Biên dịch: Kiều Mai
Hồi thứ mười bảy
Nữ anh hùng trấn giũ Lưỡng Lang quan
Thúc Dạ trá hàng, dâng Hà Giang Phủ

Ngũ quân Đề Đốc nghe chư tướng nói như vậy đáp:
- Chư tướng đề nghị như vậy cũng phải, song chồng con ta đã chết về tay Phiên nô, thù ấy không đội trời chung, ta đã có cách phá tan bọn Phiên quân tàn bạo.
Mọi người im lặng, phu nhân lại truyền lệnh:
- Chư vị hãy tuân lệnh ta thi hành cho nghiêm cách mới được. Nơi Tam Sơn khẩu đã có bố trí sẵn súng thần công. Bây giờ phải đem hết thiết hỏa xa ra đó để làm chướng ngại vật cản đường tiến của quân địch. Khi chặn được địch rồi thì phải nhả đạn trước sau cho đều chớ để một tên nào tẩu thoát, nhớ chưa?
Chư tướng đồng thanh tuân lệnh đi bày trí đâu đó xong xuôi thì phu nhân cũng kiểm điểm binh mã, đội ngũ chỉnh tề kéo binh ra ngoài thành lập trận thế.
Ngột Truật xem thấy phu nhân oanh oanh liệt liệt, chép miệng khen thầm:
- “Hèn chi thiên hạ đồn chẳng sai, rõ ràng là trang nữ trung hào kiệt”.
Lương phu nhân thấy Ngột Truật nhìn sững liền quát lớn:
- Tên mọi kia, ra trận sao không xưng tên còn đứng đó sao?
Ngột Truật đáp:
- Đại Kim Quốc, tứ điện hạ Xương Bình Vương Tảo Nam đại nguyên soái, Hoàn Nhan Ngột Truật chính là ta, còn ngươi là ai hãy xưng tên ra trước đây cho thiên hạ biết.
Ngột Truật lại nói:
- Ta hằng nghe ngươi là một tay võ nghệ cao cường tinh thông thao lược nhưng nay ta cử đại binh thi hành theo thiên mạng chiếm đoạt giang san nhà Tống, chẳng khác đá kia đem đi chọi trứng, nội nay mai Biện Kinh sẽ thuộc về tay ta. Nếu ngươi thức thời hãy tuân theo mạng trời quy hàng cho sớm thì mạng ngươi được bảo toàn mà chức Ngũ Quân đô đốc của ngươi cũng không mất. Ngươi hãy chọn một đường mà đi kẻo ăn năn không kịp đấy.
Lương phu nhân nghe mấy lời ngạo mạn nổi giận mắng:
- Loài mọi Phiên, chồng con ta đã vì mi bỏ thây trong Phiên trại, ta hận vì chưa bắt được mi để ăn gan cho hả giận nên quyết đến đây liều sinh tử một phen. Mi đừng uốn ba tấc lưỡi đối với ta vô ích.
Ngột Truật cười gằn:
- Ai giết chồng ngươi để làm gì? Ta chỉ truyền lệnh vây chặt trong dinh ta đó thôi, nếu ngươi bằng lòng quy hàng ta sẽ trả chồng con ngươi ngay tức khắc.
Lương phu nhân không tin hết lớn:
- Đừng nói dối, hãy xem ngọn thương của ta đây.
Vừa nói phu nhân vừa vung thương đâm thẳng. Ngột Truật đưa búa ra đỡ rồi tiếp đánh.
Hai người đánh nhau chừng năm hiệp vẫn chưa phân thắng bại nhưng xét thấy nữ nhi chống với anh hùng được sao? Lương phu nhân liệu bề đánh không nổi nên quay ngựa chạy lui vào ải.
Ngột Truật vỗ ngựa rượt theo. Khi quân Phiên đến gần trước ải, Lương phu nhân truyền lệnh nổ súng thần công và xô thiết hỏa xa ra cản đường.
Chư tướng vâng lệnh cho nổ súng vào đám quân Phiên. Đột nhiên một tiếng sét nổ vang lên long trời lở đất, khói bốc lên chín tầng mây loang ra ngoài mấy dặm.
Trước cảnh tượng ấy ai nấy đều kinh hồn táng đỏm. Khi bình tĩnh lại thì thấy mấy khẩu thần công đều toác miệng ra làm đôi, cửa ải bị vỡ toang, tạo thành một con đường lớn chạy thẳng tắp vào ải.
