Chương 10


Chương 7
Lavarède trở thành "người chết"

Hay lui tới quán rượu Queue de BÂuf ăn trưa, gã thanh niên có cái tên Vincents, theo như những người Hoa cho Lavarède biết, là bảo vệ kho của công ty Box Pacific.
Trưa hôm sau, Lavarède bước vào trong quán, ánh mắt sáng bừng chan chứa hy vọng. Tay chủ quán nhã nhặn chỉ cho chàng chỗ Vincents đang ngồi. To con thấp, mái tóc màu hung đỏ, Vin-cents vừa ăn rất ngon lành vừa đọc báo. Gã chăm chú đọc chẳng hề để ý tới sự có mặt của chàng trai người Paris. Lavarède lặng lẽ lấy một chiếc ghế đẩu, ngồi đối diện với tay nhân viên công ty Box Pacific và bắt đầu hỏi chuyện.
Chàng hỏi:
- Có phải tôi đang vinh dự được tiếp chuyện với ngài Vincents?
Gã đàn ông khinh bỉ nhìn kẻ xen ngang vào bữa ăn của mình. Lavarède mặc kệ thái độ của gã và nói tiếp:
- Anh không quen tôi và điều đó cũng rất dễ hiểu thôi. Tôi đến từ Pháp. Tôi đang tìm một người anh họ trong thành phố này. Tên anh ấy là Vincents và anh ấy có quyền được hưởng một nửa gia tài. Anh ấy xa quê hương từ nhiều năm nay. Tôi chưa bao giờ gặp anh ấy, vậy nên tôi tới Frisco, gặp tất cả những ai có tên Vincents.
Có thể đúng anh là người tôi đang tìm.
Gã bảo vệ kho cảng làu nhàu:
- Tôi ư?
- Có thể lắm chứ. Vả chăng chúng ta sẽ biết đúng hay không ngay đây mà.
Gã đàn ông tò mò mời chàng uống rượu.
Lavarède cụng ly Vincents và nói:
- Chúc sức khỏe anh. Rất có thể anh chính là anh họ của tôi.
Sau khi nhấp một ngụm rượu, chàng nhà báo nói tiếp:
- Thưa ngài Vincents kính mến, anh cũng thừa biết cuộc điều tra của tôi hết sức tế nhị.
Như anh thấy, đó là cả một gia tài kếch xù...
Gã bảo vệ hết sức chăm chú lắng nghe.
-... và tôi phải đặt cho anh một vài câu hỏi.
Vincents gật đầu:
- Tất nhiên rồi.
- Thưa ngài Vincents, ngài có biết nơi sinh của mình là ở đâu không?
- Hỏi đúng lắm! Tôi sinh ra và sống đến tận năm hai mươi tuổi ở Ladbroke Hill, cách Dublon sáu dặm, thuộc Ailen..Chàng trai Paris giả vờ tỏ vẻ ngạc nhiên mừng rỡ.
Vincents rụt rè hỏi:
- Anh còn hỏi tiếp chứ?
- Đương nhiên. Anh là con trai của...?
- Của ông Joseph-William Vincents, người Ladbroke và bà Marie-Paulina Crooks, người Noxleburg.
- Rất tốt.
Gã nhân viên công ty Box Pacific nói không ra hơi:
- Rất tốt ư? Vậy tôi là anh họ của cậu?
- Gần như là vậy.
- Tại sao lại gần như là vậy?
- Vâng, còn một điểm nữa tôi cần làm sáng tỏ.
- Cậu nói nhanh đi.
- Anh có nhớ một người bà con sống ở Dub-lin không? Bà ta giàu có nhưng rất keo kiệt và không bao giờ tới thăm bố mẹ anh.
Vincents tỏ vẻ suy ngẫm. Cuối cùng anh ta cố lấy hết sức, run run trả lời vì sợ rằng giấc mộng vàng của mình sẽ tan biến khi nói:
- Không. Nhưng điều đó chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Cha tôi mất khi tôi 12 tuổi, ít lâu sau mẹ tôi cũng theo ông ấy ra đi.
- Anh hãy cố nhớ thử xem... Cô Margaret...
Vincents mừng rỡ reo lên:
- Margaret! Tôi có nghe tới cái tên này.
Lavarède thầm nghĩ: "Tất nhiên, cái tên này khá phổ biến ở Ailen!".
Nét mặt hết sức nghiêm trang, chàng chìa tay về phía tay bảo vệ công ty Box Pacific và nói:
- Anh họ!
