“Thiện là những gì làm nẩy nở, duy trì, phát triển sự sống của con người và xã hội”.

Thiện là tất cả những gì phù hợp với khuynh hướng căn bản của bản chất, của cấu tạo con người và xã hội.

Thiện tức là những gì phù hợp với lề luật của sự sống.

Ác là những gì làm ngưng trệ, suy đồi hay hủy hoại sự sống của con người và xã hội.

Rượu, á phiện, truy hoan là “ác” vì nó hủy hoại thân thể của mình hiện tại và gây di truyền bất hảo cho nòi giống mình mai hậu.

Nói xấu, gièm pha, ghen tỵ, phao vu chẳng những vi phạm đạo đức yêu người là tội mà vì nó làm mất sự thăng bằng ở tâm hồn của mình mà cũng làm đảo lộn trật tự trong xã hội (lối tuyên truyền của đảng phái, lối “giặc nguội” giữa các cường quốc).

Về xã hội cũng thế. Một tổ chức xã hội không giúp cho con người sống một cách đầy đủ về vật chất, không giúp cho con người phát triển về tinh thần là không hợp luân lý.

Đành rằng ở thời buổi này một người chỉ có đức hạnh, không chơi bời, trụy lạc, không rượu chè, hút xách, ăn ngay ở thẳng chưa ắt đã có đủ đức tính để làm nên với đời. Chúng ta được thấy nhiều người hư thân, mất nết, rất vô liêm sỉ vẫn chễm chệ ngồi trên ô tô, vẫn ăn trên ngồi trước. Song chúng ta có nên ham muốn sự thành công về một phía ấy chăng? Hơn nữa, những người đã thành công mà thiếu đức ấy chưa hẳn đã thành công lâu dài. Chúng ta há chẳng thường chứng kiến nhiều tên tuổi trong một sớm một chiều rơi vào vũng bùn chỉ vì họ đã phải nô lệ cho một thói hư, đắm mê một sắc đẹp. Chúng ta cũng đã từng chứng kiến những sự nghiệp sụp đổ vì người gây dựng ra nó thiếu một chữ “tín”. Người xảo quyệt đến dâu cũng chỉ có thể gạt một vài người trong nhất thời, không thể gạt tất cả mọi người trong mọi thời.

Chúng ta không chóa mắt trước những thành công thiên về một mặt vừa bộc phát vừa bệnh hoạn ấy. Chúng ta hoài bão một sự thành công đầy đủ hơn, lành mạnh hơn, vững bền hơn. Có ai lại đi phí công trổ tượng thêu hoa trên một gấm vóc mục nát?

Con đường đức hạnh là con đường khắc khổ, nó dẫn dắt ta đến thành công một cách chậm chạp song vững vàng hơn.

Con đường đức hạnh là con đường khắc khổ. Nói đến đức hạnh, luân lý là nói đến một đời sống có quy phạm, một đời sống khắc khổ. Sự hy sinh là định luật của sự sống. Đức hy sinh, sự khắc khổ không dành riêng cho các vị thánh hiền. Đã là người, nếu muốn sống cho ra sống thì ai cũng phải tuân theo lề luật khắc khe ấy. Người bệnh muốn tìm lại sức khỏe phải chịu ép mình, ép xác nhịn ăn món này, chịu khó uống thuốc nọ; nhà buôn mộng ô tô, nhà lầu phải thắt lưng buộc bụng trong bao nhiêu năm để gây nên số vốn đầu tiên; nhà bác học đeo đuổi một công trình phát minh phải hy sinh những thời giờ, những cao vọng, có khi cả đời sống!

Muốn trở nên nhà đức hạnh cũng như muốn thành một lực sĩ, một nghệ sĩ hay một nhà bác học, phải biết sống khắc khổ. Sự tiến triển của tinh thần, cũng như nẩy nở của bắp thịt, chúng ta phải mua bằng mồ hôi, nước mắt. Đó là điều mà người ta quên nói hay không dám nói thẳng với người bạn trẻ.

