Chương 10


Chương 12
Amou-Daria, xứ sở của những nữ kỵ sĩ

Ngôi nhà của Dagrar, tên ông lão đánh xe bò, nằm ở cuối một thung lũng hẹp. Dagrar mời ba người đàn ông vào trong nhà. Đồ đạc trong nhà khá sơ sài. Cũng may vết thương của Rach-med không nặng. Lavarède chăm sóc vết thương cho ông. Chỉ cần sau một đêm nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng, ngày mai ông sẽ mau chóng hồi phục.
Ngày hôm sau Lavarède muốn tới tận Behar-sand, cách nhà ông lão đánh xe ba tiếng đi bộ.
Chàng liền dò hỏi ý kiến mọi người.
Và Dagrar đã nghĩ gì?
Ông lão nói với họ:
- Các vị có thể tới đó. Bình thường người Kirghizis rất kỳ thị đối với người lạ song hôm nay thì không sợ, họ đang tổ chức lễ "Các nữ kỵ binh".
Những người châu Âu tỏ vẻ ngạc nhiên.
Dagrar giải thích cho họ:.- Những phụ nữ này là hậu duệ của các nữ chiến binh. Mỗi năm một ngày, họ trở thành những nữ chủ nhân tuyệt đối ở vùng này. Họ đeo vũ khí của các chiến binh còn đàn ông chăm lo việc nội trợ. Trước khi gặp các vị đêm hôm qua, cả ngày hôm đó, tôi bận túi bụi chuẩn bị cho buổi lễ. Các vị cứ tham dự đi đừng sợ. Chắc chắn các vị sẽ rất vui và không gặp phải bất kỳ một nguy hiểm nào đâu.
- Chúng tôi rất muốn tham gia nhưng để dịp khác vì hôm nay chúng tôi phải đi tìm tiểu thư Aurett, con gái của người bạn tôi đây. Cô ấy đã bị mấy tên kỵ sĩ lạ mặt bắt cóc.
Một giọt nước mắt lăn trên má ngài Murly-ton.
Dagrar khẽ nói; - Con gái của ông ấy ư?
- Lão biết chuyện gì phải không?
- Không, không. Có thể tôi nhầm.
Ông lão kinh hãi trả lời. Song được Lavarède khích lệ, cuối cùng Dagrar nói:
- Có phải cậu đang tìm một cô gái tóc vàng như cỏ cao nguyên cuối hạ? Cô gái ấy không biết ngôn ngữ của chúng tôi đúng không?
- Vâng, vâng. Thế lão đã gặp cô gái ấy ở đâu?
- Khi tôi ra khỏi thành phố. Trong vùng đồng bằng, các chiến binh đã dựng lều xung quanh một đống lửa lớn. Một phụ nữ đã lao ra gặp tôi, cô ấy nói gì đó song tôi không hiểu. Đột nhiên Lamfara xuất hiện, ép cô ấy vào trong một căn lều và ra lệnh cho tôi tránh xa khỏi chỗ đó.
Chắc chắn bọn họ sẽ trở về Beharsand trong ngày hôm nay.
- Thế Lamfara là ai vậy?
- ông ta chỉ huy hàng trăm chiến binh. Đó là một con người rất uyên bác, được nuôi dạy ở một nơi rất xa vùng này, đất nước "Bạch Phụ".
ý ông ta muốn nói là ở "nước Nga, đất nước của Sa Hoàng".
Phải nhanh chóng tới chỗ cắm trại. Họ để lại cho ông lão số tài sản mang từ Tây Tạng tới trong chiếc giỏ khinh khí cầu và cám ơn ông đã giúp đỡ.
Sau lời chào tạm biệt gấp gáp, họ vội vã lên đường hướng về Beharsand, kinh đô của người Kirghizi. Không ai có thể ngăn bước họ. Behar-sand là một thị trấn nhỏ với khoảng ba, bốn nghìn dân sống trong vùng thảo nguyên băng giá Trung á, nó là một trong những trung tâm quan trọng bậc nhất.
Ngài Murlyton nói:
- Hãy cẩn trọng.
Lavarède cười:
- Không cần. Lễ hội "Nữ kỵ sĩ" đã bắt đầu.
Chúng ta hãy tận dụng cơ hội này..Phía trước họ là các công sự với những chòi gác hình vuông. Chàng trai người Pháp tiến thẳng tới một cánh cổng có những người đàn bà đầu đội mũ sắt, đeo khiên tròn ở thắt lưng đang đứng gác. Rachmed hỏi chỗ ở của viên chỉ huy Lam-fara.
Các nữ lính gác dịu dàng mỉm cười và chỉ đường cho họ.
