HỒI THỨ HAI
Phi Lạc sang Tàu trong Mộng huyễn
Giờ đây, thật sự Tếch sang Âu.

     Đây nói về Thu Hương, khi khám phá hết những bí mật trong cõi lòng của họ Hồ nhờ thi hành mỹ nhân kế thì lòng bỗng sanh lưỡng lự. Nàng không biết nên đem ra báo cáo hết công tác mà nàng đã lãnh, hay giấu luôn cho chồng. Thì Hồ Hữu Tường, thấy vẻ nàng lo âu, đoán được tâm sự ấy, bèn vuốt ve nàng mà nói:
- Em nhập vào chủ nghĩa Mác Lê đã mấy năm nay, sao chẳng rành biện chứng pháp? Biện chứng pháp dạy rằng quá trình biến đổi của sự vật cùng tư tưởng thảy đều theo cái tuần tự: lập đề, đổi đề, qui đề. Nay em lưỡng lự giữa cái lịnh của đảng và cái tình thương chồng, ấy chẳng khác nào em ở trong cái mâu thuẫn giữa lập đề và đối đề. Em theo một bên nào, ấy là em phản với tinh thần của biện chứng pháp. 
Thu Hương có vẻ suy nghĩ, hỏi:
- Nếu theo biện chứng pháp, thì em phải làm sao?
Họ Hồ rờ cái bụng của nàng với vẻ âu yếm, đáp:
- Không giấu bí mật cho chồng, chẳng dưng bí mật ấy cho đảng, thì em dành nó cho con vậy! Ấy là cái qui đề.
Thu Hương giựt mình. Nàng mê mãi trong công tác, thi hành mỹ nhân kế, quên hẳn rằng cứu cánh của mỹ nhân kế là cái thai, mà họ Hồ trào phúng gọi là cái qui đề của biện chứng pháp. Rồi nàng nghĩ, kế hoạch của họ Hồ có đem ra mà thi thố chỉ khi nào Tàu trở nên cường quốc số một, có vỏ khí nguyên tử, thì ít ra cũng trong đôi ba mươi năm nữa. Chừng ấy Hồ Chí Minh liệu còn sống mà khai thác cái bí mật mà hiện nay nàng nắm chăng? Chừng ấy Hồ Hữu Tường liệu còn tỉnh trí, chưa đến nỗi lẩm cẩm và còn đủ sáng suốt để chủ trì đường lối chăng? Phải, cái kế hoạch như thế chỉ dành để áp dụng cho thế hệ của mai sau, của thế hệ của thằng nhỏ Xich Tú nay vừa mười tuổi, của thế hệ em nó nay vừa đi tập tễnh hay vừa tượng trứng trong bụng mẹ. Thì báo cáo sớm ra làm gì để cho kẻ nghịch có đôi ba mươi năm để nghiên cứu việc phá hoại kế hoạch? Nàng nói:
- Anh nói rất phải. Bí mật của anh nên dành để cho con. Con của chị lớn, con của chị Hai, hay là con của em cũng được. Để em nói anh nghe, em sẽ viết một bộ tiểu thuyết mà em đặt tên là «Ngàn năm một thuở». Ý em muốn nói rằng đó là một dịp may ít có, cả ngàn năm mới xảy ra một lần. May mắn cho đến đổi mà, nếu anh đảo ngược trật tự của bốn chữ lại, thì hóa ra «Một thuở ngàn năm»! Ý em muốn nói rằng nếu bọn X. T., nếu cái thế hệ X. T. này mà làm xong sứ mạng, thì công việc làm trong một thuở mà ảnh hưởng kéo dài cả ngàn năm...
Họ Hồ vỗ về cười, có vẻ khoái trá lắm và nói:
- Năm trăm năm trước đây, một người Việt, họ Hồ, là Hồ Nguyên Trừng sáng chế ra súng thần công. Súng này mở một kỷ nguyên mới cho nghệ thuật quân sự và tạo ra năm trăm năm cường thịnh của Tây Phương. Nay em muốn cho con mình làm việc một thuở mà đem lại ngàn năm hanh thông cho Á Châu mình. Thật là một cái mộng vĩ đại. Có dè đâu anh có được một người vợ được như em!
Thu Hương được khen, thêm hứng, nói:
- Đứa con của em, em hãy lấy hai chữ X. T. làm chữ đầu. Em đặt tên cho nó là Xích Tử. Nơi chương một của tiểu thuyết, em đặt hai câu tiên tri: «Cuối hạ ngươn Quỉ Vương xuất hiện. Đổi đời mới Xích Tử ra công». Để cho độc giả thấy rằng trong lúc con mình con ấu trĩ, Quỉ Vương làm chủ tể hoàn cầu, gieo loạn lạc tang tóc khắp nơi, dọn tâm lý của quần chúng mong nhờ đấng cứu thế. Rồi trải qua vài mươi năm lầm than, thằng Xích Tử ra đời, ra công cứu vớt loài người khỏi cảnh tận diệt. Đổi đời mới đây! Cái bí mật mà anh đã trao cho em, em nhốt trong tiểu thuyết. Có ai dè đâu trong tiểu thuyết trào phúng mà em viết, em giấu cái chúc ngôn của chúng mình để lại cho con là thằng Xích Tử.
Thế là Thu Hương nuôi mộng viết tiểu thuyết, làm văn, với bút hiệu Ý Dư, nàng đã sáng tác một áng văn kỳ quặc, cốt chuyện không có gì hết, chẳng có bông hồng thướt tha, không theo chủ nghĩa tả chân, không phảng phất chút mùi lãng mạn, hư thì hoàn toàn hư, mà thực lại rất thực, ngụy biện trộn lẫn với luận điệu đanh thép, tư tưởng mới thì gói ghém trong lối thuật rất xưa, học thuyết khó lại nhốt trong giọng đùa cợt rất bình dân... Sở dĩ nàng làm được kỳ công ấy, là vì nàng luôn luôn nhớ tưởng đến cái thai, luôn luôn tưởng tới thằng Xích Tử vài mươi năm sau khám phá được hết ý nghĩa của di chúc, nhảy ra hành động mà cứu đời khỏi cơn tận diệt.