Sự giáo dục quá thiên về tri thức tạo ra hạng người có óc mà không có tim. Về giáo dục như đã nói ở trước, người ta chỉ lo mở đường học vấn, không ai lo tập cho đứa trẻ đi đường đức hạnh. Người ta chỉ lo khai trí, không biết khai tâm.

Ở thế kỷ trước, một nhà văn trong khi cao hứng đã đưa ra khẩu hiệu: “Mở cửa một trường học tức là đóng cửa một khám đường”.

Sự lầm lạc này người ta nhận thấy rõ. Hiện nay học vấn, khoa học càng được phổ thông nhưng tội ác vẫn đầy tràn.

Vì sao? Vì học vấn không làm cho con người trở nên đức hạnh. Đức dục và trí dục là hai phần của giáo dục. Một đàng mở mang tri thức, một đàng uốn nắn để nâng cao tâm hồn. Một đàng dạy cho hiểu biết, một đàng dạy ta biết xử thế. Một đàng giúp ta biết suy nghĩ, một đàng giúp ta quyết định.

Lối giáo dục quá thiên về tri thức, đặt khoa học trên tâm đức, chỉ kể lý trí, bỏ quên tình cảm, chỉ tạo ra hạng người có óc mà không có tim.

Cách đây mấy thế kỷ, nhà triết học Hy Lạp Soc-rate đã hỏi đệ tự của ông là ông Xénophon: “Bạn đã học hỏi nhiều điều hữu ích, nhưng bạn có thể cho tôi biết người ta có thể tìm học ở đâu cách trở nên người tốt?”, và ông nói tiếp “Có ích lợi gì mà thông hiểu mọi sự khác nếu anh không biết điều thiết yếu? Và anh sẽ dùng khoa học để làm gì nếu anh không biết dùng nó để làm điều thiện?”.

Ở trường học, người ta vẫn dạy luân lý nhưng… Có bạn sẽ bảo: “Người ta vẫn dạy luân lý trong trường học”. Vâng, chúng tôi vẫn biết thế, song đó là lối dạy lấy lệ, bằng cớ: khi đi thi người ta chỉ khéo xét về óc thông minh, về trí nhớ của đứa trẻ, không ai cần xét xem trình độ tâm đức của nó cao hay thấp.

Hơn nữa, lối dạy trừu tượng và thụ động chỉ gồm những bài học về luân lý suông, chỉ nêu lên những phương châm của các thành hiền: “Phải cư xử như thế này, phải ăn ở như thế này, vì đó là thuận lẽ trời, vì đó là Chúa dạy”, không đủ sức đem lại cho đứa trẻ một lý tưởng luân lý, càng không thể tạo cho đứa trẻ những đức hạnh. Bác sĩ A. Carrel nói: “Phải đâu xem hết vài pho sách thánh hiền là ta có thể trở nên người đức hạnh”. Một nhà chính trị cũng là một nhà giáo dục, ông J. Ferry viết: “Cần nhiều bài học, nhiều bài đọc, nhiều câu cách ngôn, viết, chép, đọc đi đọc lại. Nhưng cần nhất là bài luyện tập thực hành, những cố gắng, những hoạt động, những thói quen. Về luân lý trẻ em cần sự tập luyện, như về cách tập đọc hay tập làm toán”.

Thêm vào đó sự thiếu những bậc thầy cô có tài mà cũng có đức, hạng thầy luôn luôn theo quan niệm xưa, “có minh đức mới có thể tân dân”, hạng thầy mà thời xưa người ta cung kính xếp trên hàng cha mẹ, làm cho sự dạy về luân lý khó có kết quả vì “người ta không thể truyền dạy cái gì người ta biết, người ta chỉ truyền dạy cái gì người ta có”.