Một người trong số lính gác nói:
- Nhưng các vị phải đợi ở đây vì lúc này hội nghị các nữ kỵ sĩ đang họp.
Lavarède và các bạn đồng hành vội xông vào.
Trước mắt họ là một hội nghị bàn tròn với rất nhiều phụ nữ đang ngồi nghe một người cùng giới thuyết giảng.
Không ngại cắt ngang lời diễn giả, Lavarède bước vào trong vòng hội nghị. Có tiếng la ó hăm dọa cất lên song chàng trai Paris vẫn bình tĩnh, xoay lưng về phía Rachmed và nói:
- Bắt đầu đi!
Rachmed nhanh chóng dịch bài diễn văn Lavarède vừa đọc cho ông sang tiếng bản ngữ.
Ông hắng giọng:
- Thưa các quý bà, chúng tôi xin lỗi đã cắt ngang cuộc hội thảo của các vị, song chúng tôi xin tố cáo một tội ác làm phương hại đến tập tục, đạo lý do một người đàn ông trong thị trấn này gây ra. Ngày nay mọi phụ nữ đều được tự do. Không ai có quyền bắt giữ, hành hạ và chà đạp nhân phẩm họ.
Hầu như các phụ nữ trong hội nghị đồng loạt hô to:
- Đúng vậy! Đúng vậy!
- Vậy mà một cô gái đã bị bắt giam ở Behar-sand.
Đây là cha và chồng chưa cưới của cô gái.
Họ yêu cầu các vị sự công bằng. Trải qua hàng thế kỷ nay, với truyền thống của tổ tiên anh hùng, chính các bạn sẽ dành lại công bằng cho họ.
Không khí hội nghị như muốn nổ tung trong tiếng hoan hô, reo hò cuồng nhiệt. Các nữ kỵ sĩ muốn biết chỗ tiểu thư Aurett đang bị giam giữ.
Rachmed đáp:
- Chính tại nhà của Lamfara!
- Tại nhà của Lamfara!
Ngay sau đó, tất cả các phụ nữ trong hội nghị rời cuộc họp, tập hợp thành một đội quân hùng hậu tiến thẳng tới nơi giam giữ cô gái.
Lúc này, Aurett còn đang mê ngủ. Một nỗi buồn mênh mang đè trĩu tâm hồn nàng. Nàng đã bị tống lên ngựa và nó phi như điên. Mỗi bước ngựa phi là mỗi lúc nàng càng xa cha và Armand. Trong lúc cắm trại, nàng chỉ kịp báo cho một lão nông song việc đó chẳng ích gì, nàng đã bị kẻ bắt cóc tống ngay vào trong lều. Cuối cùng khi đến thị trấn, chúng giam nàng vào một.căn phòng ẩm thấp. Aurett chắc chắn tên cai ngục sẽ sớm mò đến gặp nàng.
Một giọng đàn ông làm nàng giật bắn người.
Tay chỉ huy Lamfara ăn mặc vô cùng chải chuốt đang đứng trước mặt nàng. Hắn đứng đó trong tư thế hết sức nghiêm trang. Cô gái thực sự ngạc nhiên khi thấy Lamfara nói tiếng Anh:
- Tại đất nước của Sa Hoàng, người ta không chỉ dạy tiếng Nga mà nhiều ngôn ngữ châu Âu khác. Đừng vội trả lời khi ta chưa nói xong, thưa tiểu thư. Khi còn là sinh viên ở Matxcơva, tôi đã được học và hiểu biết về nền văn minh của đất nước tiểu thư. Trở về quê, các thiếu nữ ở đây thật quê kệch, vô duyên và hoang dại. Ta khinh thường họ. Tại sao ư? Bởi tâm trí ta luôn nhớ về những thiếu nữ châu Âu duyên dáng, thông minh và xinh đẹp.
Aurett hơi bĩu môi tỏ vẻ khinh bỉ như thái độ Lamfara dành cho các cô gái ở đây. Song điều đó không làm hắn tự ái hay uy hiếp nàng.
Lamfara nói tiếp:
- Cuối cùng ta đã đặt được mục đích của mình. Lúc nhìn thấy quả khinh khí cầu của nàng bốc cháy, ta và mấy tay cận vệ đang đi săn.
Những người đi cùng ta cứ tưởng đó là một vật thể lạ song ta nhận ra ngay đó là một quả khinh khí cầu. Những người đến từ châu Âu, ta đã thầm nghĩ như vậy. Trí tò mò đã thúc đẩy ta tìm đến chỗ quả khinh khí cầu đáp xuống. Lần theo bước chân của nàng và những người đi cùng, ta đã tìm đến cửa hang và ở đó...