Chàng chưa kịp dứt lời thì Vincents đã nhắc lại:
- Anh họ của em đây!
- Giờ không còn nghi ngờ gì nữa. Anh chính là anh họ của em. Anh nghe này. Cô Margaret đã qua đời và đã để lại tám nghìn bảng Anh, hai trăm nghìn franc chia đều cho em và anh. Chắc là cô ấy muốn sửa chữa những lỗi lầm của mình đối với gia đình của chúng ta.
Chàng cũng kể rằng vì cũng hơi kẹt tiền nên chàng đã quyết định sẽ đích thân đi tìm anh họ.
Gã bảo vệ đáng thương cứ ngồi nghe, miệng há hốc.
Lavarède:
- Mấy giờ anh phải quay lại chỗ làm?
- Hai giờ.
- Bây giờ là hai giờ kém năm.
- Giờ điều ấy quan trọng gì? Anh muốn xin thôi việc.
Armand giật nảy người lên. Chàng kêu lên:
- ôi không, không được đâu!
- Tại sao lại "không được đâu"?Tất nhiên chàng không thể trả lời ngay anh ta rằng: "Bởi vì em cần anh để có thể đột nhập vào kho của công ty Box Pacific".
Chàng lựa lời nói:
- Bởi vì... làm các thủ tục thừa kế mất rất nhiều thời gian. Nếu anh xin thôi việc ngày hôm nay, anh rất có nguy cơ phải đứng vỉa hè chìa tay xin việc dài dài.
- Cậu nói đúng nhưng cũng thật đáng tiếc vì tôi muốn tránh một công việc rất cực nhọc phải làm vào ngày mai.
Chàng trai Paris ngây thơ hỏi:
- Việc gì vậy?
- Trực đêm canh cho "những người da vàng ngủ" hay nói trắng ra là canh xác chết của bọn người Hoa.
Lavarède tỏ vẻ ngỡ ngàng và ngồi chăm chú nghe Vincents giảng giải về hoạt động của Box Pacific.
Khi Vincents vừa dứt lời, chàng khẽ nói:
- Hừ! Cảm giác qua đêm giữa một đống quan tài chắc phải lạ lắm.
- Ghê ghê, khó chịu lắm.
- Cũng được đấy chứ, ít ra ta cũng có cảm giác đó như một cuộc phiêu lưu. Nếu có thể, em muốn thử xem sao...
Vincents khoái trá reo lên:
- Chuyện đó có khó gì. Thích thì tôi cho cậu thử...
- Vâng, em muốn lắm.
Kế hoạch diễn ra thật suôn sẻ. Gã Vincents cả tin mời Lavarède qua đêm trong các kho của Box Pacific.
Lavarède dặn:
- Và tối nay em sẽ mang đến một chai rượu ngon. Hai anh em mình nhậu một bữa gọi là mừng ngày hội ngộ.
Vincents gật đầu đồng ý. Gã cảm thấy sướng phát điên vì tự nhiên lại gặp được quý nhân. Buổi gặp gỡ này chẳng những hứa hẹn đem lại cho gã một phần gia tài không nhỏ, mà hơn thế nữa trong buổi trực ghê sợ tối nay lại được uống rượu say túy lúy cùng ông bạn nhậu. Hai kẻ đồng lõa hẹn gặp lại nhau tối nay tại kho công ty.
Trở về khách sạn, Lavarède tới gặp ngài Mur-lyton và tiểu thư Aurett, họ đang sửa soạn, chuẩn bị đi dạo.
Chàng khuyên:
- Ngài và tiểu thư hãy tận dụng cơ hội này để tiếp tục cuộc hành trình trên con tàu Heavenway.
- Vậy là chúng ta sẽ ra đi ngay?
ánh mắt ngời sáng, chàng nói:
- Cả hai vẫn không tin những gì tôi vừa nói sao?
Không cần giải thích dài dòng, hai cha con người Anh cũng tự biết khi nào là đúng thời điểm cần ra đi. Sau đó, chàng đi chuẩn bị các.thứ cho buổi tối: một chai rượu hảo hạng như đã hứa cùng một số đồ nhắm. Tất nhiên chàng chẳng việc gì phải tiêu năm xu để trả cho số đồ ăn đó vì lý do cả ba rời khách sạn sớm hơn dự kiến, tiền ăn đã được thanh toán trước nên khi Lavarède đặt vấn đề này, ngài Murlyton đã dặn tay đầu bếp đưa cho chàng nhà báo khẩu phần các bữa ăn họ không dùng đến.