Nhất là về luân lý. Với hạng thầy như anh chàng Topaze mà nhà văn M. Pagnot đã khéo diễn tả trong một vở kịch bất hủ, tay chỉ những cách ngôn luân lý viết trên bảng đen cho học trò đọc:

Hoạnh tài bất phú.

Tiền không làm nên hạnh phúc.

mà trong tâm thì mưu toan lập kế để đào tiền cách vô liểm sỉ… Với hạng thầy nói một đàng, quàng một nẻo, làm gì có đủ uy tín để gây lòng tin tưởng mạnh mẽ, một lý tưởng cao siêu nơi tâm hồn người bạn trẻ.

Nói đến luận lý, phải chăng đã bất hợp thời? Cho nên chúng tôi lấy làm lạ thấy nhiều bạn trẻ khi nghe nói đức hạnh, luân lý đã phì cười như khi mình đem “ông kẹ” hoặc ông “ba bị” nhát họ.

“Bất hợp thời! Sống trước đã!”, họ bảo thế. Chúng tôi rất hiểu họ.

Khi người ta quá thiên về vật chất, khi người ta chỉ biết lấy sự thành công về tiền tài mà đánh giá con người, khi người ta cho rằng “con người là con chó sói đối với người” thì lẽ cố nhiên những giá trị tinh thần còn ai chịu nhận. “Không đạo làm gì vựt được đạo”.

Lo kiếm gạo, kiếm tiền, kiếm thật nhiều tiền, bất luận bằng cách nào, đó là mục đích duy nhất và thiết thực nhất. Ngoài ra, đức hạnh, luân lý đều là những danh từ rỗng không.

Chủ nghĩa hãnh tiến, con đẻ tự nhiên của những cuộc chiến tranh, những cuộc xáo trộn lớn lao trong xã hội được bạn trẻ tôn thờ. Có cả một lối xử thế, một kỹ thuật sống, một hệ thống tư tưởng nầy sinh do chủ nghĩa này: “Tất cả những phương tiện đều tốt, đều có thể dùng để đạt lấy cái gì mình muốn”, “Đừng ngạc nhiên về điều gì cả và sẵn sàng lợi dụng tất cả”. Người mưu mô, xảo quyệt được xem là người có thủ đoạn. Người xu thời khéo bợ đỡ được xem là người thức thời. Người ăn chơi đàng điếm, hút xách được xem là người thạo đời. Người khéo xoay xở được cho là người khôn ngoan.

Chân lý bên mép núi này, sai lầm bên mép kia. Một hạng người khác tuy chưa đến nỗi bị “mù điếc về luân lý” vẫn còn đủ lương tri để nhận thấy con người cần sống theo luân lý, nhưng gặp phải bệnh hoài nghi.

Họ cho rằng luân lý là ước lệ của con người, nó biến đổi theo mỗi thời đại, theo biên giới của mỗi nước, như thế hơi đâu mà tin theo, và từ nghi ngờ đến ngờ vực, họ phủ nhận tất cả mọ luân lý.

Chúng tôi rất hiểu họ: đứng trước bao nhiêu hệ thống luân lý, người muốn đi tìm một lý tưởng để tôn thờ không sao khỏi băn khoăn, thắc mắc.

Lấy đâu làm chuẩn đích cho hành động luân lý? Lấy khoái lạc, hạnh phúc theo Aristippe, Epicure? Lấy lợi ích theo Stuart Mill, Bentham? Lấy khắc khổ của phái Stoiciens? Lấy danh dự của A. de Vigny? Lấy bác ái, vị tha của Đức Chúa Giê Su, Phật Thích Ca? Lấy mạng trời của Khổng Tử? Lấy sức mạnh của Nietzsche, Hobbes?