Lamfara dừng lại trong giây lát rồi nói tiếp giọng nghẹn lại:
- ở đó ta đã nhìn thấy nàng. Nàng như một hình ảnh sống động gợi nên trong ta biết bao nuối tiếc, nhớ nhung. Ta là người giàu có, ai ai cũng nể sợ. Tiểu thư, xin tiểu thư hãy trở thành vợ ta và tất cả sẽ phải quỳ gối dưới chân nàng.
Bọn họ không được nhìn thẳng vào phu nhân của Lamfara.
Mắt vị vua Mông Cổ sáng rực lên. Aurett thoáng rùng mình. Người đàn ông này thật đáng sợ. Ai sẽ đến giải thoát cho nàng đây? Có ai biết nàng đang ở đâu không? Lamfara lại hiểu lầm sự do dự của nàng.
- Nàng đừng vội quyết định. Ta cũng không muốn ép buộc nàng. Ta sẽ đợi...
Và Lamfara đi ra.
Còn lại một mình, Aurett bật khóc nức nở.
Nàng cảm thấy chẳng có gì có thể thay đổi ý định của vua Mông Cổ. Không lẽ nàng sẽ sống nốt phần đời còn lại ở Beharsand ư?
Đột nhiên có tiếng lộn xộn bên ngoài. Cô gái chạy tới cửa sổ, mở ra và nhìn xuống sân.
Trong sân, Lamfara đang thương lượng với khoảng một trăm phụ nữ, trong số đó có ngài Murlyton, Lavarède và Rachmed..Aurett hét lên:
- Ngài Armand! Hãy cứu em!...
Một lát sau, nàng đã được tự do.
Trong ngày lễ "các nữ kỵ sĩ" Lamfara không dám chống lại bọn họ. Song hắn ta cược rằng ngày mai, hắn sẽ truy đuổi bắt bằng được con mồi của mình.
Trước khi chia tay, các nữ kỵ sĩ cấp cho họ bò Tây Tạng, lương thực và cả một bao tải đựng đầy các mảnh sành, gốm và thủy tinh vỡ theo đúng yêu cầu kỳ quặc của Lavarède.
Lavarède bí hiểm nói:
- Những mảnh vỡ này sẽ rất có ích cho chúng tôi.
Khi trời đã xế chiều, những người chạy trốn đã tới chân các ngọn núi hoa cương đầu tiên.
Lavarède cương quyết ra lệnh cho mọi người cố hết sức đi tiếp. Đó cũng là cách duy nhất giúp họ thoát khỏi sự truy đuổi của Lamfara.
Cuối cùng, Lavarède và những người bạn đồng hành đã leo tới một vùng đất có địa thế khá thuận lợi: lối đi hẹp, xung quanh là những vách đá dựng đứng. Sau một chỗ ngoặt, con đường trở nên rất dốc. Cả bốn người vượt qua một sườn núi đá treo leo chạy dọc theo một vách đá và nhô lên trên vực thẳm.
Lavarède lẩm bẩm:
- Chỗ này được lắm.
Tại đó, chàng bắt đầu rải các mảnh sành và thủy tinh vỡ.
Ngài Murlyton hỏi:
- Hành động kỳ quặc này là như thế nào vậy?
- Rồi ngài sẽ thấy... Mọi người nhìn kìa, bọn chúng đang tới rồi kìa, trong vùng đồng bằng dưới kia ấy. Chưa đến mười lăm phút nữa, quân lính của Lamfara sẽ mò tới đây.
Chẳng mấy chốc toán lính cùng Lamfara dẫn đầu đã tiến vào sườn núi đá treo leo. Aurett tái mặt sợ hãi.
Armand nói:
- Tiểu thư đừng sợ, bọn chúng không sang được tới bên này đâu. Ngựa mà giẫm phải các mảnh vỡ này không bị trượt cũng ngã trợn mắt.
Đột nhiên khi tiến vào hẻm núi, lũ ngựa chùn chân, đứng khựng lại, xô vào nhau. Hai con ngựa đầu sa chân, trượt xuống dốc và cuối cùng lao xuống vực mang theo cả hai tên lính. Các con ngựa khác cũng cùng chung số phận. Toán lính đuổi theo, người, ngựa và cả Lamfara đều rơi xuống vực, chết tan xác.
Toàn bộ thảm kịch chỉ diễn ra trong vài giây.
Sau bài điếu văn, các du khách của chúng ta bùi ngùi tiếp tục lên đường.
Nhiều ngày trôi qua trong xứ sở hẻo lánh, không một bóng cây hay người sinh sống, do.không có gỗ, họ phải dùng phân bò khô vương vãi trong vùng thảo nguyên để nhóm lửa.
Họ hầu như kiệt sức sau những ngày dài leo núi và vì khí hậu giá lạnh khắc nghiệt. Chân chồn, gối mỏi, hơi thở thoi thóp, khi đêm xuống, họ chui vào trong lều và mệt mỏi ngủ thiếp đi.