Chẳng mấy chốc đã đến giờ hẹn. Vincents đón Lavarède trước cổng công ty vận tải tang lễ.
Dường như anh ta đã hơi quá chén vì quá mừng khi sẽ được chia gia tài. Họ đi qua một dãy văn phòng và tới đại sảnh chứa người chết.
Bốn bức tường trơ trụi tạo thành một chiếc hộp hình chữ nhật, có mái lợp kính. Có khoảng năm mươi quan tài để trên các giá, được xếp dọc theo chân tường. Bên trên mỗi quan tài đều gắn một tấm biển đánh số thứ tự.
Một lát sau, cả hai đã ngồi kề bên nhau và bắt đầu (nhất là Vincents) nâng lên đặt xuống.
Rượu có sức hút đặc biệt đối với Vincents.
Không bao lâu dù không muốn, mắt anh ta bắt đầu díp lại, ngồi lắc lư trên chiếc ghế đẩu và suýt nữa thì bị ngã ngửa nếu như Armand không kịp đỡ lấy anh ta và đặt xuống đất.
Chàng nói:
- Còn bây giờ ta sẽ vào việc.
Chàng thu luôn số đồ nghề để trên một chiếc bàn dùng khi có sự cố hỏng hóc cần sửa chữa.
Sau đó, chàng đi một vòng quanh các quan tài và dừng lại trước cái quan tài mang số 49. Chàng bỗng có cảm giác hơi ghê ghê.
Trước mặt chàng là chiếc quan tài bằng gỗ sến có đánh véc ni được đóng rất tỉ mỉ, trong đó có xác của Kin Tchang. Chiếc quan tài đó, nói đúng hơn là một chiếc thùng, có thể được coi là nơi yên nghỉ vĩnh hằng cho người quá cố.
Chiếc quan tài được đóng khá to cho thấy nó được dành riêng cho những người Hoa giàu có.
ở đó, người chết đã ngủ giấc ngàn thu. Chiếc quan tài này cũng như người bảo vệ, giúp người quá cố trở về quê hương sau bao tháng ngày sống lưu vong trên đất khách. Với ý nghĩ mình đã trà đạp, tước đi mong ước cuối cùng của người quá cố một cách vô lý, chàng trai thấy tim đập nhanh hơn và mồ hôi hai bên thái dương nhỏ xuống lạnh toát.
Chàng lưỡng lự định bỏ cuộc, chạy trốn vì không muốn trở thành kẻ làm uế tạp một chốn u tịnh như nơi đây song chàng đã kịp trấn tĩnh và bắt tay vào việc. Tất cả cũng chỉ vì chàng muốn có thể tiếp tục chuyến đi vòng quanh thế giới mà không phải tiêu tốn một đồng nào.
Lavarède nhanh chóng tháo các đinh đóng ở nắp quan tài ra và từ từ nhấc nó lên. Bên trong quan tài có chần một lớp vải satin màu xanh da trời, thêu chỉ vàng. Người chết hiện ra với hai mắt mở trừng trừng như thể đang ngắm nhìn phong.cảnh đâu đó ở thế giới bên kia. Vượt lên nỗi sợ hãi và ghê tởm, chàng nhà báo túm vào giữa thân Kin Tchang và cố hết sức lôi cái xác ra khỏi quan tài. Chàng cảm thấy người run run, sởn hết cả da gà khi phải vác cái xác đó đi về phía bến cảng.
Chàng đưa mắt nhìn quanh. Lão người Hoa giao việc cho Lavarède đã đứng trước mặt chàng từ lúc nào. Thì ra lão đã bám theo và chứng kiến mọi việc chàng làm từ đầu đến cuối. Lão cúi xuống sát mặt người chết.
- Đúng là lão ta. Vậy là phái "Bạch Liên" đã được trả thù.
Lão đưa cho Lavarède một khối trụ bằng gang đã được giấu sẵn đâu đó quanh đây. Chàng nhà báo buộc nó vào thắt lưng người quá cố rồi đẩy cái xác đó xuống nước.
Nghe có tiếng ủm và nước bắn lên tung tóe, mặt nước tạo nên những vòng tròn đồng tâm rồi lại trở lại yên ả như một tấm gương trong trẻo xóa đi một dấu vết của "lễ đưa tang". Lão già người Hoa chìa gói tiền về phía Lavarède.
- Đây là hai nghìn đô la. Vĩnh biệt anh bạn.
Chúa sẽ phù hộ cho anh.