Họ cũng muốn thành thật trong cuộc chơi, nhưng ít ra mọi người trong cuộc chơi phải thừa nhận luật lệ của trò chơi. Mình cho rằng làm như thế là phải nhưng người khác có tin như mình chăng? Đã không tin, họ sẽ hành động khác và rốt cuộc chỉ có mình thua thiệt. Nếu cho rằng chỉ có sức mạnh là lẽ phải thì còn ai ngủ xuẩn tin theo thuyết nhân ái? Nếu cho rằng khoái lạc là “thiện” mà đau khổ là “ác” thì còn ai có can đảm buộc mình sống khắc khổ với mình?

Đã ngờ vực, không tin theo một thứ luân lý nào, nhưng họ vẫn sáng suốt thấy cần phải có luân lý. Và họ tự làm ra một thứ “luân lý cao su” để họ dùng, khi co khi dãn, tùy thời cơ thùy thế, tùy theo tư dục hay tư lợi cũng nên. Phản bội người bạn có hề gì (?) nếu sự phản bội ấy đem lợi lộc cho mình, vì có thứ luân lý rằng “lợi” tức là “thiện” kia. Cam sống cuộc sống tối tăm hèn yếu có là sao (?) miễn thân này được an nhàn, an phận thủ thường phải chăng thuận lòng trời?

Những triết gia có thể lầm lạc, nhưng lý tưởng luân lý vẫn đáng cho ta tin tưởng. Người biết suy nghĩ có quyền nghi kỵ các học thuyết luân lý nhưng không thể phủ nhận lý tưởng luân lý: có ai vì nghĩ rằng y học còn bất lực chưa trị nổi nhiều chứng bệnh mà không tin tưởng ở y học chăng?

Luân lý là một khoa học do loài người đặt ra, lẽ diễn nhiên là có những khuyết điểm vì có khoa học nào đã cấu thành một cách vĩnh viễn. Với những hiểu biết đến mức nào đó, nhà khoa học sẽ thí nghiệm, khảo xét và rút ra những định luật làm nồng cốt cho khoa học. Nhưng khi những hiểu biết nới rộng ra, nhà khoa học phải khảo xét lại những lý thuyết, những định luật ấy, đem ra đối chiếu với sự kiện, với thực tại và rút kinh nghiệm mới để nêu ra những định luật mới nếu cần.

Về khoa học luân lý cũng thế. Ở một thời đại nào đó, những triết gia tìm cách giải quyết vấn đề luân lý theo những yếu chỉ sẵn có trong tay, họ suy luận, lập thành hệ thống. Nhưng khi hoàn cảnh thay đổi (xã hội, chính trị, địa dư) đưa ra những sự kiện mới, thấy rằng những định luật luân lý đã nêu ra không còn áp dụng vào đời sống thực tiễn nữa, những triết gia lại phải tìm ra định luật mới. Sự có nhiều hệ thống luân lý không làm cho ta nghi ngờ luân lý. Trái lại, khi thấy dù ở Âu hay Á, dù ở thời đại thượng cổ hay nguyên tử cũng vẫn có người thiện chí để tâm suy nghĩ về đạo sống, có hoài bão giúp cho con người biết phép cư xử sao cho phải đạo làm người, chúng ta càng thấy rõ lẽ sống của con người là tiến bộ, là hướng về “thiện”.

Sự phản trái của những hệ thống luân lý cũng không làm cho ta mất tin tưởng ở giá trị luân lý. Vì tuy những triết gia chưa tìm ra một hệ thống luân lý mà mọi người đồng thừa nhận, ít ra những công cuộc tìm chân lý của họ cũng giúp chúng ta nhận thấy một vài chân lý. Họ có thể lầm lạc, nhưng lầm lạc một cách thành thực. Điều ấy không đáng sợ.

Đáng sợ chăng là những người dõng dạc tuyên bố: “Không đáng tuân theo một luân lý nào cả”. Hoặc những người quyết đoán: “Luân lý, đạo đức là bất di bất dịch”.