Cho nên đời sau thiên hạ thường có câu: “Lôi chấn Tam Sơn khẩu, pháo toạc Lưỡng Lang quan” nghĩa là trời đã giúp quân Phiên phá súng, mở đường cho Ngột Truật xua quân theo đại lộ tràn vào ải.
Lương phu nhân thấy lòng trời giúp cho Ngột Truật  nên chép miệng thở dài than:
- Thôi thế này thì khí số nhà Tống đã hết rồi.
Bà không chần chừ vội quất ngựa chạy thẳng vào rừng. Thật từ khi bà biết cầm thương lên ngựa đến giờ chưa khi nào thảm bại một cách kinh khủng như chuyến này.
Bà chạy một đỗi xa xa đến một lùm cây rậm rạp muốn tìm chỗ nghỉ ngơi đôi chút, bỗng nghe có tiếng gọi văng vẳng:
- Phu nhân ôi, công tử ở đây này, xin phu nhân hãy xuống ngựa vào đây.
Phu nhân nghe vậy vội gò cương nhìn vào lùm cây rậm kia thì rõ ràng hai vợ chồng người vú con đang bồng công từ. Bà vội xuống ngựa chạy đến bồng con hôn và khóc một hồi.
Vợ chồng người vú hỏi:
- Chẳng hay phu nhân ra trận thắng bại thế nào?
Phu nhân lắc đầu đáp:
- Trời đã giúp cho kẻ địch chiếm cứ thành trì rồi. Ta chắc lão gia và con ta khó toàn mạng được. Bây giờ chưa biết chúng ta phải nên ẩn trú nơi nào?
Nói đến đây phu nhân tủi lòng rơi lụy, than thở cùng vợ chồng người vú trong rừng rậm rất bi thảm.
Trong lúc ấy Hàn Thế Trung còn đang mắc trong vòng vây đánh phá tứ tung mà không sao thoát ra được.
Trong cơn lúng túng, thoạt trông thấy vòng vây địch quân nới lỏng dần, quân vây trở nên thưa thớt. Hàn Thế Trung lấy làm mừng rỡ nhưng nguyên soái có biết đâu Ngột Truật đã cầm chân nguyên soái để tràn vào chiếm cứ ải quan. Trong  lúc ấy ải quan đã thất thủ rồi mà Hàn Thế Trung lại mừng rỡ, nỗ lực phá vòng vây tẩu thoát.
Nguyên soái chạy được một quãng xa chợt thấy một viên tướng Phiên đang cố rượt bắt một tên tiểu tướng, Hàn Thế Trung nhìn kỹ thì viên tiểu tướng kia chính là Đại công tử con mình.
Nguyên soái mừng rỡ reo lên:
- Hãy chạy đến đây, có cha đây này.
Công tử cứ việc chạy và la to:
- Cha ôi, tướa và hạ cầu xuống cho quân bên ngoài ùa vào.
Lúc ấy Lục Đăng đang ở trong dinh ngồi bấm óc tìm mưu kế bỗng thấy bọn tùy tướng sợ hãi chạy vào báo:
- Quân Phiên hãm được thành đã kéo vào vô số, xin lão gia liệu định.
Lục Đăng nghe vậy vội vào hậu đường gọi phu nhân nói:
- Thành này đã thất thủ tôi còn sống làm chi nữa? Phải hy sinh cho trọn nghĩa quân vương.
Lục phu nhân đáp một cách tỉnh táo:
- Nếu tướng công quyết tận trung vì nước, thiếp đây cũng quyết tận tiết cùng chồng vậy.
Dứt lời bà quay lại nói với người vú:
- Hôm nay ta với lão gia tử tiết, dòng họ Lục chỉ còn một giọt máu này thôi, xin người vì tình ráng nuôi dưỡng cho cháu thành người để mai sau có người thờ phụng tổ tiên thì ngươi là đại ân nhân của dòng họ Lục, hai ta ở chốn tuyền đài vẫn đội ơn ngươi đấy.
Bà dặn dò đôi ba phen rồi vào trong phòng thắt cổ chết.
Lục Đăng thấy vợ chết trước mình liền than thở:
- “Thôi đã đến bước đường cùng rồi, ta nên tự xử là hơn”.
