---~~~mucluc~~~---


Chương X
Người đại diện Phòng Nhì

    
inh Phúc vừa lái xe ra khỏi cổng thì người ngoại quốc tháo cuộn băng nhựa trong máy thâu thanh ra, cất vào hộp da bẹt, đoạn kéo mền lên tận cổ Bilatốp. Hắn xây lưng ra phía cửa có Triệu Dung đứng núp.
Triệu Dung thọc hai tay vào túi quần dạ, ung dung xuất hiện, miệng đon đả bằng tiếng Pháp:
-Kính chào ông.
Người ngoại quốc giật mình, toan rút súng, nhưng Triệu Dung đã cười rộ:
-Đừng kháng cự nữa ông ơi! Chậm rồi.
Người ngoại quốc nhún vai, rút tay không ra đoạn hỏi, giọng bình tĩnh, nét kinh ngạc hồi nãy đã tan biến:
-Tôi quay lại được không?
-Sao lại không được? Nhưng xin ông quên giùm khẩu súng trong bọc.
Người ngoại quốc quay lại, cặp mắt nhìn thẳng vào chiếc mặt nạ nhung đen của Triệu Dung buột miệng:
-Ồ, ông ‘’Anh Cả’’ của Phong Trào!
Triệu Dung nghiêng mình chào, như tài tử chào khán giả mộ điệu trên sân khấu:
-Vâng, chính tôi, chào ông Robert Fran.
Robert Fran không dấu được bối rối :
-Tại sao ông biết tôi là Robert Fran?
-Ông là tùy viên kinh tế khả kính ở tòa tổng đại diện ai chả biết ?
-Cám ơn ông. Ông cho phép tôi hỏi một câu. Nếu tôi không lầm thì ông đã bị Đinh Phúc bắn ba phát trúng tim ?
-Vâng, tôi bị ba phát trúng tim.
-Nhưng…
-Ông thông minh quá !
-Đạn đầu giấy phải không ông?
-Phải.
-Nếu tôi bắn ông thì không bao giờ bị lừa một cách ngu xuẩn như vậy.
-Người có năm, bảy đấng, có ai giống ai đâu, thưa ông? Vì Đinh Phúc ngu xuẩn nên tôi mới lợi dụng hắn để theo về đây, phăng ra ông.
-Tôi không ngờ Đinh Phúc lại hớ hênh đến thế.
-Ông khỏi lo. Lần sau hắn không còn hớ hênh như lần này nữa đâu.
-Các ông giết hắn?
-Dĩ nhiên.
-Rồi các ông giết tôi?
-Ông thì không. Không phải vì sợ ông báo thù nhưng vì ông chưa hại chúng tôi trước. Ông với tôi còn là đồng minh lẽ nào tôi dám thủ tiêu ông.
-Vậy ông đút tay vào túi quần hườm cò súng làm gì?
-Ông hãy làm gương bằng cách trình diện khẩu súng trong người lên bàn. Và xin ông đừng quên tôi là quán quân bắn súng lục.
-Tôi là đại diện cho Phòng Nhì ở miền Bắc Việt Nam, không phải nhân viên tầm thường nên đã nói là giữ lời hứa.
Nói xong, Fran lấy khẩu súng trong bọc ra và thả xuống đất. Triệu Dung đá khẩu Mauser vào góc phòng, đoạn rút tay ra khỏi túi quần. Fran nói:
-Còn khẩu súng trong túi ông nữa.
Triệu Dung cười lễ độ:
-Làm gì có súng trong túi. Hồi nãy tôi sợ cóng nên bỏ tay vào quần cho ấm.
Bị chơi một vố đau điếng, Fran chết lặng. Nếu hắn biết Triệu Dung không có súng không đời nào hắn chịu thua một cách ngoan ngoãn.
Fran nghiến răng ken két:
-Ông giỏi lắm. Nhưng ông đừng vội tự phụ. Bây giờ chúng mình đều tay không, nếu cần tự vệ tôi không đến nỗi là hạng xoàng.
-Tôi đến đây với ý muốn làm lành, bằng chứng là tôi không mang theo võ khí? Nếu không muốn giết ông thì còn mong đánh nhau tay không với ông làm gì? Xin nhắc lại, tôi đến đây với thiện chí điều đình, thế thôi.
-Điều đình ra sao?
-Chúng tôi không đòi hỏi ông nhiều: ông chỉ cần trao trả Bilatốp, rồi ông được trả tự do ngay.
-Trả tự do ngay? Tôi không ngờ ông sính hài hước đến thế? Ông tưởng hiện nay tôi là tù nhân của ông đấy hẳn?
-Ông là tù nhân của tôi.
-Tôi sẽ thoát thân ngay bây giờ cho ông coi.
Nói đoạn, Fran tiến lại gần Triệu Dung, miệng nói :
-Trừ phi ông giỏi võ hơn, tôi mới chịu giơ tay phục thiện.
Triệu Dung cầm bức tượng thiếu phụ khỏa thân bằng thạch cao đặt trên tủ buýp phê cốt cho Fran nhìn thấy trước khi dằn lại xuống bàn.
-Mời ông xem tôi biểu diễn.
Chàng giáng cạnh bàn tay. Bức tượng cứng như sắt bị gẫy làm nhiều mảnh, bụi bay lả tả.
Fran tái mặt. Hắn đổi sang giọng ôn tồn :
-Nôi công của ông đã đến trình độ cao siêu, tôi xin bái phục. Vâng, xin ông dùng chén rượu sơ kiến. Đây là rượu mạc-ten cordon bleu ba ngôi sao mới được gửi từ Ba Lê sang.
Không đợi Triệu Dung ưng thuận, Fran lại bàn khui chai rượu mới nguyên. Hắn mở ngăn kéo lấy ly. Song hắn lại rút ra một khẩu Mauser bóng loáng.
Nhanh như cắt, Triệu Dung đút tay vào túi quần. Một tiếng bụp nổi lên nghe ròn tan. Viên đạn được hãm thanh bắn qua ống quần chàng, chạm nòng khẩu Mauser. Robert Fran rớt súng xuống nền phòng.
Triệu Dung quát :
-Ông tiến thêm bước nữa, tôi sẽ bắn chết.
Bụp một tiếng nhẹ thứ hai, viên đạn vèo qua đầu Fran xạt một mảng tóc khét lẹt. Fran trợn mắt :
-Tin ông là người trọng danh dự, ngờ đâu ông lại giấu súng trong người.
Triệu Dung cười khẩy :
-Ồ, kẻ cắp bà già gặp nhau, chẳng có gì lạ. Vả lại, đối với kẻ nuốt lời hứa như ông thì trọng danh dự làm gì ? Tôi nói thẳng ông biết chúng tôi không định giết ông, tuy ông đã ra lệnh sát hại chúng tôi để cướp bằng được Bilatốp. Tài liệu về Bilatốp, sở tình báo nào cũng cần, nhưng xét kỹ người Việt Nam chúng tôi cần hơn. Đây là một phần đất nước chúng tôi, chúng tôi có quyền… Đáng lẽ máu phải trả máu. Nguyễn Đoàn chết, Phan Hòa chết, Trần Tín, Đỗ Hội, Khánh Diễm chết, tôi có bổn phận trả thù cho những đồng chí của tôi, những đồng chí mà Đinh Phúc với tư cách gián điệp đôi đã bán cho địch. Nhưng tôi lại nghĩ làm như vậy chỉ nặng thù riêng mà nhẹ nghĩa chung. Nên chúng tôi quyết định chỉ giết Đinh Phúc mà không động tới ông. Nếu Sở ông ở Ba Lê biết ông thua đậm chuyến này, ông sẽ mất chức, bị triệu hồi, giao cho chân cạo giấy, lau chùi hồ sơ trong văn phòng, nhưng thà hạ tầng công tác để được hú hí với vợ con ở quê nhà còn hơn mất xác ở đây, phải không ông ?
Robert nín thinh, nét mặt đăm chiêu.
Triệu Dung nói tiếp, giọng ngọt ngào:
-Nếu ông không chấp thuận, bắt buộc tôi phải giết ông để đoạt Bilatốp. Ông chết, Sở ông cũng thiệt hại không kém. Nhưng nếu ông thỏa thuận mạng ông không bị xuy xuyển, ngược lại Sở ông sẽ được thông báo một phần kết quả của vụ Bilatốp.
-Tôi sẽ chấp thuận nếu ông chuyển cho tôi bản sao những tài liệu đoạt được của Bilatốp.
-Đồng ý. Ông Hoàng sẽ gửi qua Ba Lê cho thượng cấp của ông.
-Ông có thể chờ tôi trong vòng một giờ để tôi thỉnh ý Ba Lê được không?
-Không được. Chúng tôi phải hoạt động gấp rút. Vả lại, tôi khuyên ông không nên dùng kế hoãn binh nữa. Vì giờ này, bạn tôi đã hạ sát Đinh Phúc.
Fran thở dài:
-Ông là kẻ thắng, tôi là kẻ bại, tôi không còn lối thoát nào khác ngoài việc chấp nhận đề nghị của ông.
Triệu Dung cười:
-Chúng tôi luôn luôn coi ông là đồng minh. Tôi còn một đề nghị khác nữa mà tôi tin ông cũng chấp thuận. Giờ đây tôi đề nghị ông giúp chúng tôi một tay di tản nhà bác học Bilatốp ra khỏi Hà nội.