Tiểu thuyết mỗi ngày cho đăng một đoạn trong Sài Gòn Mới. Cô Kiều Yiêu, nhà văn ở Bạc Liêu, mỗi ngày đón độc, tưởng đâu đó là tác phẩm của họ Hồ, có gởi tặng một câu thơ:
Phi Lạc sang Tàu trong Mộng huyễn...
Và hẹn sẽ gởi thêm vài vần nữa. Họ Hồ không dám đính chánh rằng Ý Dư không phải là mình. Sợ e hai bà vợ, Bắc và Nam, cùng ghen mà hợp nhất... chiến tuyến lại chống với bà ba là người Huế. Do đó mà có một cái ngộ nhận to trong lịch sử văn học ở đất này.
Thu Hương săn sóc thằng Xích Tử ngay từ trong trứng. Mỗi ngày nàng chỉ để dư thì giờ viết mấy trang tiểu thuyết gởi ngay cho nhà báo. Còn từ sáng, khi chuông nhà thờ Huyện Sỹ đó kêu gọi con chiên đọc kinh sáng cho đến mười hai giờ khuya, thì nàng đọc sách. Để cho bộ thần kinh nàng làm việc mà ảnh hưởng đến thần kinh đứa trẻ trong bào thai. Nàng không đọc những tiểu thuyết nhảm nhí, những truyện kiếm hiệp hoang đường, mà lại chuyên đọc bá gia chư tử, những học thuyết cao siêu, những hệ thống vĩ đại.
Thấm thoát mà đến kỳ sanh nở. Đúng như nàng kỳ vọng, nàng sanh được một trai, đầu to trán rộng, tai lớn, miệng chành bành. Nàng mừng thầm, chắc chắn thằng nhỏ sẽ ngôn ngữ như lưu. Rồi nàng mong: Nếu Phi Lạc chỉ học lóm mà tài ba như trong tiểu thuyết nàng tả, thì thằng này mà dạy dỗ hẳn hoi, ắc du thuyết xuất chúng chớ chẳng không.
Nàng đặt tên cho nó là Xích Tử.
Đây nói về Hồ Chí Minh, ở trong một hang đá vùng núi non Bắc Việt khi đọc xong bộ tiểu thuyết Phi Lạc sang Tàu và nghiền ngẫm kỹ, thì lấy làm thắc mắc. Giữa Nga cộng sản và Tàu cộng sản, sẽ có một xích mích sao? Rồi người cộng sản Việt sẽ ngã về bên nào? Hay là chọn một đường lối thứ ba, ngay trong cái thế giới cộng sản? Càng thắc mắc hơn nữa là mấy cái chấm chấm với lời ghi chú ở dưới, rằng không thể lộ bí mật Quốc gia (1) trong lúc này. Tại sao Thu Hương không báo cáo cho trọn vẹn mà nói nửa úp nửa mở như thế? Hay là nàng đã phản đảng mà không chịu làm tròn sứ mạng?
Vốn đa nghi, Chí Minh liền hạ lịnh gọi Nga (2) đến mà cắt nghĩa rành rẽ công việc đã giao phó cho Thu Hương và kết quả đã thu lượm được là bản báo cáo còn một lỗ trống lớn là quyển Phi Lạc Sang Tàu. Và nói:
- Bác chắc chắn là con Thu Hương đã mê thằng đó mà phản đảng, nên giấu chỗ bí mật quan trọng. Vậy bác giao cho cháu một công tác quan trọng hơn. Công tác này gồm có ba phần. Phần thứ nhất là điều tra xem con Thu Hương có phản chăng. Nếu thật nó phản thì phải thủ tiêu nó để trừ hậu hoạn.
(1) Muốn hiểu nhân vật này, nên xem lại Thu Hương. 
(2) Muốn hiểu rõ đoạn này, độc giả nên xem lại Phi Lạc sang Tàu. 
Phần thứ hai là phải dùng đủ cách để tìm ra cái chấm chấm trong PHI LẠC SANG TÀU mà báo cáo cho bác rõ. Cách báo cáo cũng y như lối của Thu Hương đã dùng là viết một bộ tiểu thuyết mà lòng lời báo cáo vào. Để cho bác nhận biết, cháu cũng nên lấy bút hiệu Ý Dư mà con Thu Hương đã dùng. Và phần thứ ba là tìm thêm coi ngoài những bí mật nhốt trong chấm chấm đó, hắn ta còn giấu cái gì thêm chăng. 
 Nga lãnh lịnh, băng rừng núi, sang qua Tàu, đến Hồng Kông giả làm xẩm mà sang Chợ Lớn.
Sau một thời kỳ điều tra kỹ lưỡng, nàng nắm những bằng cớ chắc chắn rằng Thu Hương đã mê chồng, mà phản đảng, lại toan gởi gấm bí mật lại về sau cho con là thằng Xích Tử nó khai thác. Nàng bèn thi hành phần thứ nhất của công tác. Nàng bèn cho hai lực sĩ Tàu, thừa lúc Thu Hương đi Chợ Lớn ban đêm mà bắt cóc nàng, đâm chết rồi vứt thây xuống kinh. Hạ thủ xong rồi, nàng tìm cách mà tới lui nơi đường hẻm Frère Louis mà tìm cách làm quen với Hồ Hữu Tường. Đến nhà số 6, nàng thấy ngoài cửa có treo một tấm bảng thiếc nhỏ, trên có viết ba chữ «trị bịnh mũi». Nàng nhìn vào trong, thấy nơi bàn giữa, có một người tuổi gần bốn mươi ngồi xếp bằng trên ghế mà viết. Nàng bước vào cúi đầu chào, thì người ấy vừa mời nàng ngồi vừa nói:
- Mời cô ngồi và cô cho phép tôi năm phút viết cho hết đoạn văn này.