Rồi bước ra đại đường rút dao đâm xuyên qua cuống họng. Chết rồi mà thây vẫn trơ như tượng đồng nên có thơ điếu Lục Đăng như sau:
Thành vỡ, anh hùng đã hết mong
Âu đành tử tiết, thế là xong
Gương trung muôn thuở không phai nhạt
Tiết nghĩa nêu danh khách má hồng.
Tướng sĩ thấy Lục Tiết Đạt sứ và phu nhân đã vì nước quyên sinh nên không chống cự, chỉ lo chạy trốn hết. Bà vú còn đang lo gom góp vàng bạc cùng đồ tế nhuyễn đã nghe lạc ngựa đến gần, túng thế phải bế Lục công tử chạy trốn sau cánh cửa.
Ngột Truật vừa xông đến vội xuống ngựa cắp búa bước vào chợt trông thấy một người cầm gươm đứng sững giữa đại đường liền quất lớn:
- Ngươi là ai, hãy xem cây búa của ta đây.
Vừa hét vừa chém tới nhưng chẳng thấy người ấy động đậy và nói năng gì hết. Ngột Truật lấy làm lạ dừng tay bước đến nhìn kỹ xem, thì ra người ấy là Lục Đăng nhưng đã tự vẫn chết rồi.
Ngột Truật nghĩ thầm:
- “Lạ thật, lý nào người đã chết sao chưa chịu ngã?”.
Ngột Truật tiến sâu vào hậu đường nhưng vẫn im phăng phắc không một tiếng động, chỉ có một cái thây đàn bà nằm chết dưới đất, lục soát khắp nơi chẳng thấy một ai bèn trở ra đại đường thì thấy Lục Đăng hãy còn đứng trơ trơ.
Ngột Truật lại nghĩ thầm:
- “Hay là Lục Đăng đã chết rồi mà còn sợ ta vào thành nhiễu hại đến bá tính nên chưa an tâm chết chăng?”.
Còn đang ngạc nhiên, bỗng Hấp Mê Xi đến vui vẻ nói:
- Tôi nghe chúa công ở đây nên đến trợ giúp.
Ngột Truật nói:
- Có quân sư đến thì hay lắm, vậy thì quân sư hãy ra truyền lệnh cho quân sĩ hãy tìm chỗ trống mà an dinh hạ trại, chớ có động chạm đến của dân. Ai vi lệnh thì chém đầu lập tức.
Hấp Mê Xi lĩnh mệnh ra truyền lệnh cho quân sĩ. Ngột Truật đến trước thây xác Lục Đăng nói:
- Lục tiên sinh ơi! Tôi chẳng hề hại đến bá tính của ngài xin ngài hãy nằm xuống cho yên thân.
Dứt lời Ngột Truật vẫn thấy xác Lục Đăng đứng trơ trơ không nhúc nhích lại tiếp:
- Có phải người đàn bà chết nơi hậu đường là phu nhân của ngài đã vì chồng mà tận tiết chăng? Nếu quả vậy thì tôi xin đem thây hai vợ chồng chôn chung một chỗ và chôn ngoài đại lộ để thiên hạ qua lại biết danh hai vợ chồng tiên sinh là trung thần và tiết phụ, như vậy ngài có bằng lòng không?
Nhưng vẫn không thấy Lục Đăng ngã, Ngột Truật lại nói:
- Tôi nghe xưa Sở bá vương Hạng Võ tự vẫn cũng đứng sừng sững như vậy, đến khi Hán vương Lưu Bang vái lạy mới chịu ngã. Nay Lục tiên sinh là kẻ trung thần, tôi có lạy ngài vài lạy cũng chẳng hại chi.
Nói rồi liền sụp lạy nhưng cũng vẫn không thấy xác của Lục Đăng ngã xuống. Ngột Truật lấy làm lạ không biết tính sao bỗng thấy quân sĩ bắt được một người đàn bà trong tay có bồng đứa con nít  dắt đến bẩm:
- Người đàn bà này đang bồng đứa con nít cho bú sau cánh cửa, chúng tôi bắt được xin trình chúa công.
Ngột Truật bèn hỏi người đàn bà ấy:
- Ngươi là ai lại bồng đứa bé nấp sau cửa cho bú?