-Mang hắn khỏi Hà nội là việc hết sức khó khăn. Ngày cũng như đêm, đường ra ngoại ô đều được canh gác gắt gao. Mọi xe cộ đều bị lục soát. Ngoài ra, thủy quân lại đang kiểm soát chặt chẽ vùng biển Đồ Sơn để tìm chiếc tàu ngầm chở ông Hoàng. Họ đã huy động 10 giang đĩnh được trang bị dụng cụ tối tân và 4 trực thăng. Dầu ông thoát khỏi các trạm kiểm soát dọc đường đến Đồ Sơn ông sẽ bị bắt. Nếu ông cho phép…
Triệu Dung khoát tay:
-Ông định khuyên tôi chứ gì? Đa tạ lòng tốt của ông. Tôi không dám nhờ cậy bộ óc đa mưu của ông mà chỉ nhờ ông lái giùm xe thôi.
Robert Fran sạm mặt:
-Ông làm nhục tôi quá. Nếu ông cần, tôi sẽ cho mượn tài xế, và biếu luôn xe.
Triệu Dung cười ngất:
-Tôi đâu dám làm nhục ông tùy viên kinh té của tòa tổng đại diện. Tôi nhờ ông lái vì ông là nhân viên lãnh sự, được quyền xê dịch dễ dàng, hiện nay không dễ dàng lắm nhưng ít ra cũng tự do lái xe ban đêm ra khỏi châu thành. Từ ngày quý quốc thừa nhận Hoa lục và ủng hộ lập trường của Bắc Việt, ông lại được tự do hơn.
-Ông muốn tôi lái xe ? Tôi không tin ông dại dột đâm đầu ra Đồ Sơn.
-Vào phút chót ông sẽ biết.
Fran thở dài :
-Ông vẫn chưa tin tôi. Cùng đi với ông chuyến này, các ông xuống tàu ngầm, tôi lái xe về Hà nội, thế nào cũng lộ.
-Nếu bị lộ, ông chỉ bị nhà cầm quyền mời lên phi cơ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, tống về Pháp mà thôi. Vả lại, tôi không tin họ phăng ra ông.
Triệu Dung cầm chai rượu mạc-ten ba ngôi sao soi lên ánh đèn. Màu rượu trong vắt, long lanh như hổ phách. Chàng cười với Fran:
-Rượu ngon thật. Đã lâu, tôi chưa được uống loại cordon bleu đặc biệt này. Nào bây giờ chúng ta cụng ly với nhau.
Fran cố giấu vẻ bực bội hiện trên mặt. Hắn lặng lẽ khui rượu, rót vào ly pha lê. Triệu Dung nâng ly, giọng nghiêm trọng:
-Nhân danh đại diện của ông Hoàng tại Hà nội, tôi chúc Phòng Nhì đạt thêm nhiều thắng lợi.
Biết chàng đùa cợt, Fran không dám nhăn nhó. Hắn đành chúc lại:
-Thành thật chúc tổ chức của ông Hoàng thành công.
Rượu cỏ nhát thơm phức. Hai đồng minh bất đắc dĩ ngồi uống rượu như không có chuyện gì xảy ra.
*
Nghe tiếng người lính Nga ra lệnh đứng lại, Đinh Phúc ló đầu ra cửa xe, đáp lại bằng tiếng Nga:
-Tôi đây.
Người lính đeo súng vào vai, cầm giấy tờ thông hành đặc biệt của Đinh Phúc. Một tên khác chĩa tiểu liên vào xe, sẵn sàng lẩy cò. Đã quen với thể thức kiểm soát nghiêm mật tại trung tâm nghiên cứu, Đinh Phúc không tỏ vẻ sửng sốt. Hắn là nhân viên thông dịch bán mật của trung tâm nên thường ra vào ban đêm, và được cấp thông hành đặc biệt, mỗi tuần thay một lần. Nhận ra Đinh Phúc, viên thiếu úy cười:
-À anh.
Đoạn, hắn ra lệnh tên lính trả lại giấy tờ cho Đinh Phúc. Chiếc chắn ngang bằng sắt được nhấc cao nhường chỗ cho Phúc lái xe vào. Qua ba hàng rào kẽm gai truyền điện, Phúc dừng xe trước vọng gác cuối cùng. Tại đây, hắn phải trình giấy thông hành lần chót, ký sổ xuất nhập và trao đổi mật khẩu.
Đinh Phúc đậu xe trên cái sân rộng giành riêng cho cố vấn sô viết, và đi bộ đến phòng thường trực trước khi xuống cầu thang ở miệng hầm.
Viên đại úy sô viết hỏi Đinh Phúc:
-Đồng chí xuống văn phòng có việc gì?
Đinh Phúc bật lửa hút thuốc, giọng bình thản:
-Tôi phải xuống bàn giấy đồng chí phó trưởng đoàn Tifanôvích dịch nốt bản tài liệu hỏa tốc.
-Tifanôvích chưa ra lệnh cho tôi.
-Nhưng Tifanôvích lại dặn tôi hồi tối.
-Vậy đồng chí chờ tôi gọi điện thoại cho Tifanôvích.
Đinh Phúc ngồi xuống ghế, trống ngực đập thình thịch. Phòng thường trực thắp đèn sáng như ban ngày. Viên đại úy nhấc máy điện thoại. Nhìn chung quanh Phúc chỉ thấy một người lính nằm dài trên ghế vải ở góc, đọc tờ tạp chí tranh ảnh. Nếu Tifanôvích trả lời, Phúc sẽ bị lộ. Muốn thoát thân hắn đành phải hạ sát viên đại úy bằng atémi. Một viên đạn bắn qua nòng hãm thanh sẽ có thể bịt miệng tên lính nằm đọc báo. Tuy nhiên, công việc sẽ xôi hỏng bỏng không.
Đinh Phúc cố níu lấy hy vọng cuối cùng: Tifanôvích là tay bợm rượu, tối nào cũng say tít cung Thang. Giờ này, chắc Tifanôvích đã ngủ li bì dưới hầm.
Không nghe trả lời, viên đại úy cau có:
-Ồ, gọi mãi chẳng ai lên tiếng.
Đinh Phúc nghiêm mặt:
-Đồng chí đại úy đã vượt qua quyền hạn bảo vệ an ninh ở Trung tâm. Tôi đã trình đủ giấy tờ cần thiết. Tôi sẽ báo cáo với đồng chí starchi-politrouk (1) về việc đồng chí đòi được biết những bí mật dưới hầm.
(1) Tiếng Nga: chính trị viên. Quân sĩ Nga sợ starchi-politrouk như con nít sợ ông kẹ vậy.
Tên đại úy chột dạ vì Đinh Phúc nói đúng. Hắn có nhiệm vụ canh gác, không được phép cật vấn lý do Đinh Phúc xuống hầm. Viên starchi-politrouk sẽ không tha thứ thái độ làm tàng của hắn.
Đinh Phúc nói tiếp:
-Nếu đồng chí không tin, xin theo tôi xuống văn phòng Tifanôvích.
Ngần ngừ một phút, viên đại úy đáp:
-Thế thì được. Tôi đưa đồng chí xuống.
Tên sĩ quan nhanh nhẩu mở đường, khẩu tiểu liên lắc lư dưới nách. Đường dưới hầm được Đinh Phúc thuộc làu như cháo. Tuy vậy chưa lần nào hắn được tới phòng của Bilatốp và Tifanôvích.
Qua vọng gác vào khu vực cấm, một quân nhân râu quai nón bồng tiểu liên chặn lại. Thấy bóng viên đại úy hắn không buồn hỏi mật khẩu nữa. Một cánh cửa sắt hiện ra. Tên đại úy bấm nút điện, cánh cửa dạt sang bên. Bên trong là một hành lang dài 15 thước, có ba cánh cửa đề chữ A5, A7, A9.
A5 là văn phòng của Bilatốp, A9 là của phó trưởng đoàn Tifanôvích, A7 là phòng chứa tài liệu mật. Hai người qua phòng A5. Tên đại úy đi trước Đinh Phúc một thước, vẻ mặt tự tin. Khi tên đại úy bước ngang cửa phòng A7, Đinh Phúc nhảy vụt đến sau lưng, dùng sống bàn tay đánh atémi trúng gáy. Atémi là đòn hiểm của nhu đạo. Đánh nhẹ thì bất tỉnh, còn đánh mạnh thì chết tức khắc. Đinh Phúc không hà tiện sức mạnh: miếng atémi của hắn đủ giết con bò mộng. Tên đại úy loạng choạng ngã vào tường, đoạn nằm dài trên đất, giãy đành đạch như con cá bị chặt đầu.
Việc thứ nhất của Đinh Phúc là cắt giây điện thoại ăn thông với phòng trực. Hắn rút ra một nắm chìa khóa dẹt, lựa cái chìa khóa của phòng A7. Nửa phút sau, hắn đã đột nhập khu vực bí mật nhất của trung tâm nghiên cứu sô viết. Đó là một căn phòng khá rộng, tường lót nỉ cho tiếng động khỏi lọt ra ngoài. Ánh sáng đèn ống thắp thường trực trên trần và ở bốn góc phòng. Trước mặt Đinh Phúc là một cánh cửa sắt chìm sâu trong tường. Lại một ổ khóa khác. Bên trong là một hành lang nhỏ, đèn sáng trưng, dài 2 mét, ở cuối là cái két sắt khổng lồ, chôn xuống đất, bê tông bám chắc chung quanh.
Đinh Phúc thận trọng tháo gỡ các bộ phận báo động và tiêu hủy tài liệu, đoạn vặn khóa chữ như Bilatốp tiết lộ hồi nãy. Cửa két, được lau dầu kỹ lưỡng, mở ra không nghe tiếng động nhỏ. Sau cùng, Đinh Phúc lôi ra một ô kéo, đựng nhiều hộp chỉ lớn bằng hộp kem thoa mặt của phụ nữ. Hộp nào cũng hình vuông, bằng thép, trên nắp dán miếng giấy màu đỏ, in chữ ‘’Tối mật’’. Những hộp này đựng phim vi ti, chụp tài liệu tối mật của Trung tâm.