Nga ngồi, liếc nhìn xem hắn ta viết gì trong tập giấy dày. Té ra là một đoạn văn tả lúc nàng Thu Hương mua dưa mà mời một người lùn ăn. Nga hỏi:
- Ông viết tiểu thuyết à?
Người ấy viết xong đoạn văn, buông viết xuống xô tập giấy qua một bên và nói:
- Muốn hiểu là tiểu thuyết, là hồi ký, là điếu văn chi cũng được. Nhân vật chánh trong tiểu thuyết này quen biết với tôi nhiều lắm. Gần đây, nàng thình lình mất tích. Tôi nghĩ nàng bị hại...
Nga chận ngang hỏi:
- Tại sao ông nghĩ như vậy?
- Vì tôi biết chắc rằng cộng sản không bao giờ dung tha những cán bộ nào của họ mà trở lại phản họ, hay là họ bị nghi như vậy. Sau khi nàng mất, tình cờ có người cho tôi mượn những số Sài Gòn Mới có đăng câu chuyện dài Ngàn Năm Một Thuở ký tên là Ý Dư. Đọc xong chuyện này, tôi hiểu ngay Ý Dư chính là nàng Thu Hương. Nàng đã dùng tiểu thuyết mà trình bày viễn đồ chánh trị mà tôi đã nói cho nàng nghe. Nếu nàng để tiểu thuyết cho con sau này sẽ đọc, thì là không sao. Đằng này nàng đem ra đăng lên báo. Báo ấy lọt vào mắt của các lãnh tụ C.S. Những lãnh tụ này thấy đoạn chấm, chấm, chấm, mà nàng giấu, sẽ quả quyết rằng nàng báo cáo công tác không trọn ấy là nàng đã phản đảng. Họ đã nghi như vậy, thì tất nhiên họ hạ lịnh cho ban ám sát giết Thu Hương.
Nga giả vờ không hiểu, hỏi:
- Đoạn chấm, chấm, chấm là đoạn gì?
Họ Hồ mở tủ lấy một xấp báo, lật ra mà đọc một đoạn dài. Xong rồi tóm tắt:
- Đoạn chấm, chấm, chấm ấy là khi nước Tàu hùng cường, đe dọa chinh phục thế giới, cũng như hồi xưa nước Tần đe dọa tóm thâu lục quốc, thì nước Việt ta tung ra một kế sách để làm chủ hoàn cầu, khiến cho Tàu bơ mỏ.
Nga làm vờ như từ cung trăng rớt xuống, mượn xấp báo đọc lại kỹ rồi nói:
- Té ra cái viễn đồ chánh trị ấy là do ông vạch ra sao?
- Phải.
- Ông không sợ cộng sản giết ông để chôn mất cái bí mật ấy sao?
Họ Hồ cười hì hì, rồi nhỏ giọng xuống nói:
- Nói nho nhỏ cho hai bà vợ tôi đừng nghe mà cùng một lượt phát ghen với người đã chết là Thu Hương. Thú thiệt với cô rằng Thu Hương đã có một đứa con trai với tôi tên là Xích Tử. Cái bí mật ấy đã viết thành cẩm nang cho ngày sau Xích Tử sẽ đem ra mà áp dụng. Cộng sản có giết tôi bây giờ cũng không ngăn được sự thực hiện của cái bí mật nọ. Điều mà họ cần là để cho tôi sống, rồi dùng một phương thuật mà moi móc cho ra cái bí mật ấy, trước khi nó được đem ra áp dụng. Để có thời giờ chuẩn bị mà đối phó chớ! Cái bí mật ấy là cái bùa hộ mạng của tôi đa. Họ giết tôi, họ nào có ngăn được việc thằng Xích Tử ra tay «đổi đời»!
Nga không biết kéo dài câu chuyện theo hướng này bằng cách nào nữa, bèn đánh trống lãng hỏi:
- Ông trị bịnh mũi à?
Họ Hồ đáp:
- Ở xứ ta, nghề cầm bút không đủ nuôi người, tôi phải có thêm một sanh kế. Tôi trị bịnh mũi bằng thuốc gia truyền. Thuốc này từ đời ông Đào Duy Từ truyền lại cho đến ông Đào Duy Chung là ông ngoại vợ tôi, sang qua cho chúng tôi... Cô đau thế nào?
Nga đứng dậy, bước sang mé bàn bên họ Hồ, ngoảnh mặt, đưa mũi lên, kê sát mũi lại gần mẳt họ Hồ và nói:
- Tôi đau trong này, mời ông nhìn vào lỗ mũi xem bịnh tình ra sao.
Họ Hồ không để ý cúi xuống, nhìn thẳng vào mũi nàng kê mặt sát gần. Nga thừa lúc không chuẩn bị ấy, tấn công thình lình bằng cách hun vào mặt hắn. Hắn chưa kịp đối phó ra sao cả, thì ở trong buồng bước ra một người đàn bà, mặt căm tức, giọng rổn rảng nói:
- Con đĩ này! Mày đi xem bịnh như vậy à? Đi cho mau kẻo tao đánh chết bây giờ!
Nga hết hồn thoát ra cửa. Nàng còn nghe văng vẳng:
- Mấy con này hết chỗ nói rồi! Mẹ thằng Tuệ, tôi còn nhường cho nó được, vì nó có chút ơn nghĩa giấu mình lúc Việt Minh tìm bắt mình ở Hà Nội. Chớ làm sao tôi chia xẻ tình yêu cho đám đầu đường, xó chợ? Mà tụi nó, đứa nào cũng đẹp, đứa nào cũng ăn nói như nước chảy, đứa nào cũng săn chồng có nghệ thuật, không khéo mà tôi bị cướp chồng mất. Thôi, mình đừng ở xứ này nữa. Mình đi Tây đi, đi trước một mình. Tôi bán thuốc kiếm tiền vài năm, tôi sẽ dắt con theo. Chớ mình ở đây không được nữa!