Rồi lão nhanh chóng bỏ đi. Khi bóng lão người Hoa chìm hẳn trong bóng đêm dày đặc, Lavarède quay lại đại sảnh. Chàng không cảm thấy run nữa. Chàng dùng chiếc khoan đục vài lỗ trên thành quan tài với dự định từ đây sẽ sống ở trong đó. Sau đó chàng để các dụng cụ về chỗ cũ. Tay bảo vệ vẫn kéo bễ đều đều. Chàng trai Paris nhìn anh ta mỉm cười rồi cho số tiền lão người Hoa vừa đưa vào một chiếc phong bì dán kín lại và để vào một chỗ rất dễ nhìn thấy. Tiếp đó, chàng vơ toàn bộ số đồ ăn và chui vào nằm trong quan tài. Từ giờ trở đi cho tới khi tàu cập bến Trung Quốc, Lavarède sẽ thế chỗ người chết.
Sáng hôm sau Vincents tỉnh dậy, đầu nặng trịch và ngạc nhiên khi thấy chỉ có mỗi một mình, song anh ta đã nhanh chóng phát hiện ra bức thư của chàng người Pháp. Anh ta mở phong bì ra và run bắn người khi chạm vào các tờ đô la.
"Anh họ yêu quý của em, Anh hãy coi đây là số tài sản được chia mà em đã nói với anh. Em tự nguyện từ giã cuộc sống này, song đôi khi con người ta cũng có thể trở lại từ thế giới bên kia. Nếu chuyện đó xảy ra, em sẽ báo tin ngay cho anh.
Anh hãy tin rằng khi đi vào cõi vĩnh hằng, em mang theo hình ảnh của anh như một kỷ niệm thân thương nhất".
Gã bảo vệ giụi giụi mắt, đọc lại lá thư kỳ lạ, hai tay ôm đầu và kết luận:
- Đúng là một thằng điên, nhưng là một thằng điên hào phóng. Tận hai nghìn đô, thế là quá đã!....Lavarède không thể giữ lại cho mình hai nghìn đô la đó vì như vậy là không tôn trọng quy định của chúc thư...
Ngày hôm sau, Bouvreuil tiếp hai gã choai choai, mà lão đã trả tiền để bọn chúng cung cấp thông tin, trong phòng của lão.
Lão ta rít lên:
- Vậy là chúng mày nói đêm hôm qua nó không về khách sạn?
- Không, thưa ông. Tay khách du lịch phòng 13 đã đi ngủ lang đâu đó.
- Đi ngủ lang! Thế còn những đứa khác?
- Bọn chúng đều đóng cửa im ỉm trong phòng.
- Đóng cửa im ỉm trong phòng.
Bouvreuil nhảy dựng lên.
- Miễn là bọn chúng không lợi dụng bóng tối để chuồn khỏi khách sạn! Nếu thằng quỷ đó biến mất, thể nào hai cha con lão già kia cũng tìm cách liên hệ với nó. Tao không thể để bọn khốn đó chạy thoát.
Lão nhặt nhạnh một số đồ đạc cho vào trong vali và tới rình tại cửa phòng của hai cha con người Anh. Song ngài Murlyton và cô con gái vẫn còn đang ngủ. Bouvreuil tìm chỗ nấp và đợi chuyện gì đó xảy đến. Khi lão cảm thấy không thể kiên nhẫn chờ thêm được nữa thì tiểu thư Aurett khoác tay cha từ trong phòng bước ra. Cả hai chậm rãi đi xuống phố như thể đang đi dạo.
Tất nhiên Bouvreuil sẽ không mấy nghi ngờ nếu không có sự vắng mặt khó hiểu của Lavarède.
Song trong trường hợp này... Tay xách vali, lão vội bám theo hai cha con người Anh.
Họ không ngờ rằng có một lão già chuyên cho vay nặng lãi lại đang ở ngay phía sau họ.
Dọc đường, ngài Murlyton và con gái mua sắm một số đồ dùng thiết yếu cho chuyến đi sắp tới.
Bouvreuil hí hửng ra mặt khi lão thấy họ cầm một chiếc vali và để vào đó quần áo và các đồ vệ sinh cá nhân. Chắc chắn cả hai đang sửa soạn hành lý chuẩn bị xuất hành và Bouvreuil thầm tự khen vào phán đoán hết sức sáng suốt của mình.