Mụ vú sa nước mắt đáp:
- Đứa bé này là công tử của Lục lão gia, còn tôi đây là người vú nuôi công tử. Cảm thương cho lão gia và phu nhân đã vì nước quyên sinh, chỉ còn một chút huyết mạch đây thôi, xin lão gia dung thứ.
Ngột Truật nghe nói cảm động sa nước mắt liền quay lại nhìn Lục Đăng và nói:
- Lục tiên sinh ơi, tôi không khi nào tuyệt hậu tự của ngài đâu và nguyện nhận con của ngài làm con, đưa về bổn quốc để cho vú này nuôi dưỡng cho khôn lớn nên người, rồi cũng để theo họ ngài thừa tiếp hương hỏa ngày sau, chẳng biết ngài có vui lòng không?
Nói vừa dứt lời thì thấy xác Lục Đăng ngã xuống đất, Ngột Truật cả mừng bèn bồng Lục công tử vào lòng.
Lúc ấy Hấp Mê Xi bước vào thấy thế vội hỏi:
- Chúa công bồng con ai vậy?
Ngột Truật bèn thuật lại mọi việc cho quân sư nghe, Hấp Mê Xi nói:
- Nếu quả đứa bé này là con của Lục Đăng thì xin chúa công hãy cho tôi, để tôi giết nó mà báo thù về việc bị bố nó xẻo mũi.
Ngột Truật nghiêm sắc mặt hét:
- Đừng làm như vậy, đứa bé này có tội tình gì? Vả lại làm tôi thì ai vì chúa nấy, phỏng như quân sư có bắt được kẻ gian tế có bao giờ tha cho hắn không? Tuy Lục Đăng là kẻ địch nhưng ta kính người là một đấng trung thần, chớ nên làm càn. Phải cắt năm trăm quân hộ tống công tử với nhũ mẫu đem về bổn quốc mà nuôi dưỡng, đồng thời phải khâm liệm Lục tiên sinh và phu nhân đem đến chỗ cao ráo chôn cất tử tế.
Sau đó Ngột Truật để Hấp Lợi Tô trấn thủ Lộ An Châu, còn bao nhiêu thì kéo qua đánh Lưỡng Lang quan.
Lưỡng Lang quan có tổng binh Hàn Thế Trung trấn giữ. Hôm ấy người đang thao luyện quân sĩ, bỗng có quân thám tử vào phi báo:
- Lộ An Châu đã bị thất thủ, vợ chồng Lục lão gia đều tử tiết, nay Ngột Truật lại dẫn quân đến đây còn cách thành chừng trăm dặm xin nguyên soái định liệu.
Nghe tin phi báo Hàn Thế Trung lập tức truyền lệnh cho các tướng sĩ ra nơi tam khẩu là nơi yếu địa để ngăn chặn rồi cho phục binh ở đó và đặt súng ống rất nhiều, một mặt làm biểu văn sai người về Biện Kinh cấp báo.
Hàn Nguyên soái còn đang lo liệu toan tính bỗng có quân vào phi báo:
- Nay có tiết đạt sứ là Tôn Hạo đem năm vạn quân đi vòng qua thành lướt tới dinh Phiên rồi.
Hàn Thế Trung lấy làm lạ nghĩ thầm:
- Lạ thật tên gian tặc ấy mãi đến bây giờ nó mới tới sao? Nhưng sao nó lại không đến hợp với ta lại đến thẳng dinh Phiên? Phải chăng binh của Ngột Truật hơn năm mươi vạn còn binh của nó tài cán gì mà dám đương đầu như vậy?
Hàn Thế Trung lại nghĩ:
- Nếu không phát binh tiếp ứng thì đạo binh của Tôn Hạo sẽ bị tiêu diệt hết, bằng ra tiếp ứng thì ải chẳng ai giữ.
Còn đang do dự có kẻ chạy vào báo:
- Có phu nhân đến hội kiến.
Nguyên soái bèn ra mắt phu nhân, vợ chồng ngồi đối diện, nguyên soái lên tiếng hỏi:
- Phu nhân có mưu chước chi hay không?
Phu nhân nói:
- Thiếp nghe Tôn Hạo dẫn quân đến dinh Phiên, thiết tưởng hắn tài cán bao nhiêu mà dám chống chọi với năm mươi vạn quân của Ngột Truật, nhưng nếu tướng công chẳng phát binh tiếp ứng thì ắt gian thần sẽ dâng bổn về triều báo buộc tướng công rằng ngồi yên chẳng tiếp cứu. Vì theo ngu ý của thiếp thì tướng công phải phát binh đi tiếp cứu mới được.