Đinh Phúc suy nghĩ một phút, bồ hôi chảy giỏ giọt trên mặt. Chỉ thị của Robert còn văng vẳng bên tai:
-Các hộp đựng phim đều được đánh số từ 001 trở đi. Từ 001 đến 010 là tài liệu không quan trọng, dầu là tối mật. Quan trọng nhất là từ số 11. Nếu có thể, anh sẽ lấy hộp 11,12 và 13.
Đinh Phúc nhét ba hộp mang số 11,12,13 vào túi áo. Đoạn hắn đóng cửa két, ấn nút phá tài liệu. Trong khoảnh khắc, máy điện gắn ngầm dưới đất sẽ đốt cháy các hộp phim còn lại ra than, không phát ra tiếng động cũng không lưu lại dấu vết. Sau này địch sẽ không biết tài liệu nào bị mất, tài liệu nào bị thiêu. Cũng có thể địch nghĩ rằng kẻ trộm luống cuống bấm lộn bộ phận phá hủy khiến toàn thể bị cháy ra than.
Tứ phía vẫn bình thường, hoàn toàn bình thường. Nhưng khi ra đến cửa, Đinh Phúc khựng người. Trước mặt hắn sừng sững thân hình cao lớn của phó trưởng đoàn Tifanôvích.
Tifanôvích sám mặt:
-Đinh Phúc, anh vào đây làm gì?
Mặt Tifanôvích tái thêm khi thấy khẩu súng Đinh Phúc cầm lăm lăm. Hơi rượu vốt ka nồng nặc phà vào mũi Đinh Phúc làm hắn sực nhớ viên phó trưởng đoàn là đệ tử trung thành của thần lưu linh, không phải là đối thủ đáng sợ.
Tifanôvích hỏi không ra hơi:
-Đinh Phúc, anh ăn cắp tài liệu phải không? Công an túm được thì ngủm củ tỉ.
Đinh Phúc suýt phì cười. Hắn định tha chết cho lão già say rượu song hắn vội đổi ý kiến, nhích cao họng súng. Tifanôvích trố mắt nhìn họng súng đen ngòm:
-Anh định bắn tôi ư? Trời ơi!
Đinh Phúc thản nhiên bóp cò. Viên đạn trúng giữa tim Tifanôvích. Nạn nhân ôm ngực ngã vào tường.
Đinh Phúc lẻn ra hành lang, trèo lên phòng thường trực ở miệng hầm. Sau khi hắn trình giấy, sửa soạn ra xe thì một viên thiếu úy gọi giật lại:
-Quái, còn đại úy nữa!
Đinh Phúc cười đĩ thõa:
-Đại úy chết giấc rồi, không lên được.
Tên sĩ quan Hồng quân đặt tay vào đốc súng, giọng sửng sốt:
-Chết giấc à? Bị ai đánh ?
Đinh Phúc cười to :
-Ồ, có gì mà thiếu úy lo ngại. Đại úy vừa chết giấc trong văn phòng cô thư ký của phó trưởng đoàn Tifanô vích. Cô bé có bộ ngực vĩ đại lúc nào cũng đòi nhảy ra ngoài để biểu diễn và cái mông tròn trịa thích ngoáy măm bô ấy mà…
Tên thiếu úy há hốc miệng nghe Đinh Phúc rao món hàng xác thịt ngon lành. Đến khi vỡ lẽ, hắn phá lên cười theo. Đinh Phúc chặn ngón tay ngang miệng bảo im :
-Đại úy dặn tôi lên đây đừng nói gì hết. Nàng đã có vị hôn phu. Nghe đâu trong hai tuần sẽ làm lễ cưới. Nàng muốn đồng chí đại úy tặng một món hồi môn quý giá, và đại úy bằng lòng liền. Có lẽ một giờ nữa mới xong.
-Một giờ nữa ? Lâu quá !
Đinh Phúc vẫn cười :
-Chào đồng chí nhé.
Ra đến xe hơi, hắn hối hả nổ máy, phóng như bị ma đuổi về Hà nội. Nhưng hắn không quay về biệt thự của Robert Fran, đại diện Phòng Nhì Pháp, mà lái vào đường Lý quốc Sư, và sau cùng dậu ở Ngõ Huyện chật chội, gần Nhà Thờ Lớn. Trước khi xuống xe, Đinh Phúc móc túi lấy 3 hộp phim cất vào ô đựng đồ lặt vặt ở táp-lô rồi khóa lại. Hắn cũng không quên kiểm điểm lại khẩu súng, sau khi đẩy một viên đạn vào nòng rồi đút túi.
Nhìn đồng hồ tay, hắn tỏ vẻ thỏa mãn : hắn đã tới đúng hẹn. K.4 tới đúng hẹn để gặp Phạm Linh, giám đốc Phản gián Hà nội. Sáng mai, hắn sẽ giã từ thủ đô Bắc Việt, đồng thời đình chỉ vai trò gián điệp ‘’ba’’ vừa làm cho Phòng Nhì, vừa làm cho Phong Trào Yêu nước, vừa là cộng tác viên của sở Phản gián Hà nội.
Hắn rẽ sang trái, đâm vào ngõ sâu hun hút, sau lưng trường Văn Lang cũ. Hồi đi học, ngày nào hắn cũng khệnh khạng qua cái hẻm này để chiêm ngưỡng vẻ đẹp mảnh khảnh của cô gái bán quà cho học sinh. Nàng có tấm thân nhỏ nhắn, tưởng như gió thổi là ngã. Năm ấy, trời bão lớn. Những trận cuồng phong kinh hồn soắn qua đường Lý quốc Sư, tràn ngập ngõ hẹp, song cô gái ẻo lả vẫn ngồi yên sau quầy nước, rốt cuộc chỉ có mấy cậu học sinh đa tình, trong số có Đinh Phúc, là ngã vùi. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, người đẹp rút khỏi Hà nội, rồi lấy chồng. Sau hiệp định Giơ neo, nàng vào Sàigòn. Đinh Phúc ở lại Hà nội, lăn lưng vào nghề gián điệp đầy bất trắc.
Đến một căn nhà tối om, hắn dừng lại đẩy nhẹ cửa gỗ. Cánh cửa khép hờ mở ra, Đinh Phúc lọt vào. Hắn mò mẫm qua cái sân rộng rồi gõ cửa nhà trên. Ánh đèn bên trong hắt sáng. Người mở cửa là Phạm Linh. Đồ đạc trong gian nhà rộng không có gì hết, ngoại trừ cái bàn gỗ và hai cái ghế kê sát góc, bên trên có ngọn đèn đêm 15 nến, tỏa lùm sáng  yếu ớt. Chưa kịp an vị, Phạm Linh đã hỏi, giọng lo lắng :
-Bilatốp hiện ở đâu ?
Đinh Phúc giả vờ suy nghĩ. Phạm Linh rót mời hắn một ly vốt-kađoạn nói :
-Tôi rất bằng lòng về những báo cáo của anh. Thượng cấp của tôi đã quyết định thưởng công hậu hĩ cho anh. Số tiền 10 ngàn đô la Mỹ (1) đã hứa, tôi sẽ trao anh ngay bây giờ.
(1) Các sở gián điệp cộng sản đều dùng Mỹ kim làm đơn vị trả lương cho nhân viên ngoại quốc.
Vẻ mặt sung sướng, Đinh Phúc cất 100 tờ giấy trăm Mỹ kim thơm phức vào bóp phơi. Phạm Linh nói :
-Nếu anh chỉ điểm giúp tôi bắt lại Bilatốp, anh sẽ được thưởng thêm 50 ngàn đô la.
-50 ngàn đô la, chà món tiền lớn quá. Chừng nào anh đưa ?
Phạm Linh hơi nhăn mặt :
-Anh không tin tôi ư ? Tối mai, anh sẽ có.
Đinh Phúc lắc đầu :
-Làm nghề này, tôi thích áp dụng đúng nguyên tắc cổ điển : tiền trao cháo múc.
Phạm Linh dằn nắm tay xuống bàn :
-Anh đừng quên tôi có thể bắt anh, và bỏ tù anh rục xương bất cứ lúc nào. Ra tòa, chỉ riêng cái việc ăn lương Phòng Nhì cũng làm anh lãnh án khổ sai chung thân. Nếu tôi gọi điện thoại cho tòa án, anh sẽ bị tử hình.
Đinh Phúc cười nhạt :
-Tôi đã biết, anh không cần dạy khôn tôi nữa. Vâng, anh có thể tóm tôi bất cứ lúc nào, anh cũng có thể bắn tôi chết bất cứ lúc nào, nhưng anh ơi, tôi chết thì nhà bác học Bilatốp cũng chết.
Phạm Linh giật nảy người :
-Trời ơi, Bilatốp sắp chết ?
-Phải. Chết nội đêm nay, nếu không được giải thoát kịp thời.
-Ai bắt Bilatốp ?
-Điều đó anh không lạ gì. Chính bọn Phong Trào Yêu nước đã bắt Bilatốp.
-Hiện chúng giam Bilatốp ở đâu ?
Đinh Phúc nhún vai :
-Thôi, anh cứ thộp cổ tôi, dẫn đi tra tấn, ra tòa xét xử đỡ mất 50.000 đô la.
Phạm Linh đấu dịu :
-Nói đùa đấy. Anh là cộng tác viên được tôi hoàn toàn tin cậy.
-Vậy, anh đưa tiền cho tôi.
Dáng điệu miễn cưỡng, Phạm Linh mở cạc-táp lấy ra một xấp Mỹ kim trao cho Đinh Phúc.