- ôi! - Tiểu thư Aurett khẽ kêu lên khi nàng dừng lại trước một cái tủ kính. Nàng đã trông thấy qua tấm gương phản chiếu bóng kẻ thù của cha con nàng và Lavarède. Tay lão ta xách vali và cũng sẵn sàng xuất hành.
- ôi, cha ơi, chúng ta đang bị lão Bouvreuil theo dõi. Chúng ta phải nhanh chóng cắt đuôi lão ta để lão không thể bám theo làm hại Lavarède.
Hai cha con người Anh nhảy lên một chiếc xe ngựa và hứa với người đánh xe sẽ thưởng cho anh ta một món tiền hậu hĩ nếu anh ta cho xe phi thật nhanh..Bouvreuil cũng nhảy ngay lên một chiếc xe ngựa gần đó và bảo người đánh xe đuổi theo họ song không kịp. Tới một góc phố, do đường bị tắc xe ngựa của lão bị kẹt lại, đến khi thoát ra được thì chẳng thấy bóng dáng chiếc xe ngựa chở ngài Murlyton và Aurett đâu. Lão chỉ còn một cơ hội duy nhất tìm thấy kẻ trốn chạy: Tra bảng giờ tàu để biết tàu nào sẽ nhổ neo trong ngày.
Chỉ có duy nhất tàu Heavenway sẽ nhổ neo ngày hôm nay. Quái lạ! Một chiếc tàu đưa những người Hoa quá cố hồi hương!
Trong khi đó, đứng trước mũi tàu đang chuẩn bị nhổ neo, cô gái người Anh đứng ngồi không yên. Nàng đưa mắt lùng sục trong đám đông láo nháo trên bến cảng chỉ sợ trông thấy Bouvreuil trong đám người tản bộ.
Tất cả hàng hóa đã được chất lên chiếc tàu có trọng tải hai nghìn tấn. Hàng hóa được để dưới hầm tàu còn bên trên là để dành chỗ cho các xác chết người Hoa và rất nhiều hành khách khác nữa.
Thuyền trưởng hỏi tay trợ tá:
- Mọi cái xong xuôi cả chưa?
- Dạ xong hết cả rồi, thưa thuyền trưởng.
Tàu chuẩn bị rời bến thì có một người đàn ông tay cầm vali, hớt hải lao tới và lo lắng hỏi:
- Có còn chỗ cho hành khách không?
Nét mặt ngài Murlyton và cô con gái thoáng cau lại khó chịu. Gã đàn ông đó chính là Bou-vreuil.
Thuyền trưởng dành cho lão một buồng trên tàu song đến Honolulu lão sẽ phải trả buồng cho những hành khách đã đặt chỗ trước lên tàu tại đó.
Bouvreuil hí hửng nói:
- Tôi đồng ý.
Biết làm gì đây, không lẽ cứ để lão ta chọc gậy bánh xe mãi sao?
Ngài Mathew, thuyền trưởng đưa một chiếc còi to lên môi, thổi một hồi dài đinh tai. Con tàu bắt đầu giục dịch khởi động. Các pittông dịch chuyển trong xi lanh. Các ống khói bắt đầu nhả khói. Dưới sức đẩy của chân vịt xoay tít, tạo thành một khoảng nước xoáy tung bọt trắng xóa tàu Heavenway hùng dũng từ từ rời bến cảng.
Những ngày đầu tiên của chuyến đi diễn ra khá êm ả. Tiểu thư Aurett và cha nàng quyết định không giao thiệp với các hành khách khác trên tàu và họ chỉ nói dăm ba câu với thuyền trưởng Mathew và tay phó thuyền, ngài Graigton.
Bouvreuil cũng tìm cách bắt chuyện với hai cha con người Anh, song lão vừa mở miệng, cô gái đã cau mặt khó chịu và trả lời cụt lủn làm lão không dám hỏi han gì thêm.
Song Bouvreuil vẫn chắc mẩm một điều: Gia đình nhà Murlyton đã ở trên thuyền thì Lavarède.chắc chắn chỉ luẩn quẩn quanh đây. Chỉ có điều cái thằng nhà báo quái quỷ đó trốn kỹ quá nên lão tìm mãi không ra.
Song một đêm, Bouvreuil giật mình tỉnh giấc vì nghe có tiếng động phát ra dưới sàn tàu. Lão ngồi bật dậy, vểnh tai lên nghe ngóng. Lát sau lại thấy im ắng, lão trùm chăn kín đầu, miệng lẩm bẩm chắc mình gặp ác mộng bởi bên dưới buồng lão là khoang để quan tài, làm gì có ai...
