Phân I - Chương 1
Thế nào là nên người

Không ai tự nhiên nên người,
 song người ta trở nên người.
Người ta thường lầm lộn ý nghĩa hai danh từ “nên người” và “làm nên”.
Đây là một người xoay xở đâu được một món tiền to, tậu nhà, tậu xe là được hàng xóm trầm trồ đưa làm mẫu cho con cháu: “Đấy, con người ta bằng tuổi bây mà xem, người ta đã nên thân với đời”. Vâng, người ấy đã làm nên với đời thật, song có thể bảo người ấy đã “nên người” chăng nếu phần trí thức của họ là miếng đất hoang vu hoặc phần tâm đức của họ là một vũng sình lầy?
Đây là một bác sĩ du học ở ngoại quốc mới về quê. Cha mẹ đều mừng cho đứa con đã nên thân với đời. Nhưng nếu người bác sĩ ấy mang thân xác về quê mà chỉ còn một lá phổi, thử hỏi có thể bảo ông ta đã “nên người” chăng?
Đây là một nhà văn đã làm nên một sự nghiệp văn chương, nhưng nếu nhà văn ấy sống một cuộc đời bê tha, vô liêm sỉ, lạm dụng chút tài hoa để lừa dối bạn bè cùng những người hâm mộ, có thể bảo nhà văn ấy đã xứng đáng làm người chăng?
Một người chỉ làm nên ở một điểm hoặc ở một phần nào, thí dụ về chức nghiệp hay về tiền bạc, còn những phần khác lại khuyết điểm hay hư hỏng, những khối óc to mà chân tay bở như đất hoặc những tấm thân bồ tượng mà chứa bộ óc rỗng không, đó là những mảnh vụn chứ không phải là một người đầy đủ, đó là những dị nhân có cánh tay thật to gắn trên thân hình thật bé. Những người như thế dù tài năng hay địa vị họ đến đâu cũng không thể bảo họ đã nên người, một người xứng đáng làm người với tất cả những ý nghĩa của nó.
Năm xưa, một tờ báo bên Pháp phê bình một vị phi công đại tài đã hợp tác với quân Đức: “Là một phi công đại tài nhưng là một người thấp kém”.
Cũng bởi quan niệm làm người như thế nên nhạc sĩ trứ danh Beethoven nói: “Tôi thích làm một người xứng đáng hơn một nhạc sĩ trứ danh”. Ông Roosevelt cựu Tổng thống Mỹ nói về một giáo sư danh tiếng: “Ông ấy đã hơn một nhà bác học, vì ông đã là một người với tất cả ý nghĩa của nó”.
Có thể nói một người đã nên người là khi họ biết làm phát triển con người của họ một cách điều hòa và đầy đủ về tất cả những phương diện: thể chất, trí thức, tâm đức và xã hội.
Một người xứng đáng làm người là một người có một thân thể tráng kiện, một khối óc sáng suốt, một lý tưởng cao đẹp.
Người ấy không phải là y sĩ, nhưng cũng biết cách giữ gìn sức khỏe, phòng ngừa bệnh tật, biết chọn thức ăn, biết cách cầm máu, biết làm hô hấp nhân tạo, biết phép nuôi con.
Người ấy không phải là lực sĩ, nhưng có thể cử tạ năm mươi cân, mang bao bị trên vai, đi chân đôi ba chục cây số, có thể ngủ ngoài trời ở giữa đồng mà không sợ bị trúng sương cảm gió, có thể, nếu cần thức liền hai ba đêm để làm xong một công việc mà không ngầy ngật, có thể nhảy xuống sông cứu người sắp chết đuối.
Người ấy không phải là tu sĩ, những luôn luôn tìm hiểu những thị dục, những chỗ yếu của mình, có thể đủ sáng suốt để phân biệt đâu là hạnh phúc thanh cao, đâu là thú vui thấp hèn, có đủ đức hy sinh để hiến thân cho một nghĩa vụ cao cả, hoặc có thể làm một cách âm thầm những công việc bất vụ lợi mong đem lại đôi chút hạnh phúc cho những người xấu số hơn mình.
Người ấy không phải là thi sĩ, nhưng rất có thể cảm thông cái đẹp của vũ trụ cũng như cái khổ đau của nhân loại. Tim họ có thể hòa nhịp với những khúc nhạc của gió chiều dạo trên lá trúc, cũng như đôi khi họ cũng nhỏ những giọt nước mắt không đâu để khóc vay cho thiên hạ.
Người ấy không phải là chiến sĩ, nhưng họ rất hiểu lề luật sắt của tạo vật: luật chiến đấu. Họ chiến đấu để chinh phục con người họ, chiến đấu để chinh phục cuộc đời.
Biết rõ giá trị của cần lao và sức cố gắng, họ dám liều lĩnh nếu cần liều lĩnh. Thành công, họ không vênh váo, vì họ biết đó là kết quả tự nhiên của sự cố gắng. Bị ngã quỵ họ không sờn lòng, vì họ rất yêu đời, tin ở đời, tin ở sự tiến bộ không ngừng của nhân loại… vì họ biết rằng chỉ có những người không làm gì cả mới không thất bại.
Người ấy mới thật nên người. Người ấy dù là một tay thợ hay một người làm công cũng có thể kể là một giá trị trong xã hội. Vì chỉ có nhân phẩm mới làm tiêu chuẩn để đánh giá một con người.
Và trong xã hội nào, ở thời nào người ta cũng cần những người ấy. Ngày xưa, ông Diogène xách đèn giữa thanh thiên bạch nhật để tìm một người; ở thế kỷ 19 ông Jouffroy đã thốt tiếng than: “Chúng ta thiếu người”. Phải chăng là những người như thế?
Có bạn sẽ bảo: “Đó là những lý tưởng trong tiểu thuyết!”. Không, đó là những người chúng ta có thể chung đụng hàng ngày.
Đó là hạng người mà nền giáo dục tương lai có phận sự nung đúc. Vì có ai “tự nhiên mà nên người, song người ta trở nên người” nhờ sự giáo dục khôn ngoan và hợp lý.
Ngày xưa, người học trò tốt là người có trí nhớ dẻo dai, có thể trả thuộc lòng cho thầy nghe những bài học thường khi vô dụng.
Ngày xưa, đứa con ngoan là đứa con nhu mì, thiệt thà, ít nói, nước da trắng như bột, thích sống quanh quẩn trong gia đình.
Ngày nay, với đời sống hoạt động cần nhiều tranh đấu, muốn nên người, muốn sống với tất cả ý nghĩa thật của cuộc đời người bạn trẻ phải được nung đúc theo một lề lối giáo dục mới. Vì: “Giáo dục một người là gì? Phải chăng là rèn tập cho họ có thể đối đầu với mọi hoàn cảnh”.
Lẽ cố nhiên, dù xưa hay nay cũng thế, người tốt là người biết nhân, lễ, nghĩa… Song với cuộc sống đấu tranh hiện nay: là một người nết na nhu mì chưa đủ, phải là người quả quyết, đầy tự tin; là người hiền đức chưa đủ, phải là người hoạt động, đầy nghị lực; là người biết lo tròn bổn phận chưa đủ, phải là người có nhiều sáng kiến để làm hơn bổn phận của mình; là người có thiện chí chưa đủ, phải là người có nhiều ý chí…
Những giá trị cũ không phải hoàn toàn bị phá bỏ, nhưng chúng ta phải thừa nhận thêm những giá trị mới. Và chúng ta thử tìm một con đường giáo dục mới…