Phải giải quyết vấn đề luân lý như thế nào? Nhìn thấy cảnh trạng đen tối, con người vui thích mà vẫy vùng trong tội lỗi, nhà duy tâm rung đùi than: “Này lúc cương thường đảo nghịch ru!”. Rồi thôi hết. Họ chỉ biết khuyên: “Con người phải ăn ở cho đức hạnh, phải làm lành, lánh dữ”. Họ chỉ nêu cao những lý tưởng, không giúp cũng không cần biết chúng ta có những phương tiện gì để thực hiện được lý tưởng ấy chăng? Họ cho rằng nếu chúng ta còn đắm mê trong tội lỗi là bởi vì chúng ta chưa tiến hóa, là bởi chúng ta còn mang nợ kiếp trước.

Nhà duy vật hằn học đổ lỗi cho xã hội: con người còn làm ác, làm tội vì con người chưa biết tổ chức một xã hội hoàn thiện. “Thiện ác không còn là vấn đề luân lý nữa. Nó sẽ chỉ là vấn đề tổ chức hợp lý thôi. Xã hội tổ chức mà hợp lý, danh giá tài lợi sẽ không như bây giờ làm đầu mối cho tội ác…”. Nếu có thể giải quyết vấn đề luân lý một cách máy móc giản dị như thế thì thật là may mắn cho nhân loại.

Nhưng trong khi chờ đợi một xã hội tổ chức theo lý tưởng ấy chúng ta phải giải quyết vấn đề luân lý như thế nào ngay ở hiện tại?

Vì đã nói ở trước, luân lý là sự nhu cầu khẩn thiết của con người. Chúng ta không thể hẹn hoặc đợi khi có những điều kiện nào đó mới thỏa thích sự nhu cầu ấy. Trong đời sống hàng ngày, chúng ta luôn luôn có dịp đối đầu với những bài toán luân lý mà chúng ta cần phải giải quyết ngay. Đối với mình, đối với người, đối với xã hội, đối với quốc gia.

Phải dạy con như thế nào? Dạy nó lẽ nhân từ, bác ái, giao phó sự thưởng phạt cho “trời đất” hay rèn luyện cho nó một “quả tim rắn” để nó đủ gan lì tự nó làm lấy công lý?

Chúng ta có thể dùng những phương tiện triệt để trong việc bài trừ những tai họa xã hội như rượu, á phiện mặc dù những phương tiện ấy sẽ đụng chạm đến tự do cá nhân?

Nhưng luân lý khúc chiết hơn. Nếu đã có một nền luân lý vững vàng, tuyệt đối có thể rút ra những định lý chắc chắn như định lý số học hay hóa học để mỗi khi gặp việc chúng ta có thể mang ra dùng thì nói gì. Nhưng khoa luân lý đâu như số học, không thể dùng ròng không tưởng thuần túy để tạo nên. Mỗi khi người ta toan dùng lý trí để đặt ra vài định lý thì có người đứng lên phản đối vì quả tim cần được cảm thông hơn là được giải thích. Nói theo Pascal: “Chúng ta không thể tỏ rằng chúng ta phải được yêu, dù chúng ta có vạch rõ được những nguyên do cần tình yêu”.

Cho nên một vài định lý luân lý mà các triết gia đưa ra không được mọi người thừa nhận như định lý khoa học.

“Điều gì mình không muốn làm cho mình thì chẳng nên làm cho người”.

Theo nguyên tắc này: ta không muốn ai hài tội mình, vậy nếu ta biết một người đánh cắp vợ người bạn mình ta có nên hài tội người ấy với bạn mình chăng? Ông tòa có thích ngồi tù chăng? Nhưng ông vẫn buộc tội bỏ tù phạm nhân?

“Mỗi người phải được hưởng tùy theo nhu cầu của mình”.

Như vậy thì một người biếng nhác nhưng có nhu cầu cũng phải được hưởng nhiều hơn một người có ít nhu cầu nhưng siêng năng. Phải chăng là công lý?

“Mọi người phải được hưởng tùy theo công nghiệp của mình”.