Hàn nguyên soái nói:
- Lời phu nhân nói rất phải.
Rồi quay qua hỏi chư tướng:
- Có ai dám lãnh binh đi cứu ứng Tôn Hạo không?
Bỗng có một tiểu tướng bước ra bẩm:
- Con xin lãnh mạng.
Nguyên soái xem lại thì tiểu tướng ấy không ai khác hơn là đại công tử Hàn Thượng Đức.
Nguyên soái nói:
- Thế thì hay lắm, con hãy đem một ngàn quân tinh nhuệ đi cứu Tôn Hạo.
Công tử điểm binh mã ra đi, bỗng nghe phu nhân kêu lại bảo nhỏ:
- Phàm đạo làm tướng thì cần phải nghe cho đủ tám hướng và thấy cho đủ bốn phương. Gặp lúc nên đánh thì chớ có chần chừ, gặp lúc không nên đánh thì chớ có cưỡng. Con không thấy mặt Tôn Hạo thì không nên xông vào chỗ nguy hiểm nghe chưa?
Công tử lĩnh mệnh dẫn quân ra khỏi thành đến gần dinh Phiên chàng quay đầu ngó qua thấy một vùng đất khá rộng đều là quân Phiên đồn trú.
Thượng Đức nghĩ thầm:
- Quân Phiên đông như vậy nếu ta đánh tới thì một ngàn binh này chết hết, bằng chẳng đánh tới thì không biết Tôn Hạo ở đâu, bây giờ biết liệu sao đây?
Nghĩ vậy, vội quay qua dặn quân sĩ:
- Chúng bay hãy đóng tại đây để một mình ta xông vào dinh Phiên tìm Tôn Hạo. Như tìm được thì hiệp nhau đánh phá, bằng không gặp Tôn Hạo ta có chết tại dinh Phiên, chúng bay hãy chạy về báo cho lão gia hay.
Quân sĩ vâng lệnh đóng binh tại đó rồi một mình Thượng Đức vỗ ngựa vung đao xông đến dinh Phiên hét lớn:
- Có lưỡng lang quan Hàn Thượng Đức đến phá dinh bay đây.
Vừa hét vừa múa đao xông tới chém quân Phiên rụng đầu như sung những tưởng đâu vào tìm cho được Tôn Hạo có ngờ đâu cả đạo quân của y đã chết hết rồi.
Quân Phiên chạy vào báo với Ngột Truật:
- Nay có một tên tiểu nam man xưng là Hàn Thượng Đức xông vào đánh phá dinh ta vô cùng lợi hại, xin chúa công định liệu.
Ngột Truật quay hỏi quân sư:
- Hàn Thượng Đức là người thế nào?
Hấp Mê Xi đáp:
- Tên ấy là con trai lớn của Hàn Thế Trung, tôi đã nói với chúa công trước rồi đó. Vì cha mẹ nó võ nghệ cao cường nên mới sinh con dũng mãnh như vậy.
Ngột Truật mỉm cười:
- Dẫu sao nó cũng chỉ có một mình xông vào dinh trại ta, há lại có thề chống nổi năm mươi vạn quân của ta sao? Thôi để ta đi bắt sống dụ nó đầu hàng.
Nói rồi truyền lệnh các tướng sĩ cần phải bắt sống Hàn Thượng Đức cho kỳ được nhưng chớ gây thương tích. Quân Phiên ào ra một lượt bao vây Thượng Đức nhưng Thượng Đức không chút sợ hãi, chàng tả xông hữu đột tung hoành trong đám quân Phiên giết chúng vô số nhưng lớp này ngã lớp kia ùa vào, công tử không tài nào thoát ra nổi.
Binh tướng của Hàn Thượng Đức đóng ngoài xa trông ngóng hơn nửa ngày vẫn không thấy tin tức công tử đâu cả, chúng đoán chắc công tử đã chết trong dinh Phiên rồi, bèn đem nhau trở về thành báo với nguyên soái Hàn Thế Trung:
- Công tử bảo chúng tôi đóng binh ở ngoài rồi một người một ngựa xông pha trong dinh Phiên đã hơn nửa ngày mà không thấy ra, chúng tôi đoán chắc tính mạng người khó bảo toàn.