Tợp ly rượu vốt ka, Phạm Linh nói:
-Nào, anh dẫn tôi đi tìm Bilatốp.
Đinh Phúc xô ghế đứng dậy. Viên giám đốc Phản gián Hà nội không nhìn thấy tia lửa sát nhân trong mắt Đinh Phúc. Không mảy may ngờ vực, Phạm Linh lom khom mở khóa. Một giây đồng hồ hớ hênh của viên giám đốc Phản gián đầy kinh nghiệm đã làm hắn mất mạng. Đinh Phúc tiến lên, bàn tay phải nắm chặt khẩu súng giáng mạnh xuống gáy Phạm Linh. Trừ phi Phạm Linh là voi mới không ngã!
Đáng thương cho một tay do thám chuyên nghiệp, đai đen nhu đạo đã bị đánh lừa dễ dàng! Phạm Linh chết sóng sượt trên đất, hai mắt trợn trừng.
Đinh Phúc nhổ bãi nước bọt:
-Kiếp sau lên nhân gian làm người, và làm lại chức giám đốc phản gián thì đừng quá tin cái bọn gián điệp ‘’ba’’ nghe!
Hắn châm thuốc, khoan thai mở cửa nhưng một họng súng đen ngòm đẩy hắn lùi lại. Đinh Phúc suýt la lớn. Người cầm súng là Văn Bình. Chàng đưa chân khép cửa, giọng ôn tồn nhưng sắc như dao cạo:
-Không được cựa quậy. Bồ bịch đây. Đừng quá tin Robert Fran, đại diện Phòng Nhì nghe.
Khẩu súng cứu tinh bị kẹt trong túi, Đinh Phúc đành phải giơ tay. Văn Bình nói:
-Đứng yên, anh bạn. Được rồi, giờ đây phiền anh quay lưng.
Trong nháy mắt, khẩu súng của Đinh Phúc đã bị Văn Bình tịch thu. Đinh Phúc định thừa cơ Văn Bình đến gần để phản công, nhưng đã từng nhiều phen phản công bằng cách này nên trước khi đoạt súng, Văn Bình không quên bỏ nhỏ vào tai đối phương:
-Không cướp được súng đâu, anh bạn. Ngoan ngoãn thì sống, thích chết thì cứ gây chuyện.
Văn Bình cho phép Đinh Phúc xây mặt lại. Đinh Phúc dọa già:
-Nếu anh làm dữ, tôi sẽ kêu cứu ngay bây giờ.
Văn Bình tươi cười:
-Còn đợi gì mà chưa kêu cứu.
Rồi hạ thấp giọng:
-Công an tóm được anh, họ cũng chưa giết ngay đâu! Ít nhất anh sẽ được tiếp đãi hàng tuần trong phòng tra tấn của Công an Bắc bộ và ty biệt phái RU. Anh ghê gớm thật! Dám giết cả giám đốc phản gián Phạm Linh.
Đinh Phúc tái mặt:
-Bây giờ anh muốn gì?
-À, tôi chỉ muốn cám ơn anh cho nằm nhờ trong xe. Xe Chaika của anh êm quá, tôi ngủ được một giấc no nê.
-Anh nằm trong thùng xe tôi ư?
-Không. Tôi nằm phía sau, ở chỗ đặt chân. Nhiều lần anh ngoảnh lại mà không thấy.
-Té ra…
-Vâng, cám ơn anh. Trong khi anh vào gặp Phạm Linh, tôi đã mạn phép mở hộc xe, mượn tạm các hộp đựng phim.
-Đồ kẻ cướp.
-Anh thiếu bình tĩnh rồi. Có thể ngón tay tôi cũng thiếu bình tĩnh mà lảy cò vào tim anh. Này, anh bạn Đinh Phúc! Số tiền đô la của Phạm Linh đâu, phiền anh nộp cho tôi.
-Nếu tôi chịu đưa tiền, anh có tha tôi không?
-Đó mới là điều kiện thứ nhất. Còn điều kiện thứ hai: phiền anh cho biết nơi giấu điện đài của Phòng Nhì, và sơ đồ của tổ chức do Robert Fran điều khiển.
Đinh Phúc chưa kịp đáp thì một tiếng đáp nho nhỏ nổi lên:
-Giơ tay lên.
Văn Bình đảo mũi súng, sửa soạn bóp cò thì một viên đạn xạt qua tay chàng. Khẩu súng bị hớt văng xuống đất. Cả hai lặng lẽ nhìn Phạm Linh ngồi dậy vẻ mặt đau đớn, trong tay còn nắm khẩu súng bốc khói. Phạm Linh rít giọng:
-Hừ, Đinh Phúc đểu cáng thật. Hắn lợi dụng lòng tin của tôi để hạ thủ tôi. May thay, tôi còn sống. Còn anh Z.28 yêu quý! 3 cái hộp đựng phim đâu, yêu cầu anh trả lại.
Văn Bình đáp:
-Tôi đã gởi cho ‘’Anh Cả’’.
-Nói láo. Anh còn cất trong người.
-Nếu anh không tin, mời anh lục soát.
-Tôi chẳng dại gì lại gần anh trong khi tôi bị thương nặng. Đinh Phúc, yêu cầu anh quay lưng lại, ngoảnh mặt vào tường. Còn Văn Bình, phiền anh nhấc máy điện thoại gọi về ty RU.
Văn Bình cầm điện thoại theo lệnh Phạm Linh. Hắn nói tiếp:
-Anh xin số 314, số riêng của Xilốp. Nói với Xilốp là tôi bị thương ở nhà số 5, yêu cầu mang xe tới để giải hai tên gián điệp về Sở.
-Có cần khai tên tôi với Xilốp không?
-Tôi không đùa rỡn với anh. Còn nhiều thời giở, anh sẽ tha hồ đùa rỡn.
Văn Bình nghe trong điện thoại giọng nói hách dịch của Xilốp. Một phút sau, điện thoại được đặt xuống giá. Phạm Linh lại ra lệnh:
-Yêu cầu anh Z.28 ngoảnh mặt vào tường bên kia.
Đinh Phúc thở dài:
-Nếu anh không phiền nhiễu tôi thì đâu đến nỗi chúng ta đều bị bắt.
Văn Bình cười:
-Hai đứa mình ở chung với nhau trong xà lim RU càng vui hơn.
Phạm Linh quát:
-Không được trò chuyện.
Hai người lặng thinh. Thời gian nặng nề trôi qua. Văn Bình nín hơi nghe động tĩnh. Trong vòng 5 phút, Xilốp sẽ đến. Chàng nghĩ mãi chưa tìm ra kế. Phạm Linh là tay súng giỏi, cách 6 thước hắn có thể bắn nát con ruồi. Chàng không có hy vọng đánh lừa.
Có tiếng xe hơi tắt máy ngoài cửa. Rồi tiếng giày dẫm lên sàn gạch lộp cộp. Giây phút quan trọng đã tới. Đinh Phúc nghiêng mình nhìn chàng. Chàng nháy mắt ra hiệu. Phạm Linh lại quát:
-Đứng im, kẻo mất mạng.
Như người điên, Đinh Phúc quay vụt lại, nhảy xổ về phía Phạm Linh. Đoàng… Đinh Phúc đứng sững, rồi loạng choạng ôm ngực. Đoàng… Viên đạn thứ hai xuyên qua cánh tay Đinh Phúc. Nhưng trong giây phút cuối cùng hắn trở nên mạnh mẽ lạ thường. Thu tàn lực, hắn bổ vào ngực Phạm Linh. Viên giám đốc Phản gián thét lên, rồi kêu ằng ặc. Đinh Phúc nghiến răng bóp cổ đối phương. Tay chân Phạm Linh mềm như bún. Miếng khóa cực hiểm đã làm hắn tắc thở.
Xilốp, trưởng ty biệt phái RU, xô cửa, khẩu Tôkharếp lẫm liệt trên tay. Văn Bình phóng chân trái trúng nòng thép xanh biếc. Xilốp lảo đảo, ngọn cước thứ hai đánh bật khẩu súng. Xilốp chưa nhận định phương hướng thì Văn Bình đã tiến ngang quạt trái thôi sơn vào cằm.
Hai công an viên sô viết sồng sộc chạy vào, Văn Bình khoèo chân giật ngã cả hai. Rồi như mũi tên, chàng chạy bắn ra sân. Chàng đụng phải tên công an thứ ba. Hắn ngã nhào. Chàng nhặt khẩu tiểu liên, xạc đạn, bắn ria vào cửa. Tiếng súng của hai công an viên trong nhà trả lời ròn rã.
Lợi dụng bóng tối, Văn Bình vọt ra đường. Một chiếc xe díp đậu sát cửa, trên có tài xế. Văn Bình bắn xả. Tacata… Tacata… Tài xế gục xuống vô lăng. Chàng xô hắn sang bên rồi phóng xe ra đường Lý quốc Sư.
Chàng tắt đèn xe, mở máy liên lạc siêu tần số. Lát sau, chàng nghe rõ giọng nói của Xilốp:
-Alô, Xilốp đây… Yêu cầu ty RU ra lệnh cho các cơ quan an ninh vây chặt các ngã đường ra vào thành phố… Alô… Giám đốc Phản gián Phạm Linh đã bị thiệt mạng… Alô, Xilốp đây… Tôi bị thương nặng ở vai… Yêu cầu gửi xe cứu thương tới… Alô… Liên lạc ngay với công an và quân đội…
Văn Bình đậu xe trong một ngõ tối gần bệnh viện Bạch Mai. Trước một căn nhà gỗ, chàng gõ ba tiếng, hai ngắn một dài, làm hiệu. Cửa mở, Văn Bình nhận ra Triệu Dung đang uống rượu thân mật với đại diện Phòng Nhì Robert Fran.