Nhưng có nhiều công nghiệp do may mắn tạo thành. Một người may mắn sinh ra với nhiều thuận lợi: sức khỏe, tiền tài, trí tuệ giúp cho họ lập nghiệp dễ dàng, trong khi ấy lắm người nhiều công trạng hơn nhưng chẳng làm nên công nghiệp gì cả, chẳng lẽ họ không đáng hưởng gì cả sao?

Tuy chưa tìm ra một nền luân lý hoàn toàn, tuyệt đối chúng ta cũng phải lọc qua các ý kiến, các tư tưởng của những triết gia xưa nay để rút ra một vài chân lý làm phương châm xử thế trong lúc này và ở trong hoàn cảnh xã hội hiện nay.

Trên những ý kiến đối chọi nhau, ít ra những triết gia xưa, nay cũng đã gặp nhau ở vài điểm mà sau khi được trải qua thử thách của thí nghiệm, của thời gian người ta vẫn đúng. Cũng có thể gọi là chân lý luân lý.

1) Phải có thiện chí. Có thiện chí là thật lòng, ráng sức suy nghĩ, cố tìm xem, trong một hoàn cảnh như thế, ở một trường hợp như thế chúng ta có cách nào xử sự cho phải lẽ.

Và khi đã tin rằng mình đã chọn lẽ phải, quả quyết thi hành đúng theo sự tin tưởng của mình. Đó là điều kiện tối cần của mọi luân lý, mặc dù là chưa đủ. Vì, dù có thiện chí đến đâu, nếu không đủ sáng suốt ta cũng có thể lầm đường lạc nẻo trong khi mình tưởng rằng đã đi đường chính. Nhưng sự lầm lạc của người thiện chí ít nguy hại hơn người biết đường phải mà không chịu tiến bước.

Người tuân theo luân lý nhà Phật, luân lý đạo Nho, luân lý đạo Thiên Chúa hay luân lý khoa học đều có thể đạt đức nếu họ hành động đúng theo lý tưởng của họ: “Có trí óc minh mẩn chưa đủ, nguyên tắc chính là biết áp dụng nó một cách khôn khéo”. Câu này của Descartes nói về việc khai trí có thể chuyển sang lĩnh vực luân lý không sai mấy.

Có được sự liêm khiết tinh thần ấy chúng ta mới có thể tự hào rằng đã làm bổn phận làm người.

2) Muốn có đức phải luyện tập đi đường đức hạnh. Tâm đức cũng như thể chất, chỉ nẩy nở, phát triển nhờ sự luyện tập. Người không luyện tập thể dục không thể thành lực sĩ. Người không cố gắng rèn luyện mình đi đường đức hạnh có mong gì đạt đức.

Bác sĩ A. Carrel nói: “Không phải đọc một quyển sách luân lý là có thể thành người đức hạnh. Không ai có thể rèn luyện hộ tâm hồn ta”, và ông nói thêm: “ …Đó là sự sáng tạo của mình và do mình. Sự sáng tạo ấy là việc nung đúc đời sống bên trong theo một lý tưởng. Là xây dựng nơi mình, với những vật liệu tuy chưa hoàn hảo, một tâm hồn mạnh. Tất cả mọi người, ngu dốt hay thông thái, giàu hay nghèo, già hay trẻ đều có thể, nếu họ biết trì trí làm nẩy nở sức mạnh bên trong họ”.

Cùng một ý nghĩ như thế, trong sách Gương Phước nói: “Một bác nông phu biết phụng sự thờ Chúa chắc chắn ở trên nhà triết học tự cao, quên mình, chỉ lo ngắm nhìn sự đi lại của các tinh tú”.

Về luân lý, dùng trí lực để đi tìm lý tưởng chưa đủ, phải biết dùng tâm lực để thực hiện lý tưởng ấy. Cùng một lượt phải dùng đến trí tuệ và tình cảm, trí thức và tín ngưỡng.