Nga đứng nép phía ngoài, nghe cả tràng xổ ghen trên, nở một nụ cười đắc chí. Từ ngày có máu lửa ở Hà Nội, nàng điền vào đoàn «dịch vận», bấy lâu nay đã lập nhiều công tác hay, song chưa bao giờ thực hành được cái kế huyền diệu như lần này. Chỉ bằng một cái hun bất ngờ, không xin phép trước, nàng đã đốt ngòi cho một cuộc ghen tuông sôi nổi. Rồi đây Hồ Hữu Tường sẽ bị vợ «đày» qua Pháp. Ấy là cái kế «điểu hổ ly sơn». Ở Pháp họ Hồ sống một mình, buồn bực, cần có người tâm sự, thì nàng sẽ có mặt tại Paris mà an ủi họ Hồ, dụ họ Hồ, gạt họ Hồ, ép họ Hồ lộ ra cái bí mật mà Thu Hương không chịu báo cáo. Nàng lập tức lại Công an, lúc ấy do người Pháp điều khiển, mà nạp đơn xin giấy thông hành sang Pháp. Từ sở Công an nàng lập tức bước qua sở Bưu điện mà mua một cái măng đa mười ngàn đồng đề tên Hồ Hữu Tường và kèm theo cái thơ sau đây:
Sài Gòn, ...1949
«Kính ông Hồ Hữu Tường,
Tôi là một độc giả của TƯƠNG LAI VĂN HOÁ VIỆT NAM, cảm mến cái mộng lớn của ông là muốn cho dân tộc Việt xây dựng được một sự nghiệp văn hóa làm cho dân tộc ta vinh quang. Tôi lại được đọc bài TÂN XUÂN THU của ông, tôi thầm nghi rằng ông nuôi riêng cho ông cái ý muốn làm một nhà tư tưởng lớn của thế kỷ XX. Tôi cũng tán thành việc ấy. Song tôi nghĩ rằng ông rời Âu Châu từ năm 1930, trong mười chín năm nay, đã xuất hiện bên ấy biết bao nhiêu tư tưởng mới. Thì điều cần cho ông là nên trở qua Tây, để gần gũi những tư tưởng mới ấy. Rồi ông có sáng tạo gì, sẽ không phải giẫm vào vết cũ của người ta.
Vậy tôi biếu cho ông mười ngàn đồng bạc này. Ông đóng tiền thế chân hai ngàn rưởi, mua giấy tàu hai ngàn rưởi, sắm một bộ đồ nỉ một ngàn. Còn lại bốn ngàn, ông có thể sống ba tháng ở Pháp. Nếu công việc nghiên cứu văn hóa của ông xong, thì ông có thể về. Nhược bằng không có muốn ở lại thêm, thì ông có thể làm phái viên cho một tờ báo mà sống thêm với tiền nhuận bút.
Chúc ông thành công trong cuộc nghiên cứu văn hóa này. 
Một độc giả ẩn danh»
*

*

Đây nói về Hồ Hữu Tường, sau khi bị trận ghen oan và bị vợ hăm «đày» qua Tây, thì lấy làm thắc mắc, không biết vì sao mà có một cô quá bạo, quá kỳ cục, hun đại mình như vậy. Hắn còn suy nghĩ không tìm ra động cơ nào xúi giục nàng làm như vậy, thì được cái thơ đảm bảo với cái măng đa mười ngàn đồng bạc. Hắn liền tìm thấy ngay duyên cớ, cười xòa rồi tự hỏi một mình:
- Độc giả ẩn danh này và cô hôm nọ chỉ là một. Nàng muốn đẩy ta vào một tình thế «biệt lập» để mặc tình dò la, xem xét, điều tra. Được. Ta cũng tương kế tựu kế một phen. Năm 1945, ta đã công khai tuyên bố ở Hà Nội rằng ta nghĩ làm chánh trị trong mười năm. Mà nghĩ làm chánh trị, lại ở ngay trên sân khấu chánh trị là Sài Gòn này, cũng ngứa ngáy lắm. Chi bằng dùng số tiền này mà đi phức qua Tây, ở ít năm chơi. 
Nói rồi sửa soạn đi lãnh tiền, đến Công an lo giấy tờ sang Pháp. Rồi hắn viết một bài tạm biệt công chúng để công khai báo tin rằng mình sắp sang Âu. Cô Kiều Yêu hay tin, lập tức gởi lên một văn thơ nữa:
Giờ đây thật sự tếch sang Âu
Khi đến Paris, công việc đầu tiên là hắn ta đến Thơ viện quốc gia mà tra cứu. Trong hơn tám triệu quyển sách của Thơ viên này, hắn ta không tìm sách mới xuất bản mà đọc, lại tìm tới tác phẩm cũ xưa của phương Đông. Sau một thời gian nghiền ngẫm, tra cứu, hắn ghi trong nhật ký những điều sau đây:
Paris, ngày... 1949
«Vừa đến Paris, tôi lại Thơ viện quốc gia ngay. Để tìm một thắc mắc mà suốt mấy năm nay, tôi giãi ra không nổi. Vốn ông nội tôi, là Hồ Văn Điểu, là con nuôi của ông cố tôi, mà người mẹ đem cho lại không xưng tên họ, cũng không nói cha sanh ra là ai cả. Bà chỉ dạy nên thờ hai chữ «KẾ THẾ» và nói rằng sau này con cháu đứa nào thông minh sẽ tìm ra được tông tích của dòng họ mình. Tôi tự cho rằng có chút thông minh nên suốt mấy năm nay, tôi tìm mãi xem tôi từ dòng máu nào mà có. Năm 1945, tôi ra Hà Nội, có ý muốn tìm tới Thơ viện khổng lồ của trường Đông phương bác cổ những tài liệu có thể soi sáng được điểm còn mờ tối đó.