Triệu Dung giới thiệu:
-Đây là ông Fran, đại diện Phòng Nhì. Và đây là người thay mặt cho ông Hoàng.
Fran nghiêng đầu thi lễ. Văn Bình nói với Triệu Dung:
-Ta đi ngay thôi. Chướng ngại vật sắp được dựng khắp ngả đường.
Fran hỏi, giọng run run:
-Phạm Linh đang rượt đuổi ông?
Văn Bình đáp:
-Không, hắn đã chết. Hắn bị Đinh Phúc giết, và ngược lại hắn đã giết Đinh Phúc.
Fran lầm lì ra xe. Xe hắn là một chiếc Vẹc xay kiểu mới, 8 máy cực mạnh, sơn hai màu lộng lẫy. Bilatốp được dựng ngồi ở băng sau với Văn Bình.
Fran hỏi Triệu Dung :
-Cả ông cũng đi chứ ?
Triệu Dung đáp :
-Tôi có xe riêng theo sau.
Chàng nói vậy để dọa ngầm viên đại diện Phòng Nhì. Triệu Dung còn phải gây vài vụ náo loạn trong thành phố để cầm chân lực lượng an ninh và đánh lạc hướng theo dõi của Xilốp.
Văn Bình nhìn bạn bằng cặp mắt quyến luyến. Hai người sắp xa nhau, không biết xa nhau để rồi còn gặp nhau nữa không – mà không dám bắt tay và nói đôi lời từ biệt, sợ Fran ngờ vực. Văn Bình lẳng lặng trèo lên xe. Triệu Dung lái xe díp phía sau. Lát nữa chàng sẽ đâm xe xuống Hồ Tây để đánh lừa Xilốp, trong khi Văn Bình thảnh thơi phóng về Thanh Hóa.
Fran chạy qua vọng gác Bạch Mai. Không thấy người gác, Văn Bình yên tâm. Fran hỏi chàng :
-Đi Thanh phải không ông ?
Văn Bình đáp :
-Vâng. Yêu cầu ông đi thẳng quốc lộ số một.
-Các ông đa mưu thật. Bọn RU đinh ninh ông Hoàng chờ các ông trên tàu ngầm ngoài khơi Đồ Sơn.
Văn Bình không đáp, châm thuốc hút. Đêm nay xuống tiềm thủy đĩnh, chàng sẽ ném gói Thăng Long khét lẹt này xuống biển và hít một hơi Salem quen thuộc. Bilatốp dựa lưng vào đệm xe, ngủ gà ngủ gật dưới áp lực của thuốc mê.
Bỗng Fran hỏi :
-Ông đã đề phòng trường hợp Xilốp điện về Hà Nam chặn đường không?
-Tôi không tin Xilốp suy luận như thế. Phút này, nhân viên của tôi ở Hà nội đang tìm cách tạo cho RU cái cảm tưởng là chúng tôi chưa ra khỏi thành phố. Vả lại, xe ông mang số ngoại giao, công an sẽ không bắt ông ngừng đâu. Quý quốc và chánh phủ Hà nội là đồng minh, ông quên rồi sao? Mặt khác, tôi cũng cần nói ông rõ là trong bất cứ hoàn cảnh nào, tôi quyết không cho địch cướp lại Bilatốp. Tôi sẽ kháng cự đến phút chót. Nếu thất bại tôi sẽ giết Bilatốp, giết ông trước khi tự sát.
-Ông làm tôi rợn tóc gáy.
-Ồ, trong nghề này chết là thường. Ông yên tâm, tôi bắn súng thạo lắm. Chỉ cần một viên là ông có thể ngủ yên ngàn năm, không chút đau đớn.
Ánh trăng đã loãng dần. Trời càng về sáng, sương muối càng tỏa xuống nhiều. Hai lùm đèn pha màu vàng cực mạnh không đủ sức chiếu sáng con đường thẳng tắp, hai bên không có cây cối. Quan sát cách lái xe chững chạc của Fran, Văn Bình biết là viên đại diện Phòng Nhì đã quen đường.
Chàng bèn gợi chuyện:
-Ông hay đi Sầm Sơn chứ?
Sầm Sơn là bãi biển đẹp nhất Miền Bắc, cách thị xã Thanh Hóa 15 cây số. Fran đáp:
-Vâng. Mỗi năm, tôi đi độ 10 lần. Tôi vừa ở Sầm Sơn về tuần trước.
Văn Bình nói, giọng bình thản:
-Ông bạn gớm thật! Dám lợi dụng chức vụ tùy viên tòa Tổng đại diện để liên lạc với tàu ngầm.
Fran giật mình, buột miệng:
-Sao ông biết?
Sực nhớ ra bị hớ, Fran thở dài:
-Ông quả là thiên tài. Thua ông tôi không cảm thấy xấu hổ chút nào. Ông là người thứ nhất cạy được miệng tôi. Lẽ ra tôi không nên nói là tuần trước ra Sầm Sơn mới đúng. Ai lại ra bãi biển giữa mùa đông tháng rét bao giờ…
Văn Bình cười, tiếp theo:
-Trừ phi để làm công tác gián điệp.
Chiếc Vẹc xay qua Phủ Lý từ nãy. Thấy cây sắt nằm ngang đường, Văn Bình thầm lo ngại. Song chàng hết lo ngại trước thái độ khoan thai của Fran đối với bọn lính gác. Fran xuất trình giấy tờ với viên thiếu úy. Vì được cảm tình của công an Hà nội, hắn được cấp một loại giấy phép chu lưu đặc biệt, tự do di chuyển, tương tự như nhân viên các tòa đại sứ xã hội chủ nghĩa.
Viên thiếu úy hỏi Fran:
-Còn hai người kia?
-Vị ngồi bên trái là cố vấn Trung quốc, còn…
Văn Bình tuôn ra một tràng tiếng Quan hỏa líu lo. Từng lưu vong nhiều năm bên Trung Hoa, chàng nói được nhiều thổ âm và nói quan hỏa như người Tàu chính cống. Bằng tiếng quan hỏa, chàng gắt tên thiếu úy đã gây ra quá nhiều phiền phức.
Thủ đoạn lừa bịp của Văn Bình đã thành công. Tên thiếu úy gãi đầu gãi tai rối rít:
-Xin lỗi đồng chí cố vấn, lệnh trên bắt chúng tôi phải xét giấy mọi người qua lại.
Văn Bình hỏi, giọng hách dịch:
-Hà nội chưa gọi điện thoại xuống đây báo tin xe tôi sắp qua đây à?
-Thưa chưa.
Văn Bình càu nhàu:
-Đồ ăn hại.
Xe chạy khỏi vọng gác. Robert vùng cười khanh khách. Một lát sau hắn nói:
-Tôi hoạt động ở đây đã 2 năm, khóc cũng nhiều mà cười cũng lắm, tuy nhiên chưa khi nào được khóc nhiều và cười nhiều bằng đêm nay. Ông giỏi tiếng Tàu quá.
Qua các trạm gác Ninh Bình, Bỉm Sơn, nơi quân đội đồn trú đông đảo, Fran chỉ bị hỏi giấy tờ lấy lệ.
Trên con đường ngoằn ngoèo và thoai thoải giáp giới hai tỉnh Ninh Bình – Thanh Hóa, Fran cúi rạp xuống vô lăng. Nếu xe hơi không đến kịp Sầm Sơn trước 4 rưỡi sáng, chương trình thoát hiểm của Văn Bình đành phải chậm lại 24 giờ, với bao nỗi khó khăn ghê gớm rình rập bên chàng từng giây, từng phút. Vì vậy chàng không ngớt giục Fran đạp lút ga xăng.
Qua Đền Sòng, Phố Cát, hai ngôi đền danh tiếng nhất của vùng Thanh Hóa, Văn Bình cảm thấy lòng nao nao. Hồi nhỏ, thân phụ chàng, một nhà thiện xạ danh tiếng, đã dẫn chàng vào khu rừng rậm sau Đền Sòng để săn hổ. Tục truyền những con cá to lớn bơi lượn nhung nhúc trong cái hồ lớn trong đền là cá thần. Nước hồ trong suốt như gương, đứng trên bờ nhìn xuống người ta có thể thấy hàng trăm con cá vẩy vàng và bạc óng ánh. Người ta thuật lại chuyện một viên chức Pháp chĩa súng xuống hồ bắn cá để nhạo báng thần linh, sau đó bị hộc máu tươi ra chết.
Chiếc Vẹc xay qua cầu Hàm rồng. Dưới ánh trăng suông, cầu Hàm rồng hiện ra, lơ lửng trên giòng nước trong veo, giữa hai mỏm đá lớn nhô ra, không khác viên ngọc khổng lồ bị ngoạm giữa hàm răng con rồng. Vì thế người ta gọi là cầu Hàm rồng.
Thị trấn Hàm rồng gồm những ngôi nhà ngói ọp ẹp bên cạnh những xưởng máy mới cất, quét vôi trắng toát, ống khói lêu nghêu vươn cao dưới vòm trời màu xám ảm đạm, là ải địa đầu trước khi đến tỉnh lỵ Thanh hóa.