Nguyên soái nghe báo vội vào chốn hậu đường nói lại cho phu nhân hay.
Bà phu nhân nghe xong liền khóc rống lên nói:
- Đành rằng đã làm tướng thì phải liều mình vì nước, ngặt vì con tôi tuổi còn trẻ chưa từng thụ hưởng tước lộc của triều đình mà lại bỏ mình chốn sa trường, thật tội nghiệp.
Nguyên soái nói:
- Thôi phu nhân chớ nên bi thương làm gì, tôi quyết đem quân ra đó để nghe tin tức quân Phiên và báo thù cho con.
Nói rồi kiểm điểm binh mã kéo ra thành nhắm dinh Phiên thẳng tới.
Đi được nửa đường binh sĩ đều dừng ngựa, nguyên soái lấy làm lạ hỏi:
- Tại sao đến đây chúng bay lại không đi nữa?
Quân sĩ bẩm:
- Lần trước cũng đến tại đây, công tử truyền lệnh rằng trong dinh Phiên binh mã đông lắm, dù cho chúng ta có đôi ba nghìn quân đi nữa đến đó cũng chỉ nạp mạng mà thôi, nên để chúng tôi đồn trú tại đây chờ đợi.
Nghe vậy nguyên soái rơi nước mắt nói:
- Trước đây đã có lệnh của con ta như vậy thì đến lượt ta, các người cũng đóng binh tại đây mà đợi ta.
Dứt lời nguyên soái một mình một ngựa xông vào dinh Phiên hét lớn:
- Có Đại Tống Hàn nguyên soái đến đây!
Vừa hô hét vang rền vừa vung dao xông vào dinh Phiên chém giết mở đường qua khỏi mấy lớp dinh của giặc, không ai ngăn cản nổi.
Ngột Truật nghe quân phi báo khen nức nở:
- Hàn Thế Trung quả thật là anh hùng.
Rồi quay lại bàn việc cơ mật với quân sư, đoạn truyền quân sĩ hãy bao vây Hàn Thế Trung cho chặt, cố bắt sống không được giết.
Ngột Truật điểmmấy mươi vạn binh mã đi vòng sang phía hữu quyết chiếm lấy Lưỡng Lang quan.
Quan tổng binh Hàn Thế Trung tuy võ nghệ tinh thông song quân Phiên đông như kiến khó bề thoát khỏi vòng vây, vì thế đành chịu mắc kẹt trong đám quân giặc.
Một ngàn quân của Hàn Thế Trung đang đóng giữa đường bỗng thấy Ngột Truật rầm rộ kéo quân tới, hoảng hốt chạy về thành phi báo:
- Nguy tai! Nguy tai! Nguyên soái cũng đã bỏ mạng bên dinh Phiên rồi.
Phu nhân đang đứng trên ải nghe quân về phi báo tin dữ, lòng đau như cắt nhưng không dám khóc than vì sợ rối lòng quân khó bề phòng thủ.
Phu nhân tỏ ra bình tĩnh, không một chút nao núng truyền lệnh:
- Chúng bay phải cố sức canh giữ ải quan cho nghiêm ngặt, nếu ai trái lệnh ta chém đầu lập tức.
Quân sĩ dạ ran rồi bà cho gọi hai vợ chồng người vú giữ nhị công tử vào phòng dặn nhỏ:
- Việc đã khẩn cấp không biết rồi đây ta sống chết ra sao chưa có thể đoán trước được. Hai ngươi hãy thu góp hết vàng bạc cùng đồ tế nhuyễn, bồng con ta lên ngựa chạy ra khỏi ải, lựa chỗ rừng rậm ẩn nấp để nghe ngóng tin tức. Nếu như ta thắng được giặc thì hai ngươi sẽ trở về thành, bằng ta có thất thủ bỏ thây giữa trận tiền thì hai ngươi phải bồng con ta đi cho thật xa, dùng tiền của đó buôn bán làm ăn, nuôi con ta ăn học nên người. Khi khôn lớn hãy đưa về triều để nối chức của lão gia. Hai ngươi cũng được chung hưởng phú quý với nó.