3) Phải biết hạn chế lòng ham muốn để đặt sự an tĩnh của tâm hồn. Người chỉ biết muốn cái gì mình có thể đạt được là người thấu hiểu bí quyết hạnh phúc. Người tham muốn quá sức có những hoài vọng trên địa vị của mình quá nhiều luôn luôn sống trong lo âu, phiền muộn. Cũng trong sách Gương Phước nói: “Kẻ kiêu ngạo, người hà tiện không bao giờ được an tĩnh; người nghèo và người tâm hồn mộc mạc trong sự sung túc của hòa bình” vì lẽ ấy.

Nói thế không phải cổ võ cho thái độ ươn hèn của người cam chịu an phận thủ thường. Vì chịu nhận điều gì mình có thể tránh đâu phải là khôn ngoan. Song như Maeterlinck nói: “Sau khi đã gõ đủ các cánh cửa lý tưởng: sức khỏe, danh vọng thẩm mỹ, khoa học phú quý, nếu chúng ta thấy rằng sự không thể tránh đã đến thì phải biết nhẫn tâm quy phục và thích ứng sự ham muốn của mình theo cảnh ngộ. Giẫm chân, bứt tóc là thái độ của trẻ con mà than vãn kêu khóc là hèn.

4) Con người không thể sống ngoài xã hội. Hiện nay còn ai có ý nghĩ rằng con người có thể sống riêng biệt ngoài xã hội? Vậy muốn làm lại con người ít ra phải kể đến hoàn cảnh xã hội con người đang sống; không thể xem con người như một vật riêng biệt mà phải ngắm nhìn con người đang sống trong xã hội. Sự cải tạo con người phải đi cùng một lượt sự cải tạo xã hội để tạo nên một hoàn cảnh thuận tiện cho sự phát triển con người. Đức Giáo hoàng Léon XIII trong chỉ dụ Rerum novarum cũng nhìn nhận: “Trong một xã hội khéo tổ chức phải có sự đầy đủ về vật chất cho người ta có thể nghĩ đến việc rèn đức hạnh”.

Nên luân lý không phải chỉ lo tạo ra những người hùng cô lập sống trong tháp ngà mà phải tạo ra những người biết lẽ liên đới giữa xã hội và con người, những người hiểu rằng: họ sẽ được rỗi thì được rỗi chung hoặc nếu bị mất thì cũng mất chung.

Đức Khổng Tử nói đến “lập nhân, đạt nhân” là đã hiểu lẽ hỗ tương quan hệ nên “lập”, “đạt” cho nhân loại chính là “lập”, “đạt” cho mình vậy. (Trong câu: “Phù nhân giả, kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân” (Luận Ngữ) mà ông Đoàn Như Khuê đã khéo dịch trong Luận Ngữ Cách Ngôn:

Muốn mình thành lập ở đời,

Cũng mong gây dựng cho người bằng ta.

Muốn mình thông đạt gần xa,

Cũng mong dẫn dụ người ta như mình.”.

5) Không có luân lý, xã hội không tồn tại. Nói đến việc sống chung là nói đến trật tự, kỷ luật, hòa hợp, tương trợ, công bình và bác ái. Xã hội không thể tồn tại khi người hợp thành nó sống một cách tự do, phóng túng, vô trật tự, không biết kính nể, tương trợ, nhường nhịn và thương yêu lẫn nhau.

Biết rằng chúng ta không thể sống ngoài xã hội thì chúng ta có bổn phận làm cho đời sống xã hội được tồn tại, nghĩa là phải biết ép mình, buộc mình theo khuôn khổ một luân lý.

Luân lý có bổn phận hạn chế bảng năng con người để dùng hòa với bản năng xã hội. Đôi khi hạn chế tự do hay quyền lợi cá nhân, nhưng là để bảo vệ xã hội, mà như vậy cũng tức là để bảo vệ cá nhân.