Không lâu sau đó, Aurett, người yếu nhất trong cả nhóm, đã kiệt sức không thể lê chân đi tiếp được nữa. ánh mắt nàng đờ đẫn, hai má hõm sâu, đôi chân tím bầm sưng tấy làm nàng vô cùng đau đớn.
Armand tìm mọi cách khích lệ mọi người và luôn dành cho nàng những lời an ủi dịu dàng nhất. Aurett mỉm cười cám ơn chàng song sự chán nản đã hiện rõ trên gương mặt nàng. Chàng nhà báo nhìn nàng mà con tim đau nhói.
Không còn lương thực. Aurett nằm hoàn toàn bất động, thoi thóp trong lều. Sau hai ngày nhịn đói, mặt mũi phờ phạc, Lavarède vác súng ra đi mong có thể tìm giết một con bò nào đó.
Sau một hồi lang thang khá lâu, chàng thoáng thấy bóng một con bò song vì không chắc lắm nên chàng không dám bắn bởi súng chỉ còn duy nhất một viên đạn, không thể bắn bừa bãi được.
Thất vọng trở về nơi cắm trại, chàng thấy ngài Murlyton mặt mũi bợt bạt, đau khổ.
Ông nhún vai và đưa tay chỉ về phía cô con gái. Tiểu thư Aurett nằm đó, nước da xanh lợt, mí mắt khép hờ mệt mỏi, hơi thở thoi thóp khó khăn. Họ đứng nhìn nàng xót xa không nói lên lời. Chợt có tiếng động lạ bên ngoài.
- Tiếng bò rống!
Rachmed thở hổn hển chạy vào gặp họ.
- Nó ở gần ngay đây thôi, có thể chúng ta sẽ tóm được một con.
Cả hai lao về phía phát ra tiếng động. Họ trông thấy cách đó không xa năm con bò Tây Tạng đang nhởn nhơ gặm cỏ.
Rachmed nói:
- Ngắm bắn cho thật kỹ. Sự sống của chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào phát súng này đây.
Lavarède từ tốn chỉnh đường ngắm bắn. Viên đạn lao đi. Sau khi khói tan, họ thấy bốn con bò bỏ chạy. Một con bị thương cố đuổi theo đàn được một đoạn thì khuỵu ngã. Hai người đàn ông ào tới và kết liễu đời con vật bị thương bằng một nhát dao.
Lavarède lột da nó và quay lại căn lều mang theo tấm da bò còn nóng hổi. Đến bên tiểu thư Aurett, chẳng cần giữ ý, chàng nhanh tay cởi quần áo nàng ra và trùm tấm da bò lên người nàng.
Ngài Murlyton thực sự bị sốc, quát lớn:
- Cậu làm gì vậy?
- Tôi phải cứu sống cô ấy bằng mọi giá. Tôi không thể để cô ấy chết vì lạnh. Trong tấm da.này, Aurett sẽ được sưởi ấm. Chắc chắn nàng sẽ sớm bình phục. Rachmed sẽ đi nấu cho cô ấy một chút thịt. Trước tiên, chúng ta sẽ bón nước thịt ninh cho nàng.
Lavarède nói quả không sai. Ngay tối hôm đó, cô gái tỉnh và mỉm cười với người cứu nàng. Nàng đã hết sốt, gương mặt trở nên hồng hào hơn.
Vài ngày sau Aurett đã hoàn toàn bình phục.
Ba người đàn ông đi khám phá các vùng lân cận.
Cuối cùng, họ cũng tìm thấy vài cây dương. Họ dùng dây da bò buộc chúng lại để tạo thành một chiếc bè, đồng thời cũng là một chiếc xe trượt.
Họ để chiếc xe trượt lên dòng sông băng cùng với các dụng cụ, bạt dựng lều và chút thịt bò Tây Tạng còn thừa. Chiếc xe trượt lao đi như bay trên mặt sông đóng băng. Họ đã dần dần thấy thấp thoáng bóng cây cối, rồi các căn lều lụp xụp trong rừng và cuối cùng là con người.
Nhờ Rachmed biết nhiều thứ tiếng nên họ có thể dò hỏi người dân ở đây đường tới nhà ga của thành phố Tchardjoui, trên tuyến đường vượt biển Caspienne. Đó là tuyến đường sắt nối biển Caspienne với Samarcande. Họ dường như đang tiến gần tới các nước văn minh.
Nhớ lại các cuốn sách du lịch nói về các miền trên thế giới đã đọc, những người bạn đồng hành vô cùng vui sướng vì cuối cùng họ đã sắp được trở về châu Âu.