Nhưng quả đúng là có tiếng động phát ra ở bên dưới hầm để người chết. Phải giam mình trong chiếc quan tài chật trội, không nói chúng ta cũng biết Lavarède cảm thấy vô cùng buồn chán. Vì chẳng ai mò tới khoang tàu này nên chàng có thể chui ra ngoài, thư giãn gân cốt cho đỡ mỏi và đỡ tê cóng.
Những ngày đầu tiên đều diễn ra rất thuận buồm xuôi gió. Song vào một buổi sáng, Armand lo lắng nhận ra rằng lương thực của mình đã cạn kiệt. Một chút sôcôla và một mẩu bánh mì, đó là tất cả số lương thực chàng còn lại cho chuyến đi dài ba mươi hai ngày này. Cuối cùng, chàng quyết định đợi khi đêm xuống sẽ lẻn vào bếp trên tàu kiếm đồ ăn.
Ngày hôm đó sao thật dài, đêm mãi chưa xuống song chàng không thể hấp tấp vội vàng bởi dù chỉ một sơ suất nhỏ cũng sẽ mất tất cả.
Nhưng chỉ có thể rời chỗ nấp khi tất cả mọi người trên tàu đã ngủ hết, ngoại trừ một số thủy thủ phải trực đêm.
Thời điểm chàng nhọc công mong mỏi cuối cùng đã đến. Armand rời khoang tàu dành cho những người "hồi hương", lần theo dọc các hành lang và tới bếp. Chàng vội vã để cả bánh quy, bơ, bình rượu vang vào trong một mảnh vải. Gói ghém xong xuôi, chàng lại lần đường quay về khoang tàu của mình. Đột nhiên chàng đụng phải một tay thủy thủ trong hành lang. Phải hành động gấp. Sau khi ngáng cho tay thủy thủ ngã nhào, chàng vội chạy trốn. Gã ta lồm cồm bò dậy và rượt đuổi theo chàng. Lavarède gắng hết sức lao tới cửa khoang để người chết, nhảy tọt vào trong quan tài của mình và đóng đánh rầm nắp quan tài lại. Tay thủy thủ đứng khựng lại.
Gã đã kịp nhận ra chỗ phía trước mặt mình là đâu. Tiếng động khó hiểu trong đó làm gã bủn rủn hết cả người.
Tay thủy thủ kinh hãi trèo ngay lên boong tàu: gã đem chuyện kể lại với đám bạn bè và quả quyết rằng trên tàu có ma...
Sáng hôm sau, tin trên tàu có ma lan nhanh trong đám thủy thủ. Tất cả bọn họ đều bán tín bán nghi. Lão Bouvreuil cũng công nhận đã nghe thấy tiếng động hãi hùng đó. Viên thuyền trưởng cố gắng làm yên lòng họ song tay thủy thủ vẫn khăng khăng bảo rằng: Hồn ma đó lách vào trong.khoang chứa xác chết người Hoa và tan biến đi như một đám sương mù.
Để trấn tĩnh đám thủy thủ và hành khách, viên thuyền trưởng quyết định cho người canh gác khoang tàu này.
ý tưởng đó rất tuyệt vời song không ai trong đám thủy thủ muốn xuống đó làm việc này cả.
Dù tay thuyền trưởng dùng đủ mọi cách: ra lệnh, đe dọa song bọn họ vẫn chối đây đẩy vì sợ ma ám. Đúng lúc đó có một giọng phụ nữ cất lên.
Tiểu thư Aurett nói:
- Tôi khẳng định rằng tàu không có ma. Cứ để đấy, chính tôi sẽ đảm đương việc gác khoang tàu để linh cữu người chết này. Rồi mọi người sẽ thấy chẳng có gì là nguy hiểm cả.
Viên thuyền trưởng muốn từ chối song với sự đồng tình của cha, tiểu thư Aurett cương quyết đảm nhận nhiệm vụ nguy hiểm đó. Với nụ cười dịu dàng, hai má ửng hồng duyên dáng, nàng tuyên bố với mọi người đứng xung quanh rằng nàng sẽ ở lại qua đêm giữa các quan tài. Tất cả rì rầm tán dương lòng quả cảm của nàng, kể cả Bouvreuil cũng vậy. Song sau đó lão lùi ra xa, miệng lẩm bẩm:
- Tao hiểu cả rồi. Đó lại là cái trò mèo nó đã dùng để đi từ Paris tới Bordeaux đây. Tao tin cuối cùng tao cũng túm được mày...