Theo lời truyền khẩu, từ khi ông cố tôi qua đời, trong nhà không có tiền sắm quan tài, thì bà cố tôi đêm vật quí báu hơn hết trong nhà là cái hộp gấm đựng một quyển sách mà bán cho một người Tàu để lấy tiền trang trải đám tang: hộp gấm này của người đàn bà sanh ra ông nội tôi giao cho, để làm của gia bảo. Ngoài hộp gấm có đề bốn chữ: «Truyền thế chi bảo». Cuốn sách trong hộp tên là «Hoa dinh cẩm trận». Suốt mấy năm ở Hà Nội, tôi lục lạo ở Thơ viện của trường bác cổ, không thấy nói chi tới hai cái tên sách ấy.
Nhưng trong lúc tôi tránh bom đạn, rời Hà Nội mà lánh ở nhà quê, tôi có gặp một ông già nói rằng đời vua Tương Dực nhà Lê, nhà Minh bên Tàu sai sứ sang nước ta, có gởi tặng vua Tương Dực một quyển sách tên là «Hoa dinh cẩm trận». Có phải là quyển sách do nhà Minh tặng cho vua Tương Dực chính là quyển mà bà cố tôi đã bán cho người Tàu hồi trước chăng? Và do duyên cớ nào mà quyển sách độc nhứt trong kho tàng của nhà Lê lại lọt vào gia đình tôi trong ít năm? Rồi bây giờ nó lại ở đâu? Trong tay ai? Nếu tìm ra quyển này, ắt rọi được một tia sáng vào vấn đề mà tôi thắc mắc. 
Paris, ngày... 1949
Tôi tìm mãi những tài liệu thấy được để áp dùng phương pháp mà sử học hiện nay gọi là khoa học. Mà không được. Tôi nhớ lại những lời tôi nói với Thu Hương về giá trị của những huyền thuyết. Biết đâu huyền thuyết lại nói được sự thật?
Huyền thuyết mà tôi nghe nói hồi nhỏ là Ngọc Hân công chúa giả chết dắt con trai là Quang Thiệu trốn vào Nam. Nếu nhận huyền thuyết này là đúng, thì quyển «Hoa dinh cẩm trận» của đời Tương Dực được vua nhà Lê truyền đến Lê Hiến Tông, rồi sang qua tay Ngọc Hân công chúa. Khi công chúa dắt con đi trốn, bà đem theo của gia bảo này để đời sau biết người truyền của có dính dấp nhiều tới bà... Nếu theo giả thuyết này, thì ông nội tôi, Hồ Văn Điểu, là dòng của Quang Thiệu, con đẻ của Ngọc Hân chăng?
Paris, ngày... 1949
Chánh phủ Anh vừa gởi tặng cho chánh phủ Pháp một cái hộp gấm mà chánh phủ Pháp vừa giao cho Thơ viện quốc gia cất giữ. Hộp gấm làm theo kiểu các hộp đựng sách của phương Đông, có chốt gài, gói trọn hai quyển sách ở trong. Người phụ trách mở hộp ra, trầm trồ khen là đẹp. Tôi ngồi gần đó, liếc mắt nhìn, thấy quyển nằm trên nhan đề bằng tiếng Anh: «Love’s battles», mặc dầu đóng kiểu theo cách Tàu. Còn quyển sách nằm trong hộp, khi đem ra, bày hàng chữ Tàu «Hoa dinh cẩm trận».
Mắt tôi hoa lên. Quyển sách mà tôi tìm suốt mấy năm nay, bây giờ ở đây! Tôi đứng dậy bước lại xin phép xem thái qua. Người phụ trách đưa cho tôi cầm quyển «Love’s battles». Mặc dầu tôi rất dốt về Anh ngữ, tôi cũng ráng đọc và hiểu sơ sơ như sau: quyển «Love’s battles» là bản dịch ra Anh ngữ của quyển «Hoa dinh cẩm trận», dịch giả là một người Anh, làm nhân viên ngoại giao ở Nhựt, sau thế chiến thứ hai, mới được phép xem kho sách quí của Nhựt hoàng mà thấy được quyển «Hoa dinh cẩm trận» này. Sách viết từ đời nhà Minh, do một đạo sĩ trước tác cho vua nhà Minh xem, có phụ bản màu, do đạo sĩ vẽ, và chỉ có một bản cho vua xem mà thôi. Dịch giả cho rằng khi liên quân công hảm Bắc Kinh, mỗi nước đều cướp của quí về nước, thì quân Nhựt biết giá trị của quyển «Hoa dinh cẩm trận», nên đoạt lấy mà đem về cất trong kho của Nhựt hoàng. Nay Nhựt thua trận, các sứ thần nước Đồng minh mới được viếng kho này, thấy được sách quí, nên dùng phương pháp chụp hình tối tân mà xuất bản năm chục quyển, cùng bản dịch ra tiếng Anh, để tặng mỗi nước Đồng minh một quyển...
Đọc lời dẫn của dịch giả mà tôi rất hồi hộp. Dịch giả nói rằng quân Nhựt lấy được quyển này khi liên quân lấy thành Bắc Kinh, có lẽ đó là một giả thuyết để cắt nghĩa do đâu mà quyển sách độc nhứt của nước Tàu lại sang tay người Nhựt. Còn tôi, tôi chấp nối cái huyền thuyết. Sách vua Minh tặng cho vua Tương Dực, truyền đến Hiến Tông. Vua này cho sách cho con gái là Ngọc Hân. Ngọc Hân trốn vào Nam, đem của gia bảo ấy theo. Của ấy lọt vào tay bà cố tôi một lượt với ông nội tôi. Bà cố tôi dốt đem bán rẻ cho người Tàu. Người này biết giá trị của sách, mang sang Nhựt mà bán cho vua Nhựt. Âu là một cái huyền thuyết, ai muốn tin thì tin. Không tin thì xem là một truyện tiểu thuyết, coi chơi đỡ buồn...