Nói đến đây phu nhân thò vào túi lấy cái ấn trao cho vợ chồng người vú nói:
- Ngươi hãy giữ kỹ hai cái tướng ấn đây, phòng ngày sau dâng cho Thiên triều để làm tín vật. Ta phó thác chút huyết thống ấy cho hai ngươi, xin hai ngươi vì tình mà tận tâm với ta chớ nên sơ suất, linh hồn ta dưới suối vàng sẽ theo phù hộ hai ngươi.
Hai người động lòng rơi lụy, lo thu nhặt vàng bạc rồi bồng công tử lên ngựa chạy thẳng ra khỏi thành.
Chỉ mấy khắc sau quân lại vào phi báo:
- Quân Phiên đã đến bên thành rồi.
- Tướng Phiên đang đứng trước thành khiêu chiến.
Quân vào cáo cấp dồn dập, Lương phu nhân vội nai nịt gọn gàng rồi cầm thương lên ngựa ra quan ải.
Khi bà đến nơi, các tướng tá nghênh tiếp lên ải và thưa:
- Thưa Ngũ quân đề đốc, quân Phiên tràn đến thế mạnh như nước vỡ bờ, xin phu nhân chớ nên xuất trận, hãy kiên trì phòng thủ thành chờ binh tiếp cứu đến rồi sẽ hay. Nhưng Lương phu nhân lúc ấy tưởng chồng mình đã bỏ mạng trong dinh trại địch nên quyết sống chết với chúng một phen, làm sao có thể ngồi chờ quân tiếp viện cho đành?!

Truyện Nhạc Phi Diễn Nghĩa LỜI GIỚI THIỆU Hồi thứ nhất Hồi thứ hai Hồi thứ ba Hồi thứ tư Hồi thứ năm Hồi thứ sáu Hồi thứ bảy Hồi thứ tám Hồi thứ chín Hồi thứ mười Hồi thứ mười một Hồi thứ mười hai Hồi thứ mười ba Hồi thứ mười bốn Hồi thứ mười lăm Hồi thứ mười sáu Hồi thứ mười bảy Hồi thứ mười tám Hồi thứ mười chín Hồi thứ hai mươi Hồi thứ hai mươi mốt Hồi thứ hai mươi hai Hồi thứ hai mươi ba Hồi thứ hai mươi bốn Hồi thứ hai mươi lăm Hồi thứ hai mươi sáu Hồi thứ hai mươi bẩy Hồi thứ hai mươi tám Hồi thứ hai mươi chín Hồi thứ ba mươi Hồi thứ ba mươi mốt Hồi thứ ba mươi hai Hồi thứ ba mươi ba Hồi thứ ba mươi bốn Hồi thứ ba mươi lăm Hồi thứ ba mươi sáu Hồi thứ ba mươi bảy Hồi thứ ba mươi tám Hồi thứ ba mươi chín Hồi thứ bốn mươi Hồi thứ bốn mươi mốt Hồi thứ bốn mươi hai Hồi thứ bốn mươi ba hồi thứ bốn mươi bốn Hồi thứ bốn mươi lăm Hồi thứ bốn mươi sáu hồi thứ bốn mươi bảy Hồi thứ bốn mươi tám Hồi thứ bốn mươi chín Hồi thứ năm mươi Hồi thứ năm mươi mốt Hồi thứ năm mươi hai Hồi thứ năm mươi ba Hồi thứ năm mươi bốn Hồi thứ năm mươi lăm Hồi thứ năm mươi sáu Hồi thứ năm mươi bảy Hồi thứ năm mươi tám hồi thứ năm mươi chín Hồi thứ sáu mươi Hồi thứ sáu mươi mốt hồi thứ sáu mươi hai Hồi thứ sáu mươi ba Hồi thứ sáu mươi tư Hồi thứ sáu mươi lăm Hồi thứ sáu mươi sáu Hồi thứ sáu mươi bảy Hồi thứ sáu mươi tám Hồi thứ sáu mươi chín Hồi thứ bảy mươi Hồi thứ bảy mươi mốt Hồi thứ bảy mươi hai Hồi thứ bảy mươi ba Hồi thứ bảy mươi bốn Hồi thứ bảy mươi lăm Hồi thứ bảy mươi sáu Hồi thứ bảy mươi bảy Hồi thứ bảy mươi tám Hồi thứ bảy mươi chín Hồi thứ tám mươi