Văn Bình đã ghé tỉnh lỵ này nhiều lần hồi niên thiếu. Thanh hóa là một thị trấn đẹp mộc mạc và hiền lành như cô gái quê còn trinh. Giữa tỉnh lỵ là một bức tường thành đồ sộ, bên trong có cung điện của vua nhà Nguyễn sơn son thếp vàng, tứ phía là cái hào rộng đầy nước và hoa sen. Ngày chủ nhật, trai gái hẹn hò trên núi Mật, cách tỉnh lỵ 3 cây số để tình tự với nhau và khắc tên nhau trên đá. Những người có gia đình mà chưa dứt được thói trăng hoa thường xuống Quán Giò để gõ trống chầu với bè bạn và nhất là đến ngủ đêm với ả đầu. Cái thời những cô gái dùng nước hoa nhài, giắt lược đồi mồi trên tóc dài lê thê, mỗi đêm rũ chiếu, và quạt muỗi cho khách ngủ ở xóm thanh lâu Quán Giò đã xa rồi… Đã xa rồi cái thời cậu bé Văn Bình tới Thanh Hóa để ăn mãng cầu làng Nhồi ngọt như mật ong, cam giấy làng Giàng vỏ bao giờ cũng xanh rờn mà ruột bao giờ cũng ngọt lịm như đường, và mía Triệu tường, thứ mía độc nhất vô nhị, gốc đỏ như son, đốt ròn tan, đụng nhẹ là gẫy, không cần đến dao.
Tỉnh lỵ đã bị tiêu thổ hoàn toàn năm 1947 sau ngày toàn quốc kháng chiến bùng nổ.
Robert Fran lái vòng qua tỉnh lỵ mới, phóng về phía Bến Cốc. Cách Bến Cốc 15 cây số về phía đông nam là bãi biển Sầm Sơn. Fran dừng xe trước vọng gác trên cầu Bến Cốc.
Thấy Fran, người dân quân nói:
-Yêu cầu ông quay xe về tỉnh lỵ. Tôi vừa được lệnh cấm mọi xe đi Sầm Sơn.
Văn Bình ló đầu ra cửa xe, hỏi bằng tiếng Việt:
-Lệnh của ai?
-Thưa, của công an tỉnh.
Văn Bình gắt gỏng:
-Mấy chú công an tỉnh rõ lắm chuyện. Anh biết tôi là ai không ? Tôi là giám đốc công an Bắc bộ. Nếu anh cần xét giấy, tôi đưa chứng minh thư cho xem. Nhưng liệu hồn, sáng mai trở về, tôi sẽ cách chức hết.
Giọng kính nể, người dân quân hỏi :
-Thưa, ban đêm đồng chí giám đốc đi Sầm Sơn có việc gì ạ ?
-Không thể tiết lộ cho anh biết.
-Vậy, xin phép đồng chí xuống xe lại vọng gác gặp đại đội trưởng.
Văn Bình rút chìa khóa công tắc bỏ túi trước cặp mắt bực bội của Fran. Cử chỉ này chứng tỏ chàng không tin viên đại diện Phòng Nhì. Vì có thể thừa dịp Văn Bình xuống xe, Fran sẽ rú ga phóng lộn về Hà nội. Vọng gác là một ngôi nhà nhỏ lụp xụp, gần chân cầu. Bên trong, hai người đàn ông mặc đồ đen đang ngồi đọc báo dưới ngọn đèn dầu vàng ệch.
Tên dân quân lùi lũi theo sau, cách Văn Bình một bước. Chàng quay lại giáng atémi giữa mặt hắn. Nạn nhân ngã nhào xuống cái ghế gỗ dài kê sát tường. Tên đại đội trưởng buông tờ báo đứng dậy. Tên thứ hai đặt tay vào cái mã tấu sáng loáng gác trên bàn. Song Văn Bình đã vụt tới xòe hai bàn tay ra một lượt. Hai cú đánh kinh hồn xẹt vào cuống họng đối phương. Cả hai gục chết, không kêu được một tiếng.
Văn Bình lấy mã tấu cắt đứt dây điện thoại, đoạn thổi tắt đèn, thản nhiên ra đường. Fran vẫn ngồi trong xe, hút thuốc. Thấy chàng, hắn hỏi :
-Xong chưa ?
Tra chìa khóa vào công tắc, chàng đáp :
-Xong rồi. Mời ông tiếp tục.
Xe vọt qua cầu. Tới Lai Thành, sân bay cũ dưới thời thuộc địa, Fran hỏi :
-Ông giết họ phải không ?
-Phải.
-Công an sẽ khám phá ra xác chết, và gọi điện thoại cho Sầm Sơn chặn chúng ta lại.
-Tôi đã cắt giây điện thoại.
Fran thở phào ra:
-Họ còn siêu tần số nữa.
Văn Bình lắc đầu:
-Trong vọng gác, tôi không thấy điện thoại siêu tần số. Vả lại, màn kịch đã đến đoạn chót, tôi không được quyền dè dặt nữa. Nếu cần giết một trăm người để đưa Bilatốp xuống tàu ngầm, tôi cũng không ngần ngại.
Đột nhiên Fran nhìn vào mắt Văn Bình:
-Tôi trông ông ngờ ngợ… Hình như đã gặp ông một vài lần ở đâu?
Văn Bình phá lên cười:
-Có lẽ ông thấy hình của tôi trong thư khố Phòng Nhì ở Ba Lê. Tôi là Văn Bình, tức Z.28.
Fran à lên một tiếng rồi nói :
-Thảo nào ! Tôi nghe danh ông đã lâu. Nếu là ông thì đối phương ít có hy vọng đoạt lại Bilatốp. Tôi nghe nói sức ông có thể địch nổi trăm người.
-Người ta phóng đại đấy, thưa ông. Tôi chỉ làm tròn nhiệm vụ người điệp viên của ông Hoàng trên đất lạ. Ông đừng quên trong xe còn hai khẩu súng máy. Với loại súng này, tôi có thể quét ngã một đại đội.
Xe hơi tiến vào địa phận Sầm Sơn.
Sầm Sơn là nơi nghỉ mát hạng nhất của Bắc Việt với những hòn đá nên thơ, rừng phi lao xanh ngắt, bãi biển trong vắt và khí hậu mát rợi. Văn Bình mừng thầm vì không thấy vọng gác.
Fran hỏi :
-Mình đi về phía nào ?
Văn Bình chỉ sang bên phải :
-Phiền ông lái vào đây.
Đó là con đường lên núi, dẫn đến kho vàng khi xưa. Văn Bình đặt khẩu tiểu liên ngang đùi, mắt chăm chú nhìn con đường ngoằn ngoèo phía trước. Triệu Dung cho biết địch đang canh phòng cẩn mật tại khu vực này. Phần lớn lực lượng công an và quân đội được giàn ra dọc bờ biển, đề phòng các vụ đổ bộ lén lút bằng tàu ngầm. Tuy nhiên chàng vẫn phải chuẩn bị sẵn sàng.
Chạy được một cây số, chàng dặn Fran vòng qua Belvédère, ngọn núi cao nhất Sầm Sơn. Trên đỉnh Belvédère có một vọng gác gồm một tiểu đội, võ trang bằng đại liên và súng phòng không. Chàng ra lệnh cho Fran luồn xe giữa hai phiến đá lớn, đứng ngoài không thể nhìn thấy.
Lệ thường, các cuộc đổ bộ bí mật đều diễn ra trên một bãi biển hiểm trở, cách Belvédère trên 10 cây số. Sau nhiều vụ chạm súng với dân quân tại bãi biển này, các điệp viên của ông Hoàng đã rời địa điểm đổ bộ lên phía bắc. Công an địa phương đã lập một phòng tuyến an ninh kiên cố, gồm dây kẽm gai truyền điện và hàng rào mìn tại nơi dễ đổ bộ. Họ không thể ngờ được Văn Bình dám hẹn với tàu ngầm ở chân núi Belvédère, ngay dưới vọng gác quan trọng nhất.
Văn Bình quay nhìn bốn phía. Gió lạnh thổi vù vù. Phía dưới là biển rộng mênh mông, mập mờ trong trăng loãng và sương mù đùng đục. Sóng biển vỗ đá ầm ầm. Từ bên trái, khu làng mạc và nhà nghỉ mát, vẳng lên tiếng thông reo vi vút. Nếu không có gió lạnh cuối đông như xẻo từng miếng thịt, nếu không có nỗi lo âu trước giờ tiềm thủy đĩnh rẽ sóng ngoi lên, thì phong cảnh Sầm Sơn ban đêm thật nên thơ.
Tuy không phải nhà thơ, Văn Bình cũng bồi hồi xúc động. Mười mấy năm trước, chàng đã tới Sầm Sơn tắm biển và cũng lên Belvédère nhìn ra khơi. Hồi đó, chàng nhìn ra khơi là để ngóng thuyền cá về mua, đem luộc ăn ngấu nghiến trên bãi cát với bánh đa gạo đỏ và cùi dừa thơm ngát. Hồi đó, chàng lên Belvédère với một người đàn bà, đúng hơn một thiếu nữ ngây thơ, mớ tóc dài buông xõa trước gió mơn man, thân thể căng phồng nhựa sống của tuổi đôi mươi vô tư lự. Nàng đi đâu, nàng có chồng hay chưa, Văn Bình không biết. Trong làn gió lạnh buốt, chàng bỗng được ngửi lại hương thơm của tóc nàng, của ngực nàng và tấm thân kiều diễm của nàng…
Sầm Sơn thơ mộng không còn nữa. Hòn Trống Mái được văn sĩ Khái Hưng đưa vào lịch sử trong bộ truyện tình ăn khách thời tiền chiến chỉ còn là khối đá đen sì, nằm nghe gió thổi và sóng réo. Tiếng âm nhạc si mê và cuồng loạn của Au Perchoir và Mon Moulin, hai khiêu vũ trường thanh lịch nhất Sầm Sơn tiền chiến còn vẳng bên tai chàng. Nếu không có nghị lực sắt đá, Văn Bình đã thốt ra tiếng thở dài.
Bỗng chàng nghe tiếng giày lộp cộp. Chàng nhìn về phía có tiếng người. Một tiểu đội binh sĩ chính quy mặc đồ trận, đeo súng tiểu liên, từ phía Belvédère tiến lại. Họ xếp hàng một, vừa đi vừa trò truyện. Văn Bình kéo Robert Fran núp dưới một tảng đá tối om. Fran run run nép vào chàng. Chàng biết hắn run không phải vì lạnh. Thời tiết bên Pháp còn lạnh hơn nhiều.
Toán lính nện gót qua chỗ hai người ẩn trú. Theo lời Triệu Dung, khoảng 20 phút một lần, đội tuần tiễu qua Belvédère.
Văn Bình nhìn đồng hồ. 4g25.
Chàng đặt cái va li nhỏ xuống đất, mở lấy một cặp kính đặc biệt và cây bút máy. Chàng đeo kính lên mắt rồi bấm cái nút ở cuối bút. Bút máy này là cây đèn bấm phát ra một tia sáng vô hình, mắt người chỉ có thể nhìn thấy bằng kính hồng ngoại tuyến. Cặp kính trên mắt Văn Bình là một loại kính hồng ngoại tuyến.
Chàng bật sáng rồi tắt 3 lần. Nghỉ 2 phút, chàng lại tiếp tục bật sáng rồi tắt.
Qua lớp kính hồng ngoại tuyến, quang cảnh trời nước trước mặt chàng trở nên mơ hồ như trong mộng. Chàng thấy rõ một tia sáng bật tắt 3 lần trả lời. Tiềm thủy đĩnh của ông Hoàng đã nhận được tín hiệu. Trong vòng 5 phút, một chiếc xuồng cao su sẽ ghé bến đưa Văn Bình xuống.
Theo lời cam kết, chàng sẽ trả tự do cho Robert Fran ngay sau khi xuồng vào bờ. Song viên đại diện Phòng Nhì lại không nghĩ suông sẻ như chàng. Giá chàng quay lại khi ấy, chàng sẽ bắt gặp ánh mắt sòng sọc như tóe lửa của Fran, và miệng hắn mím chặt trong niềm căm thù ghê gớm.
Trong một tích tắc, Fran cân nhắc những hậu quả của sự thất bại não nề. Dầu muốn hay không, vai trò tình báo Phòng Nhì của hắn đã bại lộ. Các trạm gác dọc quốc lộ số 1 đã chứng kiến hắn lái xe cho hai người đàn ông lạ, giờ đây hắn không thể trở về Hà nội một mình. Phương chi Văn Bình đã hạ sát toán dân quân trên cầu Bến Cốc.
Ba cái hộp đựng tài liệu tối mật nằm trong túi Văn Bình làm hắn thèm rệu nước miếng. Trong khoảng không hiện ra khuôn mặt nghiêm khắc của viên giám đốc Phòng Nhì ở Ba Lê và hắn bỗng mường tượng tiếng nói nghiệt ngã của thượng cấp:
-Robert, anh mang hai thứ tóc trên đầu, gần 20 năm trong nghề tình báo mà bị thua sát ván một thanh niên 30 tuổi. Anh không biết xấu hổ ư? Nếu tôi là anh, tôi đã đâm đầu xuống biển Sầm Sơn không về đây nữa. Vì trong trường hợp anh tự tử, tôi còn có thể la hoảng là anh bị nhân viên của ông Hoàng bắt cóc rồi hạ sát… Đằng này, anh đã dính chặt vào vụ Bilatốp… Robert Fran, anh nên tự xử. Đơn từ dịch đây, anh ký vào rồi gởi lên cho tôi. Từ nay, tôi không muốn ngó mặt anh nữa…
Fran nghẹn ngào, muốn thét một tiếng lớn. Hắn không còn cách nào ngoài cách giết Văn Bình, đoạt hộp tài liệu, rồi chạy xuống thị trấn, liên lạc với một cộng sự viên tháo vát của Phòng Nhì. Nhân viên này sẽ chở mô tô cho hắn lên tỉnh lỵ Thanh Hóa, ở đó đã có một cơ sở địa phương của tòa tổng đại diện. Sáng sớm hắn sẽ về Hà nội bằng xe hơi riêng, và 9 giờ sáng lên phi cơ rời Hà nội. Khi chính quyền Hà nội khám phá ra thì Fran đã bình yên uống mạc ten ba ngôi sao ở Cảng Thơm bên những giai nhân thơm mát trên đường về nước.
Không lẽ Fran chịu thua một cách hèn hạ? Gần hắn trong gang tấc là những cái hộp tài liệu vô cùng quí báu. Ráng thêm nữa, ráng thêm chút nữa thôi! Văn Bình là tay võ nghệ cao cường, nhưng Fran đâu phải kém nhu đạo, quyền Anh và nghê thuật cận chiến? Nhất là lúc này Văn Bình đang ở tư thế thụ động hớ hênh!
Fran tiến một bộ, bàn chân thành thạo lướt nhẹ trên nền đất như lá rụng. Hắn đã thủ sẵn trong tay cái mỏ lết sắc cạnh đánh cắp trong xe. Hắn nín hơi, thót bụng, vận toàn lực vào cánh tay phải. Rồi hắn nhắm trũng gáy Văn Bình nện cây mỏ lết xuống.
Nhưng cũng trong tích tắc đồng hồ toát bồ hôi lạnh này, một tiếng kêu thất thanh cất lên:
-Văn Bình!
Đó không phải là tiếng gọi tên mà là tiếng kêu cấp cứu. Người kêu tên Văn Bình là một phụ nữ. Tiếng kêu thất thanh nhằm báo hiệu Văn Bình một sự nguy hiểm chết người.
Đã nghe quen những tiếng kêu rợn người, giữa lúc tính mạng như chì mành treo chuông, Văn Bình không kịp nghĩ ngợi tung người sóng soài trên đất. Cây mỏ lết hụt khỏi gáy, luôn trớn phóng xuống đá kêu choang, bắn lửa. Một phần mười giây đồng hồ đủ cho Văn Bình ước lượng được sức mạnh của Fran. Chàng không ngờ Fran có thể cuồng dại đến mực ấy. Văn Bình vùng dậy, lật ngửa người, cánh tay khóa chặt cánh tay cầm mỏ lết của Fran rồi giật mạnh. Quả thật Fran chưa phải là đối thủ của chàng. Rắc một tiếng, xương bả vai của Fran bị miếng khóa nhu đạo tối hiểm bẻ gẫy làm hai khúc. Nạn nhân nằm dài trên phiến đá.
Một người đàn bà từ trên cao chạy xuống thoăn thoắt, tỏ ra thành thạo môn trèo núi. Cách 10 thước, chàng nhận ra Thúy Liễu. Chàng thầm cảm tạ định mệnh đã sui Thúy Liễu đến kịp để cứu chàng khỏi độc thủ của Robert Fran. Thúy Liễu thở hổn hển:
-May quá. Em đến kịp.
Không biết tiếng ‘’may quá’’ của Thúy Liễu là may cho nàng đến kịp để đáp tàu ngầm hay là may cho cả hai người. Trên con tàu đi sâu dưới lòng bể, Văn Bình đỡ phải lạnh lẽo. Cho nên trong phút gian nan, chàng quên bẵng không chịu tìm hiểu tại sao Thúy Liễu lại xưng với chàng bằng em.
Khi giã từ Hà nội, chàng được Triệu Dung cho biết Thúy Liễu sẽ cùng vào Nam với chàng. Đinh Phúc là nút giây liên lạc giữa Nguyễn Đoàn và nàng nên sau khi thư quán Tiến Bộ bị vỡ, nàng phải rút vào bí mật. Thật ra Thúy Liễu cũng chỉ mong có cơ hội hãn hữu vào Nam. Nàng không còn đủ can đảm sống cạnh người chồng cán bộ cục mịch, ngu xuẩn mà nàng không yêu.
Văn Bình hỏi:
-Thúy Liễu đến đây từ đêm qua phải không?
Nàng đáp:
-Phải, em đến từ đêm qua. Nhận được mật điện của Anh Cả, em lật đật đến đây tìm anh.
Văn Bình nói giọng trách móc:
-Té ra Thúy Liễu cũng biết dùng điện đài.
Nàng tỏ dấu ngạc nhiên:
-Biết chứ anh. Hoạt động ở đây ai cũng được huấn luyện truyền tin.
Chàng bật cười:
-Vậy mà trong buổi tiếp xúc đầu tiên, Thúy Liễu lại nói rằng không biết xử dụng. Chà, đàn bà kín đáo ghê!
Chàng cố ý tránh dùng tiếng ‘’em’’ và tiếng ‘’tôi’’. Nhưng  Thúy Liễu đã hiểu. Nàng đứng lặng, mơ màng nhìn ra khơi.
Văn Bình cười thầm. Chàng có phải là thằng ngốc, là hòn đá đâu mà không biết Thúy Liễu yêu chàng. Chàng nhớ lại những phút sống với Thúy Liễu trong căn nhà gần ga Văn Điển. Khiếp, bàn tay của nàng sao mà thon mịn thế! Sao bộ mặt của người thiếu phụ sống ẩn dật ở Miền Bắc, nơi mà thỏi son, hộp phấn, không thể tìm ra, lại dễ yêu, dễ cảm đến thế! Trong buổi gặp gỡ đầu tiên, chàng chỉ có dịp đứng xa chiêm ngưỡng một pho tượng Vệ nữ. Giờ đây pho tượng siêu mỹ nhân đã biến thành xương thịt trong tầm tay chàng với mùi thơm ngây ngất lấn át gió lạnh đêm đông trên biển cả, với cặp môi hình trái tim hé mở như thúc giục, hẹn hò ; với đôi mắt trầm trầm, sâu sâu có mãnh lực hút hồn, khiến Văn Bình quên cả trời đất và nhiệm vụ.
Một sức mạnh vô hình chôn chân chàng vào đá. Chàng cố gắng rướn mình giữa lúc Thúy Liễu chạy bổ lại phía chàng. Cánh tay khỏe mạnh của chàng giang rộng ra ôm chặt lấy Thúy Liễu. Chàng vít đầu nàng đặt cái hôn cháy bỏng trên môi. Thúy Liễu run bắn người, rúc đầu vào ngực chàng. Nàng run lên vì sung sướng, không phải vì lạnh.
Chiếc xuồng cao su đã bồng bềnh dưới chân núi. Văn Bình bấm đèn hiệu lần nữa. Đoạn chàng xốc nhà bác học Bilatốp lên vai lần xuống.
Trong khi đó, Fran ngồi dậy. Tự biết không thể hạ sát Văn Bình và đoạt tài liệu, hắn bèn thét lớn:
-Công an ơi, cứu tôi với.
Văn Bình giật mình đứng khựng. Fran nói tiếng Việt rất sõi, chàng không ngờ. Chàng không muốn giết hắn vì tình nhân đạo, ngờ đâu hắn cố tình hại chàng. Chàng muốn quay lại hạ thủ Fran, song không kịp nữa. Tiếng rú kinh hồn của Fran đã lọt vào tai người lính gác trên Belvédère. Một lùm đèn pha sáng quắc từ đỉnh cao chiếu xuống, kèm theo câu hỏi oang oang từ máy phóng thanh vẳng ra:
-Ai đó? Ai đó?
Fran đáp lớn:
-Tôi đây… Cứu tôi với… Gián…
Fran định nói hắn bị gián điệp địch hạ sát, nhưng Văn Bình đã kịp phóng lưỡi dao vào cổ hắn. Hắn ngã vật xuống phiến đá, rú ằng ặc rồi tắt thở.
Tiếng nói trong loa vi âm át cả tiếng gió gào và sóng réo:
-Ai đó, đứng lại. Nếu không tôi bắn.
Đèn pha rọi sáng như ban ngày. Lùm sáng chỉ còn cách chàng một thước. Chàng bò vào hốc đá, Thúy Liễu ép bên chàng, hơi thở thơm tho của nàng phà vào mặt.
Tacata… Tacata… Loạt đạn đầu tiên bắn vu vơ xuống triền núi đá. Một ngọn đèn pha thứ hai từ bên trái chiếu về chỗ hai người núp. Văn Bình thót dậy, đỡ Bilatốp li bì lên vai, kéo Thúy Liễu theo. Chàng trượt ngã hai, ba lần, mỏm đá sắc nhọn làm toàn thân sây sát, song chàng vẫn chạy miết.
Tiếng nói trên Belvédère vẫn rền vang:
-Ai đó, đứng lại, không tôi bắn…
Tacata… Tacata… Loạt đạn thứ hai. Rồi loạt đạn thứ ba. Rồi khu Belvédère biến thành bãi chiến trường, đạn bay tới tấp, ròn rã như pháo đêm giao thừa.
Văn Bình đã xuống tới mỏm đá cuối cùng mấp mé mặt nước. Một tia đèn bấm lóe vào mặt chàng. Một giọng nói quen thuộc nổi lên:
-423.
Văn Bình đáp nhanh:
-619.
Vẫn giọng ấm áp quen thuộc:
-Văn Bình hả? Lê Diệp đây.
Lê Diệp, điệp viên thứ hai của ông Hoàng, bạn thân nhất của Văn Bình trong sở Mật vụ, đã đến tận Sầm Sơn để đóng chàng. Qua tiếng súng vang rền và tiếng gió vù vù, Lê Diệp hỏi chàng:
-Anh có bị thương không?
Chàng đáp:
-Không.
-Anh chuyền Bilatốp cho tôi.
Một bóng đen vạm vỡ xuất hiện trong tối, đỡ Bilatốp trên vai Văn Bình. Đèn pha đang quét xuống mặt biển. Văn Bình hỏi:
-Tàu ngầm ở đâu?
Lê Diệp đáp:
-Cách đây 200 thước. Đậu dưới một mỏm đá lớn, dưới Belvédère, đèn pha không chiếu tới. Họ không ngờ tàu ngầm của ta dám vào đến đây đâu, anh đừng ngại. Tuy nhiên…
Lê Diệp ngừng bặt. Đèn pha đang lục soát phía trước. Nếu địch tiếp tục chiếu đèn, ba người khó có hy vọng xuống xuồng để bơi ra tàu ngầm.
Trù trừ một giây, Văn Bình nói:
-Hay ta bắn vỡ đèn pha?
Lê Diệp quỳ một chân xuống đá, nâng nòng tiểu liên. Viên đạn đầu tiên của chàng đã làm lùm sáng vụt tắt. Hai ngọn đèn pha còn lại cũng bị Văn Bình bắn vỡ nốt. Toàn thể Belvédère chìm trong bóng tối hãi hùng.
Thúy Liễu trèo xuống xuồng cao su. Hai người lực lưỡng chờ sẵn, đẩy xuồng ra khỏi mỏm đá. Từ trên Belvédère, đại liên bắn theo chát chúa.
Con tàu đen chùi chũi nhô lên mặt biển, dưới mỏm đá lớn xòe rộng như cái tán khổng lồ. Nắp cửa trên boong mở ra. Mọi người lục tục trèo xuống. Nhanh như chớp, tiềm thủy đĩnh lặn xuống nước. Khi tàu ngầm sắp chìm xuống hết, khu vực Belvédère đột nhiên sáng rực. Nhiều hỏa châu được bắn lên cao. Các loại súng nặng thi nhau khạc đạn.
Ông Hoàng đợi Văn Bình dưới chân cầu thang. Vẫn một ông Hoàng già cằn, đeo kính cận thị dầy cộm, hút điếu xì gà bất diệt, ngồi thu hình như sợ rét trên ghế sắt. Hạm trưởng đứng bên ông Hoàng chờ lệnh. Thấy Văn Bình, ông Hoàng ngẩng đầu lên cười thân mật.
Chàng hỏi ông Hoàng :
-Họ vừa bắn trái sáng trên đầu. Liệu mình thoát được ra khơi không, thưa ông ?
Hạm trưởng đỡ lời :
-Ông bạn yên tâm. Cách bãi biển một cây số có một tấm lưới sắt kiên cố, buộc đầy mìn, tàu đụng là nổ tung. Lưới sắt này chỉ giành một khoảng nhỏ vừa đủ một chiếc tàu lọt qua. Ta đã nắm được họa đồ phòng thủ của địch, nên không sợ chạm mìn. Lát nữa, ra đến hải phận quốc tế thì hết.
Lê Diệp hướng dẫn Văn Bình và Thúy Liễu vào cabin hạm trưởng. Ông Hoàng đặt bàn tay răn reo lên vai Thúy Liễu :
-Thành thật khen ngợi bà.
Thúy Liễu lí nhí cám ơn. Bilatốp được khiêng vào phòng hồi sinh, còn Thúy Liễu được một thủy thủ đưa vào một cabin sang trọng. Còn lại một mình với Văn Bình, ông Hoàng cười nụ :
-Bà ta có chồng rồi, chớ đụng vào mà khốn.
Văn Bình cũng cười :
-Thưa ông, nàng nói với tôi vì tuân lệnh Sở nên phải ở lại với chồng. Thật ra, nàng không hề yêu chồng.
Ông Hoàng ngắt :
-Anh đừng biện hộ nữa. Tôi đọc thấy cảm tình đối với anh trên mắt bà Thúy Liễu. Về đến Sàigòn, tôi sẽ gởi bà ta ra ngoại quốc, với một công tác khác. Từ phút này đến khi tàu cập bến Cam Ranh, thời gian hoàn toàn thuộc về anh, anh muốn làm gì tùy ý, tôi không cấm đoán. Song anh đừng quên đây là tàu ngầm, thủy thủ hàng tháng, có khi hàng năm không gặp đàn bà, phương chi bà Thúy Liễu là tuyệt thế giai nhân… Để thủy thủ khỏi dị nghị, tôi đã nói với họ anh và Thúy Liễu là vợ chồng… Nhưng chỉ về đến Sàigòn là thôi. Anh nhớ chưa ?
-Thưa nhớ.
Ông Hoàng nói tiếp :
-Trong cabin của Thúy Liễu, tôi đã để sẵn 5 chai rượu huýt ky hảo hạng và 3 bịch thuốc Salem. Anh cần gì thêm nữa không ?
-Thưa ông, ông biết tôi… với nàng hồi nào mà để sẵn rượu, thuốc trong cabin của nàng ?
Ông Hoàng cười :
-Triệu Dung đã báo cáo với tôi.
Văn Bình tìm đến phòng Thúy Liễu. Ông Hoàng nheo con mắt cận thị nhìn chàng, và khẽ lắc đầu.
Mở cửa cabin, chàng giật mình đứng sững. Nàng vừa tô son vào đôi môi chín mọng. Thấy chàng, nàng thẹn thò cúi mặt xuống. Chàng tiến lại, nâng cằm nàng lên đặt cái hôn say sưa. Thúy Liễu run bần bật, ngã gọn vào vòng tay rắn chắc của chàng. Nàng lẩm bẩm như trong cơn mơ :
-Em yêu anh quá, anh ơi…
Tiềm thủy đĩnh ra đến hải phận quốc tế. Văn Bình châm điếu thuốc Salem mà chàng tương tư từ một tuần nhật, và chậm rãi mở chai huýt ky hạng nhất còn trinh tiết. Mùi da thịt ngạt ngào của Thúy Liễu luồn vào mũi chàng. Ngọn đèn trong cabin tắt phụt.