Paris, ngày... 1949
Tôi được người giữ sách cho cái đặc ân được độc quyển «Hoa dinh cẩm trận». Có thể gọi sách ấy là «Ái tình kinh» vì sách dạy đôi nam nữ yêu nhau như thế nào cho đạt đến cái tuyệt đỉnh của hạnh phúc. 
Lúc tôi còn sinh viên, tôi đã đọc hàng mấy chục quyển sách do tác giả người Âu viết để dạy người ta «yêu». Những sách này, dựa vào «khoa hoc» không đưa con người thoát cái vòm của xác thịt. Nay đọc sách này, tôi thấy vị đạo sĩ đời nhà Minh dắt ta thoát xa cái vòm ấy mà lên thượng tầng của tình yêu, đưa cái tình lên hàng một cái «đạo». Và sách ấy được gọi là «kinh» cũng không phải là quá đáng.
Rồi tôi cho rằng cái huyền thuyết nói rằng sách đã qua tay của Ngọc Hân có phần gần sự thật. Một nữ thi sĩ như Ngọc Hân mới có một tâm hồn tế nhị mà áp dụng cái đạo của ái tình. Và vua Hiến Tông cho sách cho con, ấy bởi có dụng ý rằng nàng công chúa sẽ làm cho Nguyễn Huệ đến tuyệt đỉnh của hạnh phúc, rồi do đó mà nương tay đối với cơ đồ bên vợ.
Paris, ngày... 1949
Hôm nay tôi dạo xóm La Tinh. Trên đường Saint Michel thình lình tôi gặp nàng đã hun lén tôi và đã gởi tặng tôi mười ngàn đồng bạc, nàng mừng tíu tít nói:
- Tôi sang đây hơn tháng nay. Tìm anh mãi mà không gặp. Anh ở đâu? Anh dắt tôi lại phòng anh cho tôi biết để sau đến chơi.
Nàng vừa nói, vừa liếc mắt đưa tình. Tôi biết rồi. Nàng đương dùng những tiểu xảo của «địch vận» mà bủa tôi vào lưới. Nàng có dè đâu, tôi đã đọc xong quyển «Hoa dinh cẩm trận» thì trong nghệ thuật của tình yêu, tôi có biết bao nhiêu bửu bối mà «địch vận» lại nàng...
Vài tuần sau, báo «Sài Gòn Mới» khởi đầu đăng một tiểu thuyết dài nhan đề là Phi Lạc náo Hoa Kỳ, dưới chữ ký của Ý Dư. Người biết đọc văn ắt thấy rằng Ý Dư này không phải là người đã viết Phi Lạc sang Tàu. Vì Nga đâu phải là Thu Hương mà nàng đã hạ lịnh cho lực sĩ Tàu giết chết.
Và quyển «Hoa dinh cẩm trận» đã công hiệu vì Nga mê họ Hồ cho đến nỗi họ Hồ vẽ làm sao, thì nàng viết y vậy. Họ Hồ biểu nàng bố cuộc dẫn đến Trung Cộng chờ thử bom nguyên tử, Phi Lạc hết kế, đòi đi tìm thầy mà hỏi, nàng cũng vâng theo mà làm y như vậy.
Đây nói về phòng Thông Tin Cộng sản ở Mốt cu, sau khi Mao Trạch Đông toàn thắng ở lục địa Trung Hoa, thì phân vân bất nhứt. Bởi Mao đã cải lịnh của STALINE mà bạo động cướp chánh quyền, bây giờ không biết Mao sẽ đi theo đường lối nào. Bỗng nhiên viên thơ ký được một bức thơ, đóng dấu từ Paris gởi sang, viết bằng tiếng Việt. Cho dịch ra tiếng Nga, thì viên thơ ký đọc được thơ rằng:
Paris, ngày... 1950
Chủ nghĩa Mác Lê của các ông cho rằng động cơ chính của lịch sử là cuộc giai cấp tranh đấu mà hình thức hiện đại là chiến tranh lý tưởng. Cái thuyết «thế giới hai phe» của Staline, dạy rằng thế giới chia ra hai phe: một phe tư bản, một phe cộng sản, hai bên chống đối nhau là áp dụng của chủ nghĩa Mác Lê cho tình thế sau chiến tranh thứ hai này. Tất cả cái đó đều sai lầm và sẽ dẫn nước Nga vào đường bại vong. 
Động cơ chánh của lịch sử là cái gì thường tại và to tát hơn sự giai cấp tranh đấu. Động cơ ấy là sự tranh giành giữa các dân tộc. Nước Nga sẽ thấy điều đó. Và nếu không sớm chuẩn bị, Nga sẽ chịu chua cay suốt mấy trăm năm.
Năm nay, Mao Trạch Đông vừa thành công ở Tàu. Nga chớ nên tin rằng Tàu sẽ ở mãi một phe với Nga trong cái «thế giới hai phe». Trong mấy năm đầu, Tàu sẽ làm vờ như vậy: để tránh cái vạ bị cô độc. Song Tàu núp theo Nga cũng như đứa nhỏ tập lội mà ôm cây chuối, khi nó biết lội rồi, nó sẽ buông cây chuối mà lội một mình. Thì khi Tàu trưởng thành rồi, Tàu sẽ buông Nga mà đi con đường riêng của Tàu.
Con đường riêng của Tàu là gì? Tàu là nước chậm tiến, dân số đông, muốn rượt kịp các nước tiền tiến, chỉ có lối là dùng số đông của mình mà cướp tài vật của các dân tộc khác. Con đường của tàu là con đường chinh phục. Chinh phục Đông Nam Á, Ấn Độ là xứ nghèo, việc ấy chưa làm đã khát vọng của mấy trăm triệu dân Tàu đâu. Hướng qua Đông để đánh Nhựt, đánh Hoa Kỳ, thì Tàu bị đại dương ngăn cách mà Tàu không có hạm đội hùng hậu để vượt biển. Điều kiện ấy bắt buộc Tàu đi theo con đường của Thành Cát Tư Hãn là Tây chinh.
Nhắc tới Thành Cát Tư Hãn, dân Nga hãy còn nhớ đến cái ách đô hộ của Mông Cổ suốt hai trăm năm, từ thế kỷ thứ mười ba tới thế kỷ mười lăm. Nhưng lần này, nếu Nga bị Tàu đô hộ, Tàu sẽ áp dụng chánh sách độc tài mà chính Staline đã rèn ra để một thiểu số cai trị cả xứ Nga. Bây giờ với cái chánh sách độc tài ấy, sáu bảy trăm triệu dân Tàu dễ gì để cho hai trăm triệu dân Nga lật được?
Nga chưa tin à? Thì cứ việc theo con đường lý tưởng mà ủng hộ cho Tàu ít năm đi, thì coi sự thể ra sao. Nhưng ngay bây giờ, phải chuẩn bị kế hoạch để chận Tàu, khi Tàu ló mòi xâm lăng. Gần đây có một người Việt có đăng trong Sài Gòn Mới một tiểu thuyết đề tên là Phi Lạc Náo Hoa Kỳ. Nói là Náo Hoa Kỳ, mà thật sự là để nói chuyện với Nga đó. Sở trường của Tàu là chiến tranh du kích, chiến tranh lý tưởng, chiến tranh biển người... bởi Tàu là số đông. Phỏng Tàu có bom nguyên tử, thì Nga dùng cái gì để cự lại nổi. Dân Nga còn nhớ cuộc xâm lăng của Hitler chăng? Nga còn nhớ cuộc xâm lăng của Napoléon chăng? Nhưng cái ấy không có gì tất cả, sánh với cuộc xâm lăng ồ ạt của Mao Trạch Đông đâu!
Tác giả của Phi Lạc Náo Hoa Kỳ dự đoán rằng Tàu sẽ có bom nguyên tử. Người ấy là một người đàn bà, làm họa sĩ, hiện có mặt ở Paris tên là Nga. Biết như vậy, nàng ắt biết cách ngăn ngừa sự hùng cường của nước Tàu. Kế hoạch ấy có thể Nga mua chuộc được, nhứt là nàng có nhuộm ít nhiều tư tưởng cộng sản. Mua chuộc bằng gì? Bằng địa vị, tiền bạc, danh vọng và tình ái. Những cái này nước Nga có thừa thải để trả cho nàng bằng một cái giá cao, thật cao. Nga đã dám xài để mua bí mật nguyên tử, thì lẽ nào Nga không chịu tốn để ngăn đón sự tấn công ồ ạt của Tàu?
Ký tên: Một người biết việc
*

*

Khi Staline đọc bản dịch của thơ này, thi phản ứng đầu tiên là một sự giận dỗi, giận sao có thằng Việt dám lớn lối công kích thuyết giai cấp đấu tranh của Mác Lê và lý thuyết thế giới hai phe của mình. Song nằm suy nghĩ cả đêm, gẫm bức thơ nên nhiều điểm cũng có lý. Ví dụ những điểm này chỉ có một phần ngàn là đúng, mà cái phần ngàn kia lại hóa ra sự thật, thì làm sao? Chi bằng đề phòng là hơn. Staline bèn hạ lịnh cho đảng Cộng sản Pháp điều tra coi nàng họa sĩ tên Nga là người thế nào và đưa kế hoạch nào mà rước nàng sang Nga được. Đảng Cộng sản Pháp ha lịnh cho người Việt cộng sản ở Paris làm công tác ấy. Sau khi điều tra xong, họ nạp bản phúc trình như thế này:
1) Nga hiện là tình nhân của Hồ Hữu Tường. Vậy muốn cho nàng rời họ Hồ, thì gởi thơ cho hai bà vợ của họ Hồ ở Sài Gòn hay. Hai bà nổi ghen, lật đật sang Paris để bắt ghen. Nga sẽ sợ mà lánh đi. Tức nhiên nàng sẽ rời bỏ họ Hồ. 
2) Khi nàng rời họ Hồ, thì dụ cho nàng sang mở cuộc triển lãm về họa phẩm. Nàng ham danh, sẽ chịu sang Nga.
3) Muốn buộc chân nàng ở Nga, thì mua chuộc nàng bằng địa vị và tiền bạc. 
4) Còn muốn khai thác nàng để tìm bí mật giấu, thì nên dùng thuật tình ái. Cung cấp món này nhiều hơn họ Hồ đã cung cấp cho nàng, ắt nàng sẽ xiêu lòng.
Staline xem phúc trình xong, chấp nhận cả. Vài tháng sau, vợ con Hồ Hữu Tường sang Paris. Quả nhiên kế thành. Nga bị lừa sang Mốt cu mà mở triển lãm. Bác sĩ riêng của Staline cho chọn trong đám thanh niên Cộng sản Nga một chàng, mà dùng theo thuyết duy vật, có điều kiện tối cao hơn hết để đem món tình ái mà dụ dỗ nàng. Độc giả chắc thừa hiểu rằng theo thuyết duy vật điều kiện ấy thế nào. Người kể chuyện không dám nói rõ chi tiết về khoảng này, sợ e rằng hai nhà phê bình ta là cô Phương Thảo và Dã Hoa sẽ cáo rằng Ý Thừa này thuộc môn phái văn chương của Chu Tử. Nhưng xin nói phớt qua rằng tư tưởng duy vật của thế kỷ XX cũng không hơn gì sự tính toán của Lữ Bất Vi khi chọn Lao Ái mà dâng cho mẹ của Tần Thủy Hoàng. Kết quả là mấy tháng sau, nàng Việt mảnh mai là Nga bị ho lao rồi từ trần, ôm luôn cái bí mật xuống suối vàng.
Khi Nga chết rồi, chàng thanh niên cộng sản bị buộc tôi là «tả khuynh» đi quá mức trong nhiệm vụ, thành ra phá hoại công tác. Hắn bị bắt đày sang Tây Bá Lợi Á mà bị nhốt vào trại giam. Còn Hồ Hữu Tường, khi viết thơ sang Mốt cu cho phòng Thông tin Cộng sản để đề cử cho tình nhân mình làm du thuyết cho Staline, có dè đâu cách làm việc máy móc của bộ máy tổ chức của đảng Cộng, có dè đâu lý thuyết duy vật của vị bác sĩ, có dè đâu sự quá trớn của chàng thanh niên Cộng sản Nga, bao nhiêu sự kiện ấy hiệp lại mà đưa nàng vào cái chết, mà kế hoạch du thuyết hỏng đi. Chừng đó họ Hồ mới ăn năn. Một là thương xót người tình nhân bạc phận của mình, mặc dầu biết rằng nàng là một «địch vận». Hai là thấy rằng lý thuyết và hành động có những tương quan tế nhị lắm. Lý thuyết của mình lập ra, mà do mình thực thi, họa may mới đến kết quả mong muốn. Còn mình vẽ ra một lý thuyết đẹp cho đến bực nào đi nữa mà để cho kẻ khác thực hành, thì cứu cánh lại sai bét với ý định. Bởi nghĩ như vậy mà họ Hồ dẹp cái ý định mượn tay Nga mà chận đón sự bành trướng của Tàu ngay lúc Tàu chớm nở lực lượng.
Còn Hồ Chí Minh khi nghe tin rằng Hồ Hữu Tường đem hết vợ con sang Pháp, cho rằng Hồ Hữu Tường bỏ cuộc một cách hoàn toàn và vĩnh viễn, nên không còn lo hậu hoạn về phía đó. Vả lại cuộc điều tra tư tưởng này đã làm mất hai nàng cán bộ có tài là Thu Hương và Nga, thêm cuộc kháng chiến chống Pháp quá bận rộn nên Hồ Chí Minh lần lần xao lãng và quên phứt vấn đề đã làm cho mình lo ngại. Thấm thoát mà thời gian trôi qua. Đầu năm 1954, thình lình từ trong Nam đánh điện ra báo cáo rằng Hồ Hữu Tường đề nghị «trung lập chế» Việt Nam. Hồ Chí Minh xoa tay cười và tự nói: «Tưởng đâu cái gì, chớ lý thuyết ấy không có gì đáng lo cả. Bây giờ ta điều định làm chủ miền Bắc mà lấy phần chắc. Rồi, sau vài năm, ta cho cán bộ phất cờ «trung lập» mà lấy miền Nam. Khi lấy xong, ta thanh toán cái màn «trung lập» mà xích hóa luôn cả vùng ấy...»
Rồi Hồ Hữu Tường bị bắt, bị kết án tử hình. Một lần nữa Hồ Chí Minh xoa tay cười, chắc chắn rằng phen này không còn tay đối thủ và kế hoạch thôn tính miền Nam không còn bị trở lực, không dè mấy năm sau, cuộc đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Triều, rồi mấy tháng sau, thả Hồ Hữu Tường ra. Hồ Chí Minh có hơi lo. Song đọc được bản báo cáo nói rằng Hồ Hữu Tường bịnh nặng chưa chắc hoạt động được gì, thì yên trí rằng từ đây cho đến khi bịnh giảm thuyên và bình phục hẳn, ắt còn ngày giờ mà nghĩ kế.
Mấy tháng qua, Hồ Chí Minh được một bản báo cáo tường tận như sau:
Miền Nam, tháng chín 1964
«Chúng tôi có lợi dụng được một người thân tín của Hồ Hữu Tường mà điều tra về mưu định và kế hoạch của hắn. Và đây là kết quả của cuộc điều tra ấy.
1) Hồ Hữu Tường mất đứa con nuôi có tài là NGUYỄN PHAN CHÂU, mà trong đám em út của Châu lại không có người lỗi lạc khả dĩ thay thế cho Châu được, thành ra hắn thấy mình cô độc, đơn thương độc mã quá, mà thế cuộc lại bời bời.
2) Các chánh đảng, các đoàn thể, các lực lượng tôn giáo thảy đều không muốn hợp tác với Tường vì sợ lót đường cho hắn. Thành ra Tường không còn chút hi vọng tạo được một mặt trận để làm hậu thuẩn cho mình.
3)
4) Tường nhận thấy mình không cán bộ, không tổ chức, bị cắt đứt quần chúng nên biết phận mình không thể làm chánh trị được. Và hắn chủ trương viết tiểu thuyết mà thôi.
5) Công tác thành lại xúi người ta nườm nượp tới nhà Tường để «làm khách» bằng đủ mọi phương pháp: nào để hỏi thăm sức khỏe, nào để cho tin vịt, nào để hỏi ý kiến về chánh trị và văn chương. Thành ra Tường không làm gì được, mà cũng không viết tiểu thuyết nổi.
«Vậy chúng tôi kết luận: Tường bây giờ nên kể là một con số không, chẳng đáng sợ, chẳng nên lo, kéo một đời tàn vô vị. Vả lại chúng tôi có nghĩ ra một kế hoạch. Hễ hắn hé cái gì, thì chúng tôi cho rải truyền đơn, tổ chức biểu tình để vu cho là hắn xúi dục. Người ta sẽ nghi hắn, bắt hắn mà an tri ở Côn Sơn. Đó là kế «điểu hổ ly sơn». Ra Côn Sơn, hắn sẽ chết mòn. Giỏi lắm là sẽ để lại một vài tiểu thuyết không ảnh hưởng gì cả.»

 

Đọc xong bản báo cáo, Hồ Chí Minh nở một nụ cười khoái trá. Và nói rằng: «Phen này Hồ Hữu Tường có làm gì được nữa chăng?»
Muốn biết Hồ Hữu Tường có làm gì được chăng, hãy xem đến hồi sau phân giải.