Khi người con trai và người con gái đẹp đôi xứng lứa gặp nhau, họ nhìn liếc nhau, thèm muốn nhau, đó là hành động theo bản năng tính, nhưng họ không thể như con vật chỉ biết theo bản năng, hễ mỗi khi họ thích nhau là phối hợp nhau để sinh con đẻ cháu. Là con vật có lý trí, họ biết tuân theo một luân lý. Trong xã hội hiện đại luân lý quy định và hạn chế sự phối hợp không cho phép đàn ông lấy vợ lẽ vì muốn bảo vệ trật tự xã hội hiện giờ, nếu một người đàn ông có thể bảo bọc cùng một lúc đôi ba gia đình, nhưng họ không đủ thời giờ để lo giáo dục đôi ba dòng con, cũng không tài nào gây hạnh phúc đôi ba gia đình.

Những nguyên tắc này đủ giúp cho người có thiện chí muốn tìm con đường chính đại một phương hướng rõ rệt. Đó là vài nguyên tắc tổng quát, bất luận ai hoặc ở thời đại nào cũng có thể thừa nhận. Tuy nó không giải quyết đủ mọi trường hợp, nhưng với bao nhiêu đó cũng đủ giúp một người có thiện chí muốn tìm con đường chính đại một phương hướng rõ rệt. Cũng như địa bàn chỉ phương hướng cho người thuyền trưởng, nhưng không chỉ rõ khi gặp sóng cả, đá ghềnh phải làm thế nào, song người lái thuyền cũng biết tùy thời cơ, tùy trường hợp, dùng kỹ thuật hàng hải thêm óc phán đoán, kinh nghiệm để dò dẫm đường đi và dẫn dắt con thuyền đến bến.

Luân lý dạy ta: “Phải có thiện chí”, “phải tập mình đi đường đức hạnh”, “phải hạn chế lòng ham muốn”… Bao nhiêu đó cũng đủ cho chúng ta biết rõ bổn phận mình đối với mình.

Luân lý chỉ cho ta biết: “Con người không thể sống ngoài xã hội”. “Không có luân lý xã hội không tồn tại”. Tức là buộc chúng ta phải biết cư xử cho đúng lẽ công bình, bác ái, đừng làm điều gì có hại cho người sống chung, luôn luôn giúp cho người đồng loại tiến cho bằng mình. Đó là bổn phận chúng ta đối với xã hội.

Đó là phương hướng chung, còn về những chi tiết: “đàn bà có nên phơi bộ ngực đi ngoài đường”, có nên tin theo câu: “tiết hạnh khả phong”, “có nên xử tử những người phạm tội sát nhân”, “có nên trai năm thê bảy thiếp, gái chín chuyên một chồng”, những điều ấy phải tùy thời, tùy xứ, tùy trường hợp, không có luân lý nào có thể giải quyết một cách nhất quyết.

Nhưng tại sao chúng ta quá băn khoăn về những chi tiết trong khi chúng ta chưa làm xong điều chính mà chúng ta đã hiểu, đã biết?

Cách đây 2.000 năm, có người hỏi đức Giê Su: “Thưa Thầy, chúng con phải làm gì cho được rỗi linh hồn?”  Người đáp: “Mày phải kính chúa và yêu anh em mày như mình vậy”.

Bài học về đạo làm người ấy ngắn ngủn làm sao, nhưng đến nay có ai dám nghĩ rằng không đầy đủ?

Chúng tôi muốn mượn một câu trong sách Gương Phước để kết luận chương này:

Bao nhiêu lời nói cũng không đủ thỏa mãn tâm hồn, nhưng một đời sống đức hạnh và một lương tâm trong sạch sẽ đem lại sự an tĩnh cho tâm hồn… Bởi nhiều người quá lo hiểu biết hơn là lo biết sống nên họ thường lạc bước và hoặc ít hoặc không thâu thập kết quả những việc